Tải bản đầy đủ (.docx) (8 trang)

Đề thi thử văn thpt quốc gia 2019 - Thạc Sỹ Nguyễn Thành Huân - Đề 7 | Ngữ văn, Đề thi đại học - Ôn Luyện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (150.2 KB, 8 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Ths. Nguyễn Thành Huân</b> <b>ĐỀ THI THỬ THPTQG NĂM 2019 </b>


<b>CHUẨN CẤU TRÚC CỦA BỘ GIÁO DỤC – ĐỀ 7</b>
<b>Môn thi: NGỮ VĂN</b>


<i>Thời gian làm bài: 120 phút, khơng kể thời gian phát đề</i>
<b>Họ, tên thí sinh:...</b>


<b>Số báo danh:...</b>


<b>I. ĐỌC - HIỂU (3,0 điểm)</b>


<b>Đọc đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi từ câu 1 đến câu 4:</b>


Đường đi khó, khơng khó vì ngăn sơng cách núi mà khó vì lịng người ngại núi e sơng. Xưa nay những
đấng anh hùng làm nên những việc gian nan không ai làm nổi, cũng là nhờ cái gan mạo hiểm, ở đời khơng
biết cái khó là cái gì.


[…] Còn những kẻ ru rú như gián ngày, làm việc gì cũng chờ trời đợi số, chỉ mong cho được một đời an
nhàn vơ sự, sống lâu giàu bền, cịn việc nước việc đời khơng quan hệ gì đến mình cả. Như thế gọi là sống
thừa, cịn mong có ngày vùng vẫy trong trường cạnh tranh này thế nào được nữa.


[…] Thành công chỉ đến khi bạn làm việc tận tâm và luôn nghĩ đến những điều tốt đẹp. Vậy học trị ngày
nay phải tập xơng pha, phải biết nhẫn nhục; mưa nắng cũng khơng lấy làm nhọc nhằn, đói rét cũng không lấy
làm khổ sở. Phải biết rằng: hay ăn miếng ngon, hay mặc của tốt, hễ ra khỏi nhà thì nhảy lên cái xe, hễ ngồi
quá giờ thì kêu chóng mặt,… ấy là những cách làm mình yếu đuối nhút nhát, mất hẳn cái tinh thần mạo hiểm
của mình đi.


<i>(Trích Mạo hiểm, Nguyễn Bá Học, Q́c văn trích diễm, NXB Trẻ,</i>
Thành phố Hồ Chí Minh, 2018, trang 22)
<b>Câu 1: Chỉ ra phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong đoạn trích.</b>



<b>Câu 2: Theo tác giả, nhờ đâu mà “xưa nay những đấng anh hùng làm nên những việc gian nan không ai</b>
làm nổi”?


<b>Câu 3: Tác giả đã thể hiện thái độ gì đối với “những kẻ ru rú như gián ngày, làm việc gì cũng chờ trời</b>
đợi số, chỉ mong cho được một đời an nhàn vô sự”?


<b>Câu 4: Anh (chị) suy nghĩ gì về câu văn: “Thành công chỉ đến khi bạn làm việc tận tâm và luôn nghĩ đến</b>
những điều tốt đẹp”?


<b>II. LÀM VĂN (7,0 điểm)</b>


<b>Câu 1 (2,0 điểm): Hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh (chị) về ý kiến</b>
<i>được nêu ở phần Đọc hiểu: “Đường đi khó không khó vì ngăn sông cách núi mà khó vì lòng người ngại núi, e</i>
<i>sông”.</i>


<b>Câu 2 (5,0 điểm): </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

<i>Thanh kí của Nguyễn Du (Ngư văn 10, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2019) để nêu nhận xét về phẩm</i>
chất cao đẹp của người nghệ sĩ.


<b> HẾT </b>


<b>---HƯỚNG DẪN GIẢI CHI TIẾT</b>
<b>I. ĐỌC-HIỂU (3,0 điểm)</b>


<b>Câu 1: - Phương thức biểu đạt chính là nghị luận.</b>


<b>Câu 2: - Theo tác giả “xưa nay những đấng anh hùng làm nên những việc gian nan không ai làm nổi” là nhờ</b>
“cái gan mạo hiểm, ở đời khơng biết cái khó là gì”.



<b>Câu 3: - Tác giả thể hiện thái độ phê phán, lo ngại, trăn trở đối với “những kẻ ru rú như gián ngày, làm việc</b>
gì cũng chờ trời đợi số”.


<b>Câu 4: Thí sinh có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau nhưng cần phải nêu được những ý chính sau:</b>
- Con người ta sống ở đời đều muốn theo đuổi để đạt đến thành công. Biến những hoài bão đầy nhiệt huyết
của tuổi trẻ trở thành sự thật. Những khó khăn trở ngại khơng đáng sợ bằng sự ngại khó, ngại khổ, thiếu ý
chí, thiếu nghị lực của con người.


- Đối diện với những khó khăn trước mắt, có người chọn cách thối lui, có người rẽ sang hướng khác, dễ
dàng và đơn giản hơn, dù nó khơng đúng với mục đích của mình. Cịn có những người lại chọn cách nhìn
nhận vấn đề thật lạc quan, và quyết tâm hướng đến mục tiêu của mình với sự nỗ lực cố gắng không ngừng
nghỉ.


- Khát vọng chính là nguồn động lực có sức mạnh vơ biên, tiềm tàng bên trong mỗi con người. Động lực này
được thể hiện qua những hành động liên tục và bền bỉ, để con người không bao giờ từ bỏ ước mơ, khơng bao
giờ khuất phục hồn cảnh.


- Con người khi sinh ra khơng là gì cả chỉ là mầm sống mới được sinh ra chỉ là một đứa trẻ sơ sinh không tên
tuổi. Nhưng bằng tất cả sự nỗ lực không ngừng lòng quyết tâm bền bỉ và ý chí vươn lên thì mầm sống ấy sẽ
lớn lên và sinh hoa kết trái góp cho đời những hương sắc. Và khi chết đi họ đã có được tất cả mặc dù khơng
cịn trên cõi đời này nữa.


- Hãy sống hết mình và khơng ngừng phấn đấu bạn sẽ tìm thấy được tất cả và làm chủ mọi thứ vì: “Tơi chỉ có
thể trở thành kẻ do chính tơi làm ra” mà không phải do ai khác sắp đặt hay ép buộc và tự do chính là cái mà
chúng ta có được.


<b>II. LÀM VĂN (7,0 điểm):</b>
<i><b>Câu 1: (2,0 điểm)</b></i>



<b>A. Về kĩ năng</b>


- Viết về một văn bản nghị luận xã hội với độ dài đúng quy định.


- Bài viết có bố cục chặt chẽ; lập ý sáng tạo; vận dụng linh hoạt các thao tác lập luận: giải thích, phân tích,
chứng minh, bình ḷn…; hành văn mạch lạc, trơi chảy, có cảm xúc; không mắc lỗi dùng từ, chính tả.


<b>B. Về kiến thức</b>


Bài làm có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau nhưng cần đảm bảo các ý sau:
<b>1. Giải thích</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

là một con đường bằng phẳng, dễ dàng nhưng cũng có khi rất nguy hiểm với nhiều chướng ngại vật khó
khăn.


- “Núi” là nơi có độ cao và có nhiều dốc khúc khuỷu.
- “Sơng” là nơi có độ sâu và có nhiều dịng nước chảy qua.


- “E, ngại” là những từ dùng để chỉ thái độ ngại ngùng, nhút nhát với những chướng ngại vật trước mắt.
 Câu nói của Nguyễn Bá Học có nghĩa là đường đi khó khăn với nhiều núi sơng ngăn cách, nếu ta cứ e sợ,
ngại ngùng thì nó vẫn sẽ rất khó đối với ta. Câu nói khuyên ta đừng nên nhụt chí mà hãy cố gắng hết mình thì
việc khó sẽ trở nên dễ dàng.


<b>2. Phân tích và chứng minh</b>


- Con đường đời sẽ khơng làm phụ lịng những người biết vượt lên trong cuộc sống. Người có nghị lực sẽ tìm
được con đường đi đến thành cơng dù là con đường đó chơng gai, khó khăn.


- Mỡi người sẽ có một con đường đời của riêng mình nhưng điểm chung là tất cả mọi con đường đều có
những lúc lên lúc xuống, lúc êm đềm, lúc khó khăn. Chúng ta phải luôn sẵn sàng đối mặt với những gian nan


ấy. Tất cả những khó khăn sẽ khơng là vấn đề to lớn nếu ta bình tĩnh suy nghĩ và có đủ quyết tâm để vượt
qua nó.


- Dẫn chứng:


+ Con đường Hồ Chí Minh đi đến giải phóng dân tộc quả khơng dễ dàng. Chế Lan Viên từng dùng hình ảnh
“viên gạch hồng” mà Bác đã sưởi ấm cả một mùa đơng. Đó mới chỉ là một trong cái khó về thiếu thốn vật
chất thường ngày mà Bác phải trải qua. Để giác ngộ những trí thức hải ngoại thấu đạt được tư tưởng giải
phóng dân tộc của Bác mà hỡ trợ cũng là cả một vấn đề. Xây dựng được cơ sở Đảng phải trải qua mn vàn
khó khăn; tìm kiếm vũ khí; tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế… Đó là những chặng đường Bác đã trải qua.
Những năm tháng tù đày, sống và hoạt động trong vòng bí mật. Sau này giành được hịa bình, con đường Bác
phải tiếp tục là làm cho dân no ấm…


+ Hằng ngày, ta vẫn thấy những bà mẹ nghèo tần tảo nuôi con. Dẫu cho con họ từng bước lớn lên trong từng
bát cơm cơ hàn, nhưng vẫn được đến trường từ gánh hàng rong của mẹ. Điều đó, ta đã từng được nghe, được
thấy trên các phương tiện truyền thông đại chúng. Những đơi vai gầy gị, và gánh hàng còm cõi, họ vẫn đầy
nghị lực và khát vọng hướng con đến con đường tươi sáng với những thiết tha cao đẹp. Ngày ngày, ta vẫn
thấy biết bao người tật nguyền rong ruổi trên khắp nẻo đường. Họ mưu sinh chân chính và trĩu nặng trong
từng bước chân số phận mà lương thiện. Họ đã sống bằng nghị lực phi thường.


 Thật vậy, đường đi khó, khơng khó vì ngăn sơng cách núi mà khó vì lịng người ngại núi e sơng. Nếu ta tin
tưởng vào chính mình, khơng e ngại khó khăn thì dù vật cản có khó đến mức nào thì chúng ta cũng sẽ vượt
qua được.


<b>3. Bàn luận và mở rộng</b>


- Trong cuộc sống, ai cũng mong có được sự thành cơng. Nhưng nó khơng bao giờ tự đến với ta mà chúng ta
cần phải luôn tự tin kiên trì, dũng cảm vượt qua những chơng gai thì chắc hẳn cánh cửa đi đến thành cơng sẽ
mở rộng chào đón ta.



- Cứ e dè, tự ti, khơng dám đối mặt với những thử thách thì ta sẽ không bao giờ tiến bộ được. Khi đã đánh
mất niềm tin, sự quyết tâm thì ta sẽ trở thành người khơng có ý chí, khơng có nghị lực, khơng thể sống tự lập
và có thể bỏ qua nhiều cơ hội tốt đẹp.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

- Thực tế, trong xã hội hiện nay, có khơng ít người ln tự ti, khơng dám thể hiện năng lực của mình. Vậy
những người ấy sẽ đóng góp được gì cho đất nước khi cứ sống mãi trong vỏ ốc của chính mình.


- Đường đời sẽ càng chơng gai nếu những ai nghĩ rằng khó khăn sẽ không vượt qua được, chúng ta cứ thử
một lần bước qua những thử thách, đối mặt với khó khăn thì chắc chắn chúng ta sẽ vượt qua được vì nghị lực
sẽ làm nên tất cả.


<b>4. Bài học nhận thức và hành động</b>


- Là thế hệ tương lai của đất nước, chúng ta phải sống và làm việc hết mình, tự tin và khơng được gục ngã
trước rào cản. Ngay từ khi cịn ngồi trên ghế nhà trường, mỡi cá nhân cần phải không ngừng học tập, trau
dồi, rèn luyện kiến thức, giao lưu học hỏi để chuẩn bị cho mình một hành trang tri thức vững chắc khi bước
vào con đường đời đầy chông gai và thử thách.


- Xã hội cần xây dựng và phát huy lối học tập, giáo dục ý thức cá nhân, hình thành tính tự tin cho mọi người
và biểu dương, những cá nhân dám nghĩ dám làm, có những đóng góp tích cực cho cộng đồng.


- Đường đi nào cũng có nhiều chơng gai, thử thách. Hãy đặt niềm tin vào bản thân, ln quyết tâm, kiên trì
dù núi có cao bao nhiêu, sơng có sâu, hung bạo như thế nào thì chúng ta cũng sẽ vượt qua. Bạn, tôi, chúng ta
hãy cùng nhau đối đầu với khó khăn và đi đến một tương lai tươi sáng.


<i><b>Câu 2: (5,0 điểm)</b></i>
<b>1. Mở bài</b>


<i><b>- Giới thiệu vấn đề nghị luận</b></i>



+ “Niềm vui của nhà văn chân chính là niềm vui của những người dẫn đường đến xứ sở của cái đẹp”
<i>(Pautôpxki). Nguyễn Tuân là một nhà văn như thế. Ông quan niệm: “ Văn chương trước hết phải là văn</i>
<i>chương, nghệ thuật trước hết phải là nghệ thuật và đã nghệ thuật thì phải có phong cách độc đáo” . Với tùy</i>
<i>bút Người lái đò sơng Đà, ngịi bút Nguyễn Tn như nở hoa trong sự hịa phối kì diệu giữa cái đẹp của ngơn</i>
từ với ánh sáng tuyệt mĩ của chiều sâu hình ảnh dẫn đến vẻ đẹp hung bạo và trữ tình của thiên nhiên Tây Bắc
nhất là chất vàng mười nơi tâm hồn con người.


<i><b>- Dẫn ra vấn đề nghị luận</b></i>


<i>+ Bàn về hình tượng người lái đị trong tùy bút Người lái đò sơng Đà của Nguyễn Tn có ý kiến cho rằng:</i>
<i>“Đó là người lao động đầy trí dũng trên sông nước Đà giang”. Ý kiến khác lại khẳng định: “Đó là người</i>
<i>nghệ sĩ tài hoa trong nghệ thuật vượt thác leo ghềnh”. Đó là hai vẻ đẹp nổi bật mang đặc điểm chung của cá</i>
tính Nguyễn Tuân.


<b>2. Thân bài</b>


<i><b>2.1. Khái quát chung</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

<i>- Người lái đò sông Đà được trích trong Tùy bút sông Đà (1960). Đây là kết quả của chuyến đi thực tế lên</i>
Tây Bắc năm 1958. Mục đích chính của chuyến đi tới Tây Bắc cũng là cảm hứng chủ đạo của cả tập tùy bút
là tìm kiếm chất vàng của thiên nhiên Tây Bắc và nhất là chất vàng mười – thứ vàng mười đã qua thử lửa ở
tâm hồn những con người lao động, chiến đấu trên miền núi sông hùng vĩ và thơ mộng. Viết về sông Đà nhà
thơ muốn đề thơ, phổ nhạc vào sông nước quê hương. Cảm hứng sông Đà đã thành nghệ thuật, “thành một
gợi cảm mênh mang” về sông quê, về con người Việt Nam. Và ông cũng là một “Đà giang độc bắc lưu” trên
bình diện nghệ thuật.


<i><b>2.2. Giải thích ý kiến</b></i>


<i>- Người lao động đầy trí dũng” – người lao động với những phẩm chất cao đẹp, đáng trân trọng đặc biệt là</i>
tài trí tuyệt vời và lịng dũng cảm vơ song trong nghề lái đị vượt sơng Đà hung dữ. Nguyễn Tuân là người tài


hoa, uyên bác luôn tiếp cận mọi sự vật ở mặt văn hóa thẩm mĩ để từ đó say mê truy tìm vẻ đẹp độc đáo của
con người và cuộc sống. Với người lái đị sơng Đà, Nguyễn Tuân lại say mê đi tìm vẻ đẹp độc đáo của con
người và cuộc sống. Nguyễn Tuân có những cảm nhận về người lái đò mang nét độc đáo từ vẻ đẹp ngoại
hình đến phẩm chất bên trong, khơng chỉ là người lao động khỏe khoắn từng trải nơi sơng nước mà cịn là
một vị tướng tài ba trong những trận chiến với con nước hung dữ.


<i>- “Nghệ sĩ tài hoa” là khái niệm để ca ngợi những người làm trong ngành nghệ thuật có tài năng xuất chúng,</i>
có phẩm chất hơn người được xã hội công nhận và tơn vinh. Người lái đị được ca ngợi là “người nghệ sĩ tài
hoa” bởi tài năng đã đạt tới trình độ thuần thục, điêu luyện trong nghề lái đò vượt thác. Nguyễn Tn ln
nhìn con người ở phương diện tài hoa nghệ sĩ để đối lập với những con người tầm thường, phàm tục. Với
Nguyễn Tuân những con người bình thường khi thực hiện những cơng việc bình thường trong phạm vi nghề
nghiệp của mình nếu đạt đến độ tinh xảo khéo léo mà người khác khó lịng theo kịp thì được coi là một người
tài hoa.


<i><b>2.3 Cảm nhận</b></i>


- Vẻ đẹp nghệ sĩ của ơng lái đị khơng phải là một người lái đị thơng thường mà là một nghệ sĩ trong nghệ
thuật sông nước như một nhạc sĩ tài hoa chỉ huy dàn nhạc trên con thuyền để vượt qua bản trường ca sông
nước ào ạt kia. Sự tài hoa đến từng động tác thuần thục của ông lái đị mà Nguyễn Tn gọi đó là “tay lái ra
hoa”:


+ Trước Cách mạng, Nguyễn Tuân tách rời cái đẹp khỏi cái có ích, đề cao cái đẹp thuần túy nhưng đó là cái
đẹp của q khứ. Ơng tìm đến những con người tài hoa thiên về lĩnh vực văn hóa nghệ tḥt.


+ Sau cách mạng, Ngun Tn khơng cịn say sưa chắt chiu cái đẹp cho một thế giới nhỏ bé, tù túng, nhà
văn cảm nhận được cái rộng rãi bao la của đất trời, cái nhìn của nhà văn trở nên đơn hậu hơn. Ơng đi tìm cái
đẹp của những người lao động bình thường vì vậy quan niệm về cái đẹp của ông bớt đi sự phù phiếm từng
bước đến với cái đẹp chân chính tiến bộ.


- Nguyễn Tn đã khơng đặt cho nhân vật của mình một cái tên riêng mà gọi bằng một danh từ chung là:


“người lái đị” hoặc “ơng đị”. Từ một con người nhà văn muốn người đọc nghĩ đến rất nhiều người đang
lặng lẽ âm thầm cống hiến trí tuệ và sức lực của mình cho đất nước.


<i>- Người lái đị có ngoại hình khá đặc biệt: thân hình “cao to, gọn quánh như chất sừng chất mun, tay ông lêu</i>
<i>nghêu như cái sào, chân ông khuỳnh khuỳnh như kẹp lấy một cuống lái trong tưởng tượng, giọng nói ào ào</i>
<i>như tiếng nước trước một ghềnh sông”. Nhà văn không chỉ miêu tả ngoại hình mà cịn nhấn mạnh vào sự gắn</i>
bó tình u với nghề sơng nước của con người ấy. Đó là một linh hồn mn thưở của sơng nước này.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

sông Đà hơn một trăm lần rồi và chính tay ông giữ lái khoảng độ sáu chục lần. Ơng hiểu sơng Đà như hiểu
chính mình, nhờ tỉ mỉ như đóng đanh vào tất cả những luồng nước của những con thác hiểm trở. Ông nắm
<i>chắc binh pháp của thần sông, thần đá và “sông Đà như một trường thiên anh hùng mà ông đã thuộc từng</i>
<i>dấu chấm câu, từng dấu chấm than và cả nhưng đoạn xuống dòng”. Cuộc đời của người lái đị sơng Đà cũng</i>
giống như một bản anh hùng ca hào hùng lãng mạn đến lạ kì.


- Dưới ngịi bút của Nguyễn Tn, mỡi một hòn đá là một tên lính thủy hung tợn, tên nào trông cũng ngỗ
ngược, nhăn nhúm và sẵn sàng giao chiến. Cả một trận địa đá với những âm mưu, thủ đoạn nham hiểm đã
được bày ra để sẵn sàng dìm chết con thuyền. Sơng Đà đã giao việc cho mỡi hịn, để chúng phối hợp thành ba
trùng vi nguy hiểm:


+ Trùng vi thứ nhất: sông Đà bày ra năm cửa trận, có bốn cửa tử, một cửa sinh, cửa sinh nằm lập lờ phía tả
ngạn sông. Hàng tiền vệ, có hai hịn canh một cửa đá trơng như là sơ hở, thực chất chúng đóng vai dụ chiếc
thuyền vào tuyến giữa. Ở trùng vi thứ nhất này sóng nước đóng vai trị chính để tiêu diệt chiếc thuyền. Vừa
<i>vào trận chúng tấn công chiếc thuyền tới tấp: “Mặt nước hò la vang dậy quanh mình, ùa vào mà bẻ gãy cán</i>
<i>chèo võ khí trên cánh tay mình. Sóng nước như thể quân liều mạng vào sát nách mà đá trải mà thúc gối vào</i>
<i>bụng và hông thuyền. Có lúc chúng đội cả thuyền lên. Nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng ông đò</i>
<i>đòi lật ngửa mình ra giưa trận nước vang trời thanh la não bại”.</i>


<i>+ Trùng vây thứ hai: “Tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí lệch qua</i>
<i>phía bờ hưu ngạn… Dòng nước hùm beo hồng học tế mạnh trên sông đá đánh khúp quật vu hồi chiếc</i>
<i>thuyền”. Tại trận đánh giáp la cà này, chúng quyết sinh quyết tử với ơng lái đị. Khi chiếc thuyền đã vượt</i>


<i>qua, bọn sông nước cửa tử “vẫn không ngớt khiêu khích, mặc dầu cái thắng đá tướng đứng chiến ở cửa vào</i>
<i>đã tiu nghỉu cái mặt xanh là thất vọng”. Đúng là bọn đá sóng nước hiểm độc!</i>


<i>+ Trùng vi thứ ba: “ít cửa hơn, bên trái bên phải đều là luồng chết cả. Cái luồng sống ở chặng ba này lại ở</i>
<i>giưa ngay bọn đá hậu vệ của con thác”. Tại đây những boong-ke chìm và pháo đài đá nổi ở đầu chân thác</i>
phải đánh tan cái thuyền. Làm ta liên tưởng đến một trận đấu bóng quyết liệt. Chiếc thuyền như một cầu thủ
<i>phải “phóng thẳng, chọc thủng cửa giưa, vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, và như một mũi</i>
<i>tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được lượn được”, tiến về phía khung thành và</i>
cuối cùng đã hết thác.


- Từ cuộc chiến đấu ác liệt với thác dữ sơng Đà, từ sự bình dị của những con người lái đị sau chiến thắng
(khơng lưu danh tên tuổi, chả thấy ai bàn thêm một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua), có thể thấy Nguyễn
Tuân đã khẳng định, ngợi ca vẻ đẹp của những người lao động bình thường, ầm thầm, giản dị nhưng đã và
đang làm nên những kì tích lớn lao trong cuộc chiến với thiên nhiên hung dữ nơi ải nước sông Đà.


<i><b>2.4. Nhận xét và đánh giá</b></i>


- Thế giới nhân vật của Nguyễn Tuân là thế giới nhân vật của nghệ sĩ. Nghệ sĩ uống trà, nghệ sĩ đao phủ,
nghệ sĩ tử tù, những anh bộ đội trực chiến giữa cánh rừng nở đầy hoa đào. Như vậy với Nguyễn Tuân người
nghệ sĩ đâu phải chỉ ở những lĩnh vực sáng tạo nghệ thuật mà còn ở những lĩnh vực khác nhau trong cuộc
sống.


- Người lái đò điêu luyện, thuần thục đến tài tử trong nghề vượt thác. Ông xử lí các tình huống, những thách
thức của thiên nhiên khéo léo và linh hoạt, mỗi động tác của người lái đị như một đường cọ trên bức tranh
thiên nhiên sơng nước, khi thì dũng mãnh và quyết đốn, khi thì mềm mại uyển chuyển.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

<i>qua nơi cửa ải nước. Họ chỉ bàn tán về cá dầm xanh, cá anh vũ và nhưng ống cơm lam trong hang đá”.</i>
Người lái đị sơng Đà coi việc đối mặt với sơng nước hung bạo là chuyện thường tình, khơng có gì đáng nói
những hồi ức về sự hiểm nguy đều khơng có mà tất cả đều là sự lãng mạn ngọt ngào. Đó là khí chất nghệ sĩ ở
mỡi con người bình thường ln ung dung thanh thản sau những thác lũ cuộc đời, nó làm nên sự khác biệt


với những người bình thường khác.


- Có thể nói khả năng làm chủ ngôn ngữ của Nguyễn Tuân thật phi thường muốn “vẫy gió tn mưa”, “hơ
phong hốn vũ” để từ đó dựng cảnh cho người lái đò xuất hiện với tất cả sự tài hoa của người nghệ sĩ lái đò –
một nhân vật đạt đến đỉnh cao của sự toàn mĩ trong cơng việc của mình.


- Người lái đị trí dũng và tài hoa trên dịng sơng hung bạo và trữ tình. Vẻ đẹp của những người lái đị – vẻ
đẹp bình dị, thầm lặng nhưng đầy trí tuệ và sức mạnh, đầy ý chí và nghị lực, tài năng và tài hoa có khả năng
chinh phục thiên nhiên, bắt nó phải phục vụ con người dựng xây đất nước chính là “chất vàng mười” của con
người Tây Bắc nói riêng và người lao đơng Việt Nam nói chung trong thời kì mới.


<i><b>2.5. Liên hệ</b></i>


<i>a. Cảnh cho chữ trong Chư người tử tù</i>


- “Cảnh tượng xưa nay chưa từng có” chứng minh cho sự thăng hoa của tài năng nghệ Huấn Cao, giúp nhân
vật được tỏa sáng. Ở cảnh này Nguyễn Tuân đã gia công kĩ lưỡng bằng thủ pháp nghệ thuật đối lập: ánh sáng
– bóng tối, nhà tù – tự do, cao cả – tầm thường… tất cả đều chứng minh cái đẹp đã thống trị trong cảnh
huống này.


- Một cảnh tượng giàu ý nghĩa bởi mọi ranh giới và quyền lực của sự tăm tối bị xóa mờ, thay vào đó là cái
đẹp lên ngơi. Nó khơng cịn là hình ảnh của người tử tù, thầy thơ lại, quản ngục mà chỉ còn lại những người
bạn tri âm tri kỉ được tận hiến trong không gian nghệ thuật.


- Cảnh cho chữ của Nguyễn Tuân khẳng định được giá trị bất tận của cái đẹp. nó khơng những soi sáng cho
con người trong thiên lương mà còn cảm hóa và thanh lọc tâm hồn con người đến đời sống văn minh, trong
sạch hơn. Rõ ràng, cảnh cho chữ diễn ra trong nhà tù, nhưng mọi rào cản của tù tội đã biến mất.


- Kết thúc cảnh cho chữ Huấn Cao đã khuyên quản ngục chuyển chỗ ở để giữ thiên lương cho lành vững và
<i>quản ngục đã bái lĩnh trong niềm xúc động nghẹn ngào: “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. Điều đó chứng minh</i>


cho giá trị của nghệ thuật: cảm hóa và hướng thiện cho con người.


 Bằng đam mê và khát vọng săn tìm cái đẹp, Nguyễn Tuân đã khẳng định được vị thế của nó đối với con
người và xã hội. Tuy nó khơng có sức mạnh, khơng có quyền lực nhưng nó lại mang tính thống trị, có thể hóa
giải mọi khổ đau, tăm tối trong cuộc đời này.


<i>b. Bài thơ Đọc Tiểu Thanh kí</i>


<i>- Đọc Tiểu Thanh kí là bài thơ gửi gắm tâm sự đồng cảm dành cho những người phụ nữ có tài, có sắc nhưng</i>
có số phận đau khổ. Cùng với Tiểu Thanh, đó là Dương Quý Phi, là nàng Đạm Tiên, là Thúy Kiều, là người
phụ nữ gảy đàn ở Thăng Long…


- Bốn câu đầu là tiếng khóc người, thương người, là lệ dành cho Tiểu Thanh. Nguyễn Du đến với Tiểu Thanh
<i>trong một hồn cảnh có phần giống Kiều đến với Đạm Tiên. Nấm mồ Đạm Tiên: “Sè sè nấm đất bên đường/</i>
<i>Dàu dàu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh” gợi lên ở Kiều bao mối thương tâm. Cái gị hoang nơi chơn Tiểu</i>
Thanh gợi lên ở Nguyễn Du bao điều thổn thức.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

đớn hơn thế nữa, xót xa hơn thế nữa. Nguyễn Du đã khóc cho nàng và bật lên những tiếng nói căm hờn.
- Nguyễn Du tự coi mình là người cùng hội với kẻ mắc nỡi oan lạ lùng vì nết phong nhã. Như vậy là bằng
chính sự thể nghiệm của bản thân, Tố Như thấu hiểu nỗi đau oan khốc của Tiểu Thanh và ngược lại từ Tiểu
Thanh, Nguyễn Du đã “một lời là một vận vào” bản thân để tự hận, tự thương.


- Với Tiểu Thanh, ba trăm năm sau đã có một Nguyễn Du “thổn thức bên song” trước “mảnh giấy tàn”. Còn
với Nguyễn Du, ba trăm năm sau liệu có ai “khóc Tố Như chăng”? “Bất tri” – chưa biết được.


 Có thể nói Nguyễn Du là nhà thơ thuộc thế hệ những nhà đầu tiên của Việt Nam nghĩ về thân phận những
người nghệ sĩ trong xã hội phong kiến. Ông bắt đầu quan tâm đến con người ở phương diện tinh thần, con
người với tư cách là chủ nhân của những giá trị tinh thần như thi ca, âm nhạc, hội họa… Chia sẻ thân phận
bất hạnh của họ, Nguyễn Du thực chất đã đòi xã hội phải biết trân trọng tài năng, trân trong những người làm
ra các giá trị văn hóa tinh thần.



<i><b>2.6. Đánh giá và nhận xét</b></i>


- Cả ba đoạn trích và tác phẩm đều đề cập đến vẻ đẹp và tài năng của những người nghệ sĩ – những con
người đem cái tài của mình để điểm tơ cho cuộc đời.


- Ở ba đoạn trích và tác phẩm ca ngợi cái tài và cái tâm của những người nghệ sĩ nhưng lại có sự khác nhau
về cách nhìn:


<i>+ Nhân vật ơng lái đị trong Người lái đò sơng Đà là một anh hùng sông nước, một chiến binh quả cảm giữa</i>
cuộc sống bình dị, đời thường là “chất vàng mười” đã qua thử lửa của con người vùng đất Tây Bắc mà
Nguyễn Tuân đã chắt lọc và nâng niu trên trang viết cuộc đời.


<i>+ Trong cảnh cho chữ ở truyện ngắn Chư người tử tù, Nguyễn Tuân tìm cái đẹp vang bóng một thời đã lùi</i>
vào quá khứ, ở các bậc siêu phàm – tài nghệ của Huấn Cao là những “bơng hoa cuối mùa cịn vương xót lại
của một thời kì huy hồng – một q khứ vàng son trong lịch sử dân tộc.”.


<i>+ Đọc Tiểu Thanh Kí – tiếng khóc của người đa tình Nguyễn Du là tiếng thơ của một tấm lịng nhân ái mênh</i>
mơng khơng biên giới. Suốt đời ơng khóc cùng người đời, nói lên tiếng nói cảm thương vơ hạn cùng thân
phận của người đời bằng trái tim xót đau và nhạy cảm. Và trong ông, cái day dứt ấy không bao giờ nguôi
ngoai vẫn cứ cịn bật lên tiếng khóc thầm, lặng lẽ ủ kín trong nỗi đau đớn, khắc khoải của nhân gian dài dặc.
- Nguyễn Tuân và Nguyễn Du – hai người nghệ sĩ sống cách nhau hơn hai thế kỉ nhưng ở họ có chung một
điểm gặp gỡ đó là tiếng nói tri âm với những con người có tâm hồn nghệ sĩ.


<b>3. Kết bài</b>


<i>- Bằng ngòi bút tài hoa của mình, tác giả Nguyễn Tuân và Nguyễn Du đã mang đến cho tác phẩm Người lái</i>
<i>đò sống Đà, Chư người tử tù và Đọc Tiểu Thanh Kí một nội dung và nghệ thuật đặc sắc. Đặc biệt qua hình</i>
tượng nhân vật ơng lái đị; nhân vật Huấn Cao trong cảnh cho chữ, nàng Tiểu Thanh tài sắc vẹn tồn. Vẻ đẹp
ấy của các nhân vật đã tơn thêm giá trị của tác phẩm.



</div>

<!--links-->

×