Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

Bảo hộ nhãn hiệu theo quy định của pháp luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.28 MB, 95 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT

VŨ THỊ THANH HUYỀN

BẢO HỘ NHÃN HIỆU THEO QUY ĐỊNH
CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT

TP. HỒ CHÍ MINH – 2018


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT

VŨ THỊ THANH HUYỀN

BẢO HỘ NHÃN HIỆU THEO QUY ĐỊNH
CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM

Ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60.38.01.07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN ĐÌNH HUY

TP. HỒ CHÍ MINH – 2018



LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi và được sự hướng
dẫn khoa học của TS. Nguyễn Đình Huy. Các nội dung nghiên cứu và số liệu được
trình bày là trung thực và rõ ràng. Những số liệu và thông tin được sử dụng để phân
tích, nhận xét, đánh giá được tác giả thu thập từ nhiều nguồn khác nhau và có ghi rõ
trong phần tài liệu tham khảo. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng nhận xét, đánh giá
của các tác giả khác đều có trích dẫn và chú thích nguồn gốc theo quy định của Nhà
trường.

TÁC GIẢ

Vũ Thị Thanh Huyền


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CPTPP

Hiệp định Đối tác Toàn diện và
Tiến bộ xun Thái Bình Dương

SHCN

Sở hữu cơng nghiệp

SHTT

Sở hữu trí tuệ

TPP


Hiệp định Đối tác xun Thái Bình
Dương

TRIPS

Hiệp định về các khía cạnh liên quan
đến thương mại của quyền sở hữu trí
tuệ

WIPO

Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU, HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ
Bảng 3.1: Bảng số liệu thống kê đơn đăng ký nhãn hiệu quốc gia từ năm 1982 –
1999 ...............................................................................................

trang 60

Bảng 3.2: Bảng số liệu thống kê doanh nghiệp mới thành lập và đơn đăng ký nhãn
hiệu quốc gia đã nộp từ năm 2015 – 2016 ....................................

trang 60

Bảng 3.3: Bảng số liệu thống kê doanh nghiệp mới thành lập và đơn đăng ký nhãn
hiệu quốc gia đã nộp từ năm 2016 – 2017 ....................................

trang 61


Bảng 3.4: Bảng số liệu thống kê đơn đăng ký nhãn hiệu quốc gia đã nộp và
vănbằng được cấp cho nhãn hiệu từ năm 2015 – 2017 .................

trang 64


MỤC LỤC
Lời cam đoan
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục bảng biểu, sơ đồ, hình vẽ
Mục lục
MỞ ĐẦU ............................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ NHÃN HIỆU VÀ BẢO HỘ NHÃN HIỆU .................. 6
1.1 Khái quát về nhãn hiệu ................................................................................................. 6
1.1.2 Khái niệm nhãn hiệu ............................................................................................... 6
1.1.2 Đặc điểm nhãn hiệu ............................................................................................... 11
1.1.3 Chức năng nhãn hiệu ............................................................................................ 13
1.1.4 Phân loại nhãn hiệu .............................................................................................. 13
1.2 Bảo hộ nhãn hiệu.......................................................................................................... 17
1.2.1 Quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu.......................................................... 17
1.2.1.1 Khái niệm quyền sở hữu công nghiệp .............................................................. 17
1.2.1.2 Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu ...................................... 18
1.3 Nguyên tắc bảo hộ nhãn hiệu ...................................................................................... 23
1.3.1 Nguyên tắc nộp đơn đầu tiên và nguyên tắc sử dụng đầu tiên ............................ 23
1.3.2 Nguyên tắc quyền ưu tiên ...................................................................................... 25
CHƯƠNG 2: BẢO HỘ NHÃN HIỆU THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT
NAM .................................................................................................................................... 29
2.1 Điều kiện bảo hộ đối với nhãn hiệu ............................................................................ 29
2.1.1 Nhãn hiệu là dấu hiệu nhìn thấy được ................................................................. 29

2.1.2 Nhãn hiệu có khả năng phân biệt ......................................................................... 31
2.1.3 Nhãn hiệu không nằm trong các trường hợp không được bảo hộ ...................... 35
2.2 Xác lập quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu .............................................. 35
2.2.1 Tiêu chuẩn về đơn, chủ thể nộp đơn và quyền đăng ký nhãn hiệu ..................... 36
2.2.2 Trình tự, thủ tục xác lập quyền SHCN đối với nhãn hiệu ................................... 39
2.2.2.1 Thẩm định hình thức và cơng bố đơn đăng ký SHCN đối với nhãn hiệu......... 39
2.2.2.2 Thẩm định nội dung ......................................................................................... 39
2.2.2.3 Cấp văn bằng bảo hộ ....................................................................................... 41
2.3 Thời hạn và phạm vi bảo hộ ....................................................................................... 42
2.3.1 Thời hạn bảo hộ ..................................................................................................... 42
2.3.2 Phạm vi bảo hộ....................................................................................................... 43
2.4 Nội dung quyền SHCN đối với nhãn hiệu.................................................................. 44


2.4.1 Quyền của chủ sở hữu nhãn hiệu ......................................................................... 44
2.4.1.1 Quyền sử dụng và cho phép người khác sử dụng nhãn hiệu ........................... 44
2.4.1.2 Quyền ngăn cấm người khác sử dụng nhãn hiệu ............................................. 45
2.4.1.3 Quyền định đoạt nhãn hiệu .............................................................................. 45
2.4.2 Hạn chế quyền SHCN đối với nhãn hiệu ............................................................. 49
2.4.2.1 Nghĩa vụ sử dụng nhãn hiệu ............................................................................ 49
2.4.2.2 Hạn chế quyền ngăn cấm người khác sử dụng nhãn hiệu ............................... 49
2.4.2.3 Nghĩa vụ nộp lệ phí gia hạn hiệu lực của Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu
..................................................................................................................................... 50
2.5 Hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với nhãn hiệu ................................................ 51
2.5.1 Xác định hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với nhãn hiệu ............................ 51
2.5.2 Bảo vệ quyền SHCN đối với nhãn hiệu ................................................................ 52
2.5.2.1 Biện pháp tự bảo vệ ......................................................................................... 53
2.5.2.2 Biện pháp hành chính ...................................................................................... 53
2.5.2.3 Biện pháp dân sự ............................................................................................. 55
2.5.2.4 Biện pháp hình sự ............................................................................................ 57

2.5.2.5 Biện pháp kiểm sốt hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu ..................................... 58
CHƯƠNG 3: THỰC TIỄN BẢO HỘ NHÃN HIỆU TẠI VIỆT NAM VÀ ĐỊNH
HƯỚNG HOÀN THIỆN ................................................................................................... 60
3.1 Thực tiễn bảo hộ nhãn hiệu tại Việt Nam .................................................................. 60
3.1.1 Xác lập quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu ......................................... 60
3.1.2 Thực thi pháp luật đối với việc bảo hộ nhãn hiệu ................................................ 67
3.1.2.1 Các hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với nhãn hiệu .................................. 67
3.1.2.2 Tình hình thực thi pháp luật đối với việc bảo hộ nhãn hiệu ............................ 69
3.2 Hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam về bảo hộ nhãn hiệu ............................... 72
3.2.1 Kiến nghị hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam về bảo hộ nhãn hiệu.......... 72
3.2.1.1 Quy định về xác lập quyền SHCN đối với nhãn hiệu ....................................... 72
3.2.1.2 Quy định về việc đảm bảo thực thi pháp luật đối với công tác bảo hộ nhãn
hiệu............................................................................................................................... 75
3.2.2 Biện pháp tăng cường hiệu quả công tác bảo hộ nhãn hiệu tại Việt Nam ......... 78
3.2.2.1 Về phía nhà nước và các cơ quan thực thi pháp luật về bảo hộ nhãn hiệu ..... 78
3.2.2.2 Về phía doanh nghiệp ...................................................................................... 81
KẾT LUẬN ......................................................................................................................... 82
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................................. 83


1

MỞ ĐẦU
Sau hơn 10 năm chính thức là thành viên của Tổ chức thương mại thế giới
(WTO), Việt Nam đã có những bước tiến đáng kể và khẳng định vị thế trên trường
quốc tế. WTO đã tạo ra cơ hội cho Việt Nam gia nhập vào sân chơi rộng lớn của thế
giới, không chỉ bằng việc hợp tác với các nước là thành viên (tính đến ngày
29/7/2016, WTO có 164 thành viên)1 mà còn là lực đẩy để Việt Nam mở rộng hơn
nữa việc hội nhập vào các môi trường mới, mà ở đó Việt Nam sẽ có điều kiện tiếp
cận sâu, rộng hơn nữa vào nền kinh tế thế giới cùng với đó là những thách thức để

Việt Nam hồn thiện những chính sách, chiến lược, khung pháp lý cho phù hợp với
xu thế hội nhập chung toàn cầu.
Việt Nam đã ký kết và đang đàm phán rất nhiều hiệp định thương mại tự do thế
hệ mới cả đa phương và song phương như giữa Việt Nam với Liên minh kinh tế Á
Âu (EAEU), Việt Nam với Liên minh Châu Âu (EVFTA), Việt Nam với Nhật Bản,
với Hàn Quốc hay Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương
(CPTPP)…Trong các hiệp định này, các nước thành viên thỏa thuận rất nhiều vấn
đề quan trọng không chỉ trong lĩnh vực kinh tế mà còn quan tâm đến sự thống nhất
các vấn đề xã hội nhằm hướng tới xây dựng một “sân chơi” thương mại tự do
chung. Mỗi vấn đề trong các hiệp định trải qua thời gian và các vòng đàm phán
khác nhau để các bên có thể thỏa thuận và đưa ra được các quy định thống nhất,
minh bạch nhất giữa các nước thành viên. Một trong số các lĩnh vực được đề cập
trong các hiệp định này phải kể đến lĩnh vực sở hữu trí tuệ (SHTT) được coi như
một vấn đề phức tạp và thường để lại đàm phán cuối cùng, vì bản thân lĩnh vực này
có sự quan tâm, sự xác định tầm ảnh hưởng cũng như những quy định khác nhau cơ
bản về khung pháp lý giữa các nước thành viên, mà trên thực tế SHTT đã ngày càng
khẳng định vai trò trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế, đẩy mạnh sự sáng tạo –
được coi là nhân tố không thể thiếu trong việc xây dựng, hình thành và phát triển
nền kinh tế bền vững, toàn diện.

1

Xem />

2

Những thỏa thuận trong lĩnh vực SHTT trong các hiệp định tự do trên tạo nên
những điều kiện thuận lợi nhất định cho các nước thành viên đặc biệt là các nước có
nền thực thi quyền SHTT chưa cao như Việt Nam. Tuy nhiên, cùng với những điều
kiện thuận lợi thì Việt Nam cũng đón nhận và đối mặt với những tác động và thách

thức lớn trong việc giải quyết trước nguy cơ gia tăng vi phạm thực thi quyền nhất là
trong các vấn đề về nhãn hiệu cũng như sự chưa nhất quán giữa pháp luật Việt Nam
với các quy định về SHTT trong các hiệp thương mại tự do thế hệ mới khi những
hiệp định này chính thức được ký kết và thơng qua.
Từ đó, chúng ta thấy được SHTT ngày càng trở nên quan trọng và cần được quan
tâm, chú trọng, đặc biệt là vấn đề bảo hộ các quyền liên quan đến các đối tượng
SHTT nói chung và với nhãn hiệu nói riêng. Bên cạnh đó, Việt Nam để khơng rơi ra
khỏi vịng xốy hội nhập cũng cần phải tự nhìn nhận, điều chỉnh các vấn đề đã và
đang tồn tại liên quan đến lĩnh vực này nhất là về khía cạnh luật pháp để có hướng
hội nhập phù hợp và tiến bộ nhất.
Chính từ các lý do trên, tác giả đã chọn đề tài “Bảo hộ nhãn hiệu theo quy định
của pháp luật Việt Nam” để mong muốn rằng đề tài sẽ là tài liệu hữu ích cho việc
đưa ra cái nhìn khái qt, thực tế hơn các vấn đề về việc bảo hộ nhãn hiệu ở nước ta
hiện nay cũng như góp phần hồn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam ngày càng
thống nhất, phù hợp hơn với pháp luật quốc tế.
 Tình hình nghiên cứu
Liên quan đến vấn đề đối chiếu và phân tích các khía cạnh về bảo hộ nhãn hiệu
theo quy định của pháp luật Việt Nam với các thỏa thuận trong các điều ước quốc
tế, Tác giả đã nghiên cứu các bài báo khoa học được đăng trong hội thảo khoa học
quốc tế “Sở hữu trí tuệ và thương mại: Luật và kinh nghiệm thực thi” tại Trường
Đại học Kinh tế - Luật ngày 07/12/2016, trong đó:
-

“Cơ chế điều chỉnh về nhãn hiệu theo tinh thần Hiệp định đối tác xuyên Thái
Bình Dương (TPP)” của Nguyễn Trường Ngọc, Trường Đại học Kinh tế Luật – Trường Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh


3

-


“Biện pháp hành chính trong thực thi quyền sở hữu công nghiệp tại Việt
Nam” của Trần Nam Long

-

“Thực tiễn áp dụng pháp luật về xác định hành vi xâm phạm quyền đối với
nhãn hiệu qua một số vụ tranh chấp” của Dương Anh Sơn và Nguyễn Hải An

-

“Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ bằng pháp luật hình sự thực trạng và một vài
khuyến nghị” của Viên Thế Giang, trường Đại học Luật – Đại học Huế

-

“Improving the legal framwork to protect unregisted trademarks in
comparison with the trademark law in the United States” của Trần Đức Tuấn,
Trường Đại học Kinh tế - Luật
Ngồi ra, tác giả cịn tham khảo trong một số bài báo khoa học khác như:

-

“Chuyển hướng trong bảo hộ quốc tế đối với quyền sở hữu trí tuệ” của
Nguyễn Thị Hoàng Hạnh, Viện Luật Đại học Trung Sơn, Trung Quốc, đăng
trên tạp chí khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội.

-

“Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong hiệp định TRIPS, TRIPS cộng và

ACTA”, của Nguyễn Thị Hải Vân đăng trên Tạp chí khoa học pháp lý số
1/2012 của trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh

Đồng thời, tác giả cũng đã tìm hiểu và nghiên cứu nội dung của một số đề tài
sau để làm tài liệu cho bài luận văn của mình. Cụ thể:
-

Hồ Mai Huy, “Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu”, luận
văn thạc sỹ luật học, Trường Đại học Kinh tế - Luật TP. HCM, năm 2013.

-

Đinh Thị Trang, “Bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng theo pháp luật Việt Nam –
Thực trạng và kiến nghị”, luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Kinh tế Luật TP. HCM, năm 2016.

-

Hà Thị Nguyệt Thu (2017), “Hoàn thiện pháp luật về xử lý hành vi xâm
phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu tại Việt Nam”, luận án
tiến sĩ luật học, Học viện Chính trị quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh

-

Nguyễn Thị Lan Anh (2012), “Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với
nhãn hiệu theo pháp luật nước ngoài”, luận văn thạc sĩ luật học, Đại học
Quốc gia Hà Nội.


4


Luận văn đã kế thừa và phát triển các nội dung liên quan của các tài liệu trên
đồng thời từ việc phân tích, đánh giá thực trạng của việc bảo hộ nhãn hiệu tại Việt
Nam hiện nay nhằm đưa ra các kiến nghị thiết thực và phù hợp nhất góp phần hoàn
thiện vấn đề nghiên cứu trên cả hai phương diện lý luận và thực tiễn áp dụng.
 Mục tiêu và phạm vi nghiên cứu
Từ việc phân tích các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về bảo hộ nhãn
hiệu cùng với việc dẫn chiếu các quy định liên quan trong các điều ước quốc tế,
hiệp định thương mại tư do về các vấn đề này để đưa ra cái nhìn khái quát nhất về
nhãn hiệu, bảo hộ nhãn hiệu đồng thời dựa trên những phân tích, đánh giá việc bảo
hộ nhãn hiệu trên thực tế để đưa ra các kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định
pháp luật Việt Nam ngày càng thống nhất, hoàn thiện và phù hợp với luật pháp quốc
tế, hướng tới việc tăng cường hiệu quả bảo hộ nhãn hiệu ở nước ta hiện nay. Bên
cạnh đó, đề tài chỉ đề cập đến các vấn đề liên quan đến nhãn hiệu thông thường
(nhãn hiệu chưa nổi tiếng) mà khơng trình bày những nội dung liên quan đến nhãn
hiệu nổi tiếng.
 Phương pháp nghiên cứu
Với đề tài này, tác giả sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau. Trong
đó, phương pháp lịch sử đã được tận dụng để làm rõ các quan điểm khác nhau về
nhãn hiệu, nhận thức về tầm quan trọng của việc bảo hộ nhãn hiệu cũng như quá
trình hình thành và phát triển của các điều ước quốc tế hiệp định thương mại tự do.
Song hành với đó, tác giả đã dẫn chiếu các quy định về bảo hộ nhãn hiệu theo quy
định của pháp luật Việt Nam hiện hành bên cạnh việc phân tích các cam kết liên
quan trong các điều ước quốc tế, hiệp định thương mại tự do để có thể đối chiếu, so
sánh giữa các quy định này với nhau nhằm thấy được sự tương đồng và khác nhau
đối với việc bảo hộ nhãn hiệu theo quy định của pháp luật Việt Nam trong bối cảnh
hội nhập toàn cầu. Sau cùng, tác giả tổng hợp những nội dung trình bày để đưa ra
nhưng kết luận cũng như kiến nghị các biện pháp cho đề tài.


5


 Kết quả nghiên cứu dự kiến
Với mong muốn từ những hàm lượng thông tin khoa học trong luận văn sẽ góp
một phần nào đó để hồn thiện hơn các quy định pháp luật Việt Nam nói chung và
pháp luật SHTT về bảo hộ nhãn hiệu nói riêng với các quy định của các hiệp định
thương mại tự do trong việc tạo ra con đường pháp lý thống nhất, dễ dàng hơn cho
các chủ thể khi tham gia cũng như đề xuất các biện pháp nhằm tăng cường công tác
bảo hộ nhãn hiệu ở nước ta hiện nay.
 Bố cục của đề tài
Luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát về nhãn hiệu và bảo hộ nhãn hiệu
Chương 2: Bảo hộ nhãn hiệu theo quy định của pháp luật Việt Nam
Chương 3: Thực tiễn bảo hộ nhãn hiệu tại Việt Nam và định hướng hoàn thiện


6

CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ NHÃN HIỆU VÀ BẢO HỘ
NHÃN HIỆU
1.1 Khái quát về nhãn hiệu
1.1.2 Khái niệm nhãn hiệu
“Nhãn hiệu” là một thuật ngữ được sử dụng rộng rãi trong đời sống xã hội, đặc
biệt trong hoạt động thương mại. Khái niệm về nhãn hiệu không phải chỉ mới hình
thành mà nó đã được sử dụng khá sớm vào năm 1777 ở Anh2 và sau đó cùng với sự
phát triển của việc giao thương, bn bán nó đã lan rộng, được biết đến trên nhiều
nước Châu Âu và thế giới.
Thực tế, chúng ta dễ dàng tiếp cận với nhãn hiệu thông qua các sản phẩm tiêu
thụ, sử dụng hàng ngày, từ sản phẩm có giá trị thấp đến sản phẩm có giá trị cao, từ
loại nhu yếu phẩm đến các loại được xếp vào sản phẩm tiêu thụ đặc biệt đều được
kinh doanh và phân phối trên thị trường dưới một nhãn hiệu riêng biệt3.

Tuy nhiên, thuật ngữ nhãn hiệu không chỉ là từ ngữ thông thường chỉ dùng
trong việc kinh doanh, thương mại hay trong các hoạt động thường nhật mà với vai
trị và ảnh hưởng của nó tới xã hội, thì khơng chỉ Việt Nam mà các điều ước quốc
tế cũng đã có những quy định cụ thể để điều chỉnh các vấn đề về nhãn hiệu.
Đây là một vấn đề tất yếu khi pháp luật luôn phải lường trước những vấn đề xã
hội và định hướng điều chỉnh đưa chúng vào một khuôn khổ nhất định. Từ các quy
định này, các vấn đề về nhãn hiệu được hiều rộng hơn từ khái niệm đến chức năng,
các khía cạnh về quyền sở hữu…Đồng thời nâng cao nhận thức của mỗi người về
vai trò của nhãn hiệu trong đời sống.
Luật SHTT Việt Nam quy định “Nhãn hiệu là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng
hóa, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau”4. Khái niệm này được xây dựng
dựa trên chức năng quan trọng nhất của nhãn hiệu và nếu chỉ dựa trên quy định này
thì bất kỳ dấu hiệu nào như chữ viết, hình ảnh, màu sắc, âm thanh, mùi vị…nếu
2

Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2015), Giáo trình Luật sở hữu trí tuệ, trang 273
Đinh Thị Trang (2016), “Bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng theo pháp luật Việt Nam – Thực trạng và kiến nghị”,
trang 8
4
Khoản 16, Điều 4, Luật SHTT 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2009)
3


7

chúng có khả năng phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các chủ thể khác nhau đều có
thể được xem là nhãn hiệu. Nhưng thực tế, khái niệm này đã được giới hạn bởi các
dấu hiệu liệt kê tại Khoản 1, Điều 72, Luật SHTT và theo đó chỉ những dấu hiệu
nhìn thấy được dưới dạng chữ cái, từ ngữ, hình vẽ, hình ảnh, kể cả hình ba chiều
hoặc sự kết hợp các yếu tố đó, được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc mới

được thừa nhận là nhãn hiệu.
Trên thực tế, Việt Nam khơng thể nằm ngồi sự phát triển, hội nhập thế giới đang
diễn ra ngày càng sâu rộng, chính vì thế việc ngày càng hồn thiện và đưa hệ thống
pháp luật Việt Nam ngày càng thống nhất với pháp luật thế giới mà cụ thể hơn là
các điều ước quốc tế, tập quán quốc tế, các hiệp định thương mại tự do là việc làm
cần thiết. Theo đó, chúng ta lần lượt tìm hiểu sơ bộ các điều ước quốc tế và các hiệp
định thương mại tự do: Công ước Paris về bảo hộ quyền SHCN (cơng ước Paris),
Hiệp định về các khía cạnh thương mại liên quan đến quyền SHTT (Hiệp định
TRIPS), Hiệp định Đối tác Tồn diện và Tiến bộ xun Thái Bình Dương (CPTPP)
để lần lượt tìm hiểu các quy định về nhãn hiệu và việc bảo hộ nhãn hiệu.
 Công ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp (Công ước Paris)
Công ước Paris được ký kết ngày 20.3.1883 tại Paris, được xem xét lại nhiều lần
từ năm 1900 đến năm 1967 và được tổng sửa đổi vào năm 1979. Công ước là văn
bản quốc tế đầu tiên quy định các vấn đề về bảo hộ quyền SHCN với mục đích tạo
lập cơ sở chung nhất cho các thỏa thuận về bảo hộ quyền SHCN. Các quy định của
Công ước Paris đề cập đến 4 vấn đề lớn: Nguyên tắc đối xử quốc gia; Quyền ưu
tiên; Một số nguyên tắc chung đối với hệ thống bảo hộ quyền SHCN mà các nước
thành viên phải tuân thủ và các quy định về hành chính phục vụ cho việc thi hành
Cơng ước. Kể từ khi thành lập đến ngày 15.1.2002, Cơng ước có 162 nước là thành
viên và đến thời điểm hiện tại là 1775 thành viên, trong đó Việt Nam cũng đã gia
nhập công ước này vào ngày 08.3.1949.
Sự ra đời của Công ước Paris góp phần đáng kể cho sự phát triển pháp luật về
bảo hộ quyền SHCN nói chung và đối với nhãn hiệu nói riêng. Tuy nhiên, Cơng
5

Xem />

8

ước này cũng cịn bộc lộ những thiếu sót nhất định: Chưa có những chế tài đối với

các thành viên trong khi không bảo hộ tối thiểu các quyền SHCN; chưa thiết lập các
quy định về đăng ký quốc tế…
 Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền Sở hữu trí
tuệ (Hiệp định TRIPS)
Hiệp định TRIPS được ký kết ngày 15/4/1994 và có hiệu lực từ ngày 01/01/1995
cùng với sự ra đời của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Hiệp định TRIPS là
điều ước quốc tế đa phương quan trọng về SHTT và là một trong những trụ cột
quan trọng của WTO về bảo hộ SHTT, trở thành một phần không thể tách rời trong
hệ thống thương mại đa phương của WTO. Các quy định của Hiệp định này có tính
chất ràng buộc về mặt pháp lý đối với tất cả các Thành viên WTO. Hiệp định
TRIPS đã thống nhất và rút ngắn khoảng cách giữa các nước về bảo hộ SHTT và
Việt Nam cũng đã trở thành thành viên của hiệp định này khi gia nhập tổ chức
WTO (năm 2007).
Về mặt nguyên tắc, Hiệp định TRIPS bảo hộ mọi hình thức SHTT và tìm cách
hài hịa và tăng cường các tiêu chuẩn bảo vệ, bảo đảm thực hiện hiệu quả ở cấp
quốc gia cũng như quốc tế6. Theo đó, Các quy định của Hiệp định TRIPS vừa đưa
ra những quy định tối thiểu mà mỗi quốc gia thành viên phải tuân thủ vừa nhấn
mạnh việc bảo hộ có hiệu quả và tồn diện quyền SHTT đồng thời quy định những
biện pháp và thủ tục để thực thi quyền thông qua các biện pháp dân sự, hình sự,
hành chính, kiểm sốt biên giới về SHTT, ngăn ngừa và giải quyết tranh chấp phát
sinh giữa các thành viên liên quan đến SHTT, làm thay đổi căn bản mức độ bảo hộ
quyền sở hữu trí tuệ trên bình diện quốc tế, thúc đẩy hoạt động hợp tác quốc tế toàn
cầu trong đấu tranh chống xâm phạm quyền SHTT, giảm thiểu cạnh tranh không
lành mạnh trong thương mại quốc tế7. Hiệp định đã khắc phục những thiếu sót của
Cơng ước Paris.

6

Nguyễn Thị Hải Vân (2012), “Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong hiệp định Trips, Trips cộng và ACTA”, Tạp chí
khoa học pháp lý, số 1, trang 40

7
Nguyễn Thị Hoàng Hạnh (2015), “Chuyển hướng trong bảo hộ quốc tế đối với quyền sở hữu trí tuệ”, trang 53


9

Ngày 06/12/2005, Đại hội đồng WTO đã ban hành Quyết định thông qua Nghị
định thư sửa đổi Hiệp định TRIPS và ngày 23/01/2017 được đánh dấu là ngày có
hiệu lực của Nghị định thư này. Đây là sửa đổi pháp lý đầu tiên đối với Hiệp định
TRIPS của WTO kể từ khi Hiệp định có hiệu lực vào năm 1995, bảo đảm cho các
nước đang phát triển một con đường hợp pháp để tiếp cận với các loại dược phẩm
với giá cả phải chăng theo quy định của WTO.
 Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP)
Sau khi Hoa Kỳ rút khỏi Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), 11
nước thành viên còn lại (Australia, Brunei, Canada, Chile, Nhật Bản, Malaysia,
Mexico, New Zealand, Peru, Singapore và Việt Nam) đã họp bàn và sau nhiều lần
họp, các nước đã thống nhất và đi đến kí kết hiệp định CPTPP ngày 08.3.2018 tại
Chi-Lê.
Về cơ bản, CPTPP vẫn giữ nguyên thỏa thuận so với các cam kết của Hiệp định
TPP và chỉ tạm hoãn thực thi một số điều khoản chủ yếu liên quan tới SHTT nhằm
bảo đảm sự cân bằng giữa 11 nước thành viên.
CPTPP, với cam kết mở cửa thị trường, là thông điệp mạnh mẽ chống lại xu
hướng bảo hộ hiện nay trên thế giới cũng như hứa hẹn sẽ đem lại nhiều lợi ích kinh
tế cho 11 quốc gia. Hiệp định này sẽ tạo ra một trong những khối tự do thương mại
lớn nhất thế giới với một thị trường khoảng 499 triệu dân và Tổng sản phẩm quốc
nội (GDP) vào khoảng 10,1 nghìn tỷ USD, chiếm 13,5% GDP thế giới8.
Cũng như TPP, CPTPP được coi là một hiệp định thương mại tự do thế hệ mới
(FTA), Hiệp định này đặt ra các yêu cầu và tiêu chuẩn cao về sự cân bằng tổng thể,
minh bạch hóa cũng như đưa ra cơ chế giải quyết tranh chấp có tính chặt chẽ, ràng
buộc đồng thời bảo đảm lợi ích cho các nước thành viên không chỉ trong lĩnh vực

thương mại và các lĩnh vực khác của Hiệp định. Đối với Việt Nam, Hiệp định thúc
đẩy việc xuất khẩu hàng hóa sang các các nước lớn như Nhật Bản, Canada,
Úc…cũng như góp phần thu hút đầu tư nước ngoài vào các ngành, lĩnh vực mà Việt
Nam đang có lợi thế, nhu cầu phát triển.
8

Xem />

10

Theo đó, Cơng ước Paris khơng quy định cụ thể về khái niệm cũng như điều
kiện nộp đơn và đăng ký nhãn hiệu. Cách thức quy định này không chỉ riêng với
nhãn hiệu mà với các đối tượng khác, Công ước cũng chỉ quy định chung nhất theo
hướng “mở” để cho các thành viên tự hình thành nên những quy định riêng phù
hợp nhất với quy định chung của Công ước cũng như phù hợp với đặc điểm riêng
mỗi quốc gia.
Tìm hiểu trong Hiệp định TRIPS, khái niệm về nhãn hiệu đã được định hình
với các yếu tố cấu thành để nhận biết một nhãn hiệu và theo đó, “Bất kỳ một dấu
hiệu, hoặc tổ hợp các dấu hiệu nào, có khả năng phân biệt hàng hố hoặc dịch vụ
của một doanh nghiệp với hàng hoá hoặc dịch vụ của các doanh nghiệp khác, đều
có thể làm nhãn hiệu hàng hố”9
Hiệp định CPTPP tiếp cận với nhãn hiệu thơng qua việc quy định các loại
dấu hiệu có thể đăng ký làm nhãn hiệu mà không quy định trực tiếp thế nào là
nhãn hiệu. Theo đó, các dấu hiệu được CPTPP thừa nhận bảo hộ không chỉ giới
hạn trong dấu hiệu nhìn thấy được mà đã mở rộng hơn với dấu hiệu là âm thanh và
khuyến khích bảo hộ với dấu hiệu là mùi.
Khi đối chiếu quy định về khái niệm nhãn hiệu theo pháp luật Việt Nam với
quy định Hiệp định TRIPS, chúng ta thấy được về bản chất của nhãn hiệu khơng
có gì khác biệt mà hầu như là sự tương đồng cả về mặt cấu tạo của nhãn hiệu và
chức năng phân biệt của nhãn hiệu, điều đó được thể hiện “các dấu hiệu, đặc biệt

là các từ, kể cả tên riêng, các chữ cái, chữ số, các yếu tố hình hoạ và tổ hợp các
màu sắc cũng như tổ hợp bất kỳ của các dấu hiệu đó, phải có khả năng được đăng
ký là nhãn hiệu hàng hoá”. Tuy nhiên khi đối chiếu với quy định của Hiệp định
CPTPP, pháp luật SHTT Việt Nam chưa ghi nhận những dấu hiệu là âm thanh hay
mùi, vị là các dấu hiệu có thể được bảo hộ dưới danh nghĩa là nhãn hiệu và đây là
sự khác biệt rất lớn trong định hướng bảo hộ đối với nhãn hiệu.
Mặt khác để hiểu rõ hơn về nhãn hiệu và khả năng phân biệt của nhãn hiệu thì
phải xét chúng trong mối tương quan với các đối tượng khác của quyền SHTT như
9

Điều 15, Hiệp định TRIPS


11

tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, kiểu dáng công nghiệp...bởi chúng đều là những chỉ
dẫn thương mại rất dễ xảy ra hiện tượng xung đột quyền10 với nhau.
Xét về khía cạnh thương mại, khái niệm về nhãn hiệu rất hay bị nhầm lẫn với
khái niệm về thương hiệu là một thuật ngữ được sử dụng thường xuyên trong kinh
doanh. Theo hiệp hội Marketing Hoa Kỳ (AMA), Thương hiệu là một tên gọi,
thuật ngữ, ký hiệu, biểu tượng hay hình vẽ, hay sự kết hợp giữa chúng nhằm nhận
diện hàng hóa, dịch vụ của người bán hay một nhóm người bán và phân biệt chúng
với hàng hóa, dịch vụ của đối thủ cạnh tranh.11 Tuy nhiên, các nhà quản trị lại cho
rằng khái niệm nhãn hiệu khơng chỉ gói gọn trong những yếu tố hữu hình trên mà
nó cịn ở việc những yếu tố hữu hình này tác động như thế nào đến người tiêu dùng
hướng tới các mong muốn về doanh thu và lợi nhuận dựa trên việc đã tạo cho sản
phẩm những giá trị to lớn nhất.
1.1.2 Đặc điểm nhãn hiệu
Trước tiên, nhãn hiệu là một tài sản trí tuệ. Đây là một trong những tài sản vơ
hình, sản phẩm của hoạt động trí tuệ, chứa đựng sự sáng tạo, đổi mới và mang lại

giá trị to lớn cho những chủ thể nắm giữ. Nhãn hiệu mang đầy đủ các đặc điểm
chung của một tài sản trí tuệ. Bên cạnh đó, chúng cũng có nhưng đặc điểm riêng.
Cụ thể, nhãn hiệu phải là “dấu hiệu”, dấu hiệu này có thể là từ ngữ, chữ cái, chữ
số, hình ảnh, tổng hợp màu sắc hoặc sự kết hợp các yếu tố trên. Với đặc điểm này,
pháp luật Việt Nam dường như kế thừa trọn vẹn các quy định tại Điều 15 của Hiệp
định TRIPS đồng thời các dấu hiệu này phải là dấu hiệu nhìn thấy được cũng được
thể hiện một cách thống nhất theo tinh thần của hiệp định TRIPS. Tuy nhiên, thực tế
có nhiều quốc gia xác định dấu hiệu có thể là những màu sắc đơn nhất hay việc cảm
nhận dấu hiệu thông qua các giác quan như khứu giác, thính giác hay vị giác – cụ
thể như mùi, vị hay âm thanh cũng có thể xác định là nhãn hiệu (Hoa Kỳ là quốc gia
đầu tiên công nhận việc đăng ký nhãn hiệu mùi – “mùi thơm tươi mát của nước hoa

10

Hà Thị Nguyệt Thu (2017), “Hoàn thiện pháp luật về xử lý hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
đối với nhãn hiệu ở Việt Nam”, trang 39
11
Phạm Thị Lan Hương (Biên soạn, 2014), Quản trị thương hiệu, trang 2


12

Plumeria” dùng cho chỉ may và thêu ren vào năm 1990)12. Thực tế đặc điểm này sẽ
tác động trực tiếp đối với đối tượng quan tâm đến sản phẩm, dịch vụ như khách
hàng, đối tác hay ngay cả đối với những đối thủ cạnh tranh của chủ sở hữu nhãn
hiệu để kích thích nhu cầu sử dụng, việc phân phối tiêu thụ hay chiến lược cạnh
tranh để giành thị trường trong cùng lĩnh vực của các đối thủ cạnh tranh với chủ thể
sở hữu nhãn hiệu.
Ngoài ra, những dấu hiệu này, bản thân phải có khả năng phân biệt, tức là dựa
vào chúng một chủ thể có thể phân biệt hàng hóa hay dịch vụ của tổ chức, cá nhân

này với tổ chức, cá nhân khác.
Việc nhãn hiệu có khả năng phân biệt nếu đứng ở các góc độ khác nhau nó sẽ
có ý nghĩa và sự ảnh hưởng khác nhau. Cụ thể, đứng trên cương vị là những chủ thể
sử dụng đối với sản phẩm mang nhãn hiệu, họ có thể lựa chọn những sản phẩm mà
họ cho rằng với sản phẩm này sẽ phục vụ, đáp ứng tốt nhất cho nhu cầu của họ mà
không phải là một sản phẩm tương tự, cùng loại của một doanh nghiệp hay cơ sở
kinh doanh nào khác, tất nhiên việc sử dụng nhãn hiệu này có thể thơng qua việc họ
đã từng sử dụng hoặc được giới thiệu sử dụng và nó đã đáp ứng được mong muốn
khi sử dụng sản phẩm, dịch vụ. Bên cạnh đó, đối với nhà nước việc quản lý, kiểm
tra và đảm bảo trật tự trong xã hội sẽ dễ dàng hơn.
Cùng với đó, bản thân những tổ chức, cá nhân sở hữu nhãn hiệu cũng có những
lợi thế nhất định bằng việc thơng qua nhãn hiệu họ sẽ định hình, khẳng định bản
thân trên thương trường và nếu sản phẩm, dịch vụ của họ được sử dụng nhiều sẽ gia
tăng lợi nhuận cũng như giá trị tài sản lên rất nhiều lần, vì khi khách hàng đã tin
tưởng và tiêu dùng sản phẩm, họ sẵn sàng bỏ ra chi phí có thể cao hơn để được sử
dụng sản phẩm, dịch vụ mà không muốn sử dụng, sản phẩm dịch vụ khác dù có giá
hấp dẫn hơn. Đồng thời, chủ sở hữu nhãn hiệu cịn có thể làm tăng lợi nhuận thơng
qua việc thu phí chuyển giao quyền SHCN đối với nhãn hiệu đã đăng ký cho một
chủ thể khác. Cũng xuất phát từ lý do đó mà phát triển nhãn hiệu ln là một chiến
12

Nguyễn Trường Ngọc (Trích dẫn trong Trần Văn Hải (2016)), “Cơ chế điều chỉnh về nhãn hiệu theo tinh
thần Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP)”, Hội thảo khoa học quốc tế Sở hữu trí tuệ và thương
mại: Luật và kinh nghiệm thực thi, trang 453


13

lược quan trọng và luôn được chú trọng hàng đầu trong các tổ chức trong xu thế hội
nhập hiện nay.

1.1.3 Chức năng nhãn hiệu
Nhãn hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân với
nhau. Các tổ chức, cá nhân này là các đối thủ cạnh tranh trong cùng hoặc có liên
quan đến lĩnh vực sản xuất, kinh doanh. Những dấu hiệu cấu thành nên nhãn hiệu sẽ
tác động vào các giác quan của khách hàng, sau quá trình tiêu dùng họ sẽ lựa chọn
những sản phẩm, dịch vụ phù hợp với nhu cầu, sở thích và hướng tới sử dụng lâu
dài. Tuy nhiên, các yếu tố cấu thành nên nhãn hiệu mà đặc biệt là các dấu hiệu nhìn
thấy được như từ ngữ, hình ảnh…thường dễ dàng bị sao chép, vì thế khách hàng
gặp nhiều khó khăn trong việc lựa chọn sản phẩm, dịch vụ mong muốn.
Bên cạnh đó, nhãn hiệu khơng chỉ là các dấu hiệu để phân biệt hàng hóa, dịch vụ
cùng loại mà theo WIPO (2008), để người tiêu dùng có thể phân biệt một sản phẩm,
nhãn

hiệu

phải

chỉ

ra

được

nguồn

gốc

của

hàng


hóa.

Cụ

thể,

nhà sản xuất, kinh doanh thông qua nhãn hiệu sẽ gửi thông điệp về nguồn gốc, xuất
xứ, chất lượng của sản phẩm, dịch vụ đến người tiêu dùng và đồng thời, đây cũng là
cam kết giữa nhà sản xuất, nhà kinh doanh với khách hàng đối với các tiêu chuẩn
trên. Thực tế, nhu cầu của khách hàng ngày càng cao, để thực hiện được cam kết về
chất lượng sản phẩm, dịch vụ thì địi hỏi các nhà sản xuất kinh doanh phải không
ngừng cải tiến, đổi mới, có những chiến lược cụ thể, phù hợp. Do đó, nhãn hiệu đã
gián tiếp tạo động lực cho các doanh nghiệp phát triển không ngừng và cũng từ đó
sự cạnh tranh diễn ra càng mạnh mẽ kéo theo đó giá thành giảm, chất lượng tăng,
người tiêu dùng và xã hội sẽ là những đối tượng được hưởng lợi trong cuộc chạy
đua này.
1.1.4 Phân loại nhãn hiệu
Trên thực tế có nhiều căn cứ để phân loại nhãn hiệu. Theo đó, sự phân loại này
có thể dựa trên dấu hiệu hình thành nên nhãn hiệu hay dựa trên chức năng hoặc mức
độ nổi tiếng của nhãn hiệu để thấy được đặc tính và bản chất của từng loại nhãn
hiệu.


14

Xuất phát từ việc nhãn hiệu là dấu hiệu, theo đặc điểm này nhãn hiệu sẽ bao gồm
nhãn hiệu là từ ngữ, nhãn hiệu là hình ảnh hay nhãn hiệu là sự kết hợp của cả từ ngữ
và hình ảnh trong tổng thể một tổ hợp màu sắc nhất định. Với cách phân loại này
không thể không đề cập đến nhãn hiệu là âm thanh hay nhãn hiệu là mùi, vị mà

nhiều quốc gia trên thế giới đã công nhận trong khi pháp luật Việt Nam vẫn chưa
quy định trong hệ thống pháp luật mà chỉ thừa nhận với các loại nhãn hiệu nhìn thấy
được tương ứng đã được liệt kê ở trên.
Dựa trên chức năng của nhãn hiệu sẽ bao gồm: nhãn hiệu tập thể, nhãn hiệu
chứng nhận và nhãn hiệu liên kết. Theo đó:
Nhãn hiệu tập thể là nhãn hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các thành
viên của tổ chức là chủ sở hữu nhãn hiệu đó với hàng hóa, dịch vụ của tổ chức, cá
nhân khác không phải là thành viên của tổ chức đó13. Như vậy, cá nhân khơng thể tự
mình đăng ký nhãn hiệu tập thể mà nó sẽ chỉ được cấp cho một tổ chức, tuy nhiên tổ
chức này lại khơng sử dụng nhãn hiệu đó mà chỉ có các thành viên của tổ chức mới
được sử dụng với điều kiện họ phải tuân thủ theo các quy định được ban hành trong
quy chế sử dụng nhãn hiệu tập thể – Đây là một trong những nội dung quan trọng
để tiến hành việc đăng ký bảo hộ đối với cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Bản
thân các thành viên của tổ chức sở hữu nhãn hiệu tập thể có thể đồng thời sử dụng
nhãn hiệu tập thể và sử dụng nhãn hiệu của chính mình cho hàng hóa, dịch vụ mà
mình sản xuất, kinh doanh.
Nhãn hiệu tập thể hình thành với mục đích đảm bảo các điều kiện, tiêu chuẩn
chất lượng nhất định mà chính các thành viên phải nghiêm túc và thực hiện khắt
khe, nếu không đảm bảo được đúng tiêu chuẩn này nhãn hiệu tập thể sẽ bị chấm dứt
hiệu lực vì một trong các mục đích hình thành nhãn hiệu đã khơng đạt được, đó
chính là việc bảo hộ chống lại các hành vi gian dối đối với khách hàng với những
cam kết về chất lượng đã được thống nhất trong quy chế sử dụng nhãn hiệu tập thể.
Đối với nhãn hiệu tập thể, Công ước Paris đặc biệt chú trọng đến loại nhãn hiệu
này và có những quy định cụ thể tại Điều 7bis.
13

Khoản 17, Điều 4 của luật SHTT 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2009)


15


Việc hình thành nhãn hiệu chứng nhận cũng xuất phát từ việc đảm bảo các tiêu
chuẩn, chất lượng đối với sản phẩm, dịch vụ nhằm tác động vào niềm tin người tiêu
dùng cũng như chống lại hành vi gian dối xuất phát từ nhà sản xuất, doanh nghiệp
hay chủ sở hữu có chức năng chứng nhận. Khác với nhãn hiệu tập thể, chủ sở hữu
nhãn hiệu cho phép tổ chức, cá nhân khác sử dụng trên hàng hóa, dịch vụ của tổ
chức, cá nhân đó để chứng nhận các đặc tính về xuất xứ, nguyên liệu, vật liệu, cách
thức sản xuất hàng hóa, cách thức cung cấp dịch vụ, chất lượng, độ chính xác, độ an
tồn hoặc các đặc tính khác của hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu. Bên cạnh đó,
bản thân chủ sở hữu nhãn hiệu chứng nhận phải có chức năng chứng nhận, họ
khơng thể sử dụng nhãn hiệu chứng nhận cho chính hàng hóa, dịch vụ do mình sản
xuất hoặc cung ứng nhưng bất kỳ chủ thể nào đáp ứng các tiêu chuẩn xác định
tương ứng đều được sử dụng mà không giới hạn đối tượng sử dụng như nhãn hiệu
tập thể - chỉ có các thành viên của tổ chức là chủ sở hữu nhãn hiệu tập thể mới được
sử dụng nhãn hiệu tập thể đó.
Dựa vào việc phân loại nhãn hiệu theo chức năng, ngoài nhãn hiệu tập thể và
nhãn hiệu chứng nhận, chúng ta không thể không đề cập đến một loại nhãn hiệu mà
cùng một chủ thể đăng ký, họ có thể đăng ký các nhãn hiệu trùng hoặc tương tự
nhau dùng cho sản phẩm, dịch vụ cùng loại hoặc tương tự nhau hoặc có liên quan
đến nhau14 – Đó là nhãn hiệu liên kết.
Trên thực tế, có rất nhiều doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh khơng chỉ một loại
hàng hóa hay một loại dịch vụ mà là đa sản phẩm, đa dịch vụ và giữa chúng có sự
liên quan hoặc tính chất tương tự nhau. Vì vậy, khi đưa ra những quy định pháp luật
về nhãn hiệu liên kết, mỗi quốc gia trong đó có Việt Nam hướng tới việc tạo điều
kiện cho chủ sở hữu nhãn hiệu ngăn chặn được việc xâm phạm quyền đối với nhãn
hiệu của mình mà rõ ràng nhất là việc sản xuất hàng giả gắn với các nhãn hiệu trùng
hoặc tương tự đã được bảo hộ. Bên cạnh đó, Chủ sở hữu nhãn hiệu cũng hạn chế
được những chi phí trong việc kinh doanh, quảng cáo và các chi phí khác vì các
nhãn hiệu liên kết thực chất xuất phát từ nhãn hiệu “gốc” đầu tiên và cũng vì thế
14


Khoản 19, Điều 4 của luật SHTT 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2009)


16

khơng khó để chiếm được lịng tin, sự quen thuộc đối với người tiêu dùng nếu
những nhãn hiệu liên kết trước đó đã đạt được tin tưởng từ khách hàng.
Mức độ danh tiếng của nhãn hiệu cũng là một trong các tiêu chí để phân loại
nhãn hiệu. Cụ thể, với cách phân loại này, nhãn hiệu được phân chia thành nhãn
hiệu nổi tiếng và nhãn hiệu thông thường (nhãn hiệu chưa nổi tiếng). Theo đó:
Về khái niệm nhãn hiệu nổi tiếng cả Công ước Paris và Hiệp định TRIPS đều
quy định không cụ thể. Tại Điều 6bis của Công ước Paris, thuật ngữ nhãn hiệu nổi
tiếng được đề cập đến thông qua quy định về việc từ chối hoặc huỷ bỏ đăng ký,
ngăn cấm việc sử dụng nhãn hiệu mà nhãn hiệu đó là sự sao chép, bắt chước, biên
dịch, và có khả năng gây nhầm lẫn với nhãn hiệu đã được cơ quan có thẩm quyền
của nước đăng ký hoặc nước sử dụng coi là nhãn hiệu nổi tiếng tại nước đó của
người được Cơng ước cho hưởng lợi thế sử dụng nhãn hiệu đó trên các loại hàng
hố giống hoặc tương tự. Tuy nhiên, để hiểu rõ hơn về bản chất của loại nhãn hiệu
này, Điều 16 của Hiệp định TRIPS dường như đưa ra giải thích rõ hơn về bản chất
của nhãn hiệu nổi tiếng dựa trên những nội dung tại Điều 6bis của Công ước Paris.
Theo đó, căn cứ xác định nhãn hiệu nổi tiếng phải xem xét trên danh tiếng của nhãn
hiệu hàng hố đó trong bộ phận cơng chúng có liên quan, kể cả danh tiếng tại nước
Thành viên tương ứng đạt được nhờ hoạt động quảng cáo nhãn hiệu hàng hố đó.
Khoản 4, Điều 20 Luật SHTT Việt Nam đã đưa ra khái niệm về nhãn hiệu nổi
tiếng, theo đó, nhãn hiệu nổi tiếng là nhãn hiệu được người tiêu dùng biết đến rộng
rãi trên toàn lãnh thổ Việt Nam. Theo quy định trên, nhãn hiệu nổi tiếng cũng chính
là nhãn hiệu – là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các tổ chức, cá
nhân khác nhau. Tuy nhiên, khác với các loại nhãn hiệu khác, nó phải được người
tiêu dùng biết đến rộng rãi trên cả nước và đồng thời đáp ứng các tiêu chí để xác

định cũng như phân định ranh giới giữa nhãn hiệu nổi tiếng và nhãn hiệu thông
thường tại Điều 75, luật SHTT Việt Nam. Cụ thể:
-

Số lượng người tiêu dùng liên quan đã biết đến nhãn hiệu thông qua việc
mua bán, sử dụng hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu hoặc thơng qua quảng
cáo.


17

-

Phạm vi lãnh thổ mà hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu đã được lưu hành.

-

Doanh số từ việc bán hàng hóa hoặc cung cấp dịch vụ mang nhãn hiệu hoặc
số lượng hàng hóa đã được bán ra, lượng dịch vụ đã được cung cấp.

-

Thời gian sử dụng liên tục nhãn hiệu.

-

Uy tín rộng rãi của hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu.

-


Số lượng quốc gia bảo hộ nhãn hiệu.

-

Số lượng quốc gia công nhận nhãn hiệu là nổi tiếng.

-

Giá chuyển nhượng, giá chuyển giao quyền sử dụng, giá trị góp vốn đầu tư
của nhãn hiệu.

Tiêu chí xác định tại Điều 75 đã kế thừa trọn vẹn quy định tương ứng của Công
ước Paris và Hiệp định TRIPS. Nhưng trên thực tế, các tiêu chí này ở mỗi nước là
khác nhau, chưa có một bộ tiêu chuẩn chung thống nhất để cơng nhận nhãn hiệu nổi
tiếng và vì thế tổ chức SHTT thế giới (WIPO) đã họp và thông qua bản khuyến nghị
chung trong việc xác định và bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng cho các nước thành viên và
Việt Nam cũng đã xây dựng các tiêu chí tại điều 75 dựa trên sự thống nhất của bản
khuyến nghị chung này.
Kể từ khi Dự án “Bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng” được thực hiện theo Bản ghi nhớ
hợp tác được ký kết ngày 24/3/2015 giữa Bộ khoa học và Công nghệ và Hiệp hội
Nhãn hiệu quốc tế (INTA) đến nay đã có 06 nhãn hiệu được cơng bố là nhãn hiệu
nổi tiếng Việt Nam là: Vinamilk, IKEA, Vinacafe, Nike, Petrolimex, Phạm và Liên
Danh15
1.2 Bảo hộ nhãn hiệu
1.2.1 Quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu
1.2.1.1 Khái niệm quyền sở hữu công nghiệp
SHCN không phải là một loại sở hữu có liên quan đến tài sản hữu hình trong lĩnh
vực công nghiệp mà đối tượng hướng đến là những tài sản vơ hình nhưng có ảnh
hưởng và tầm quan trọng to lớn đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh cũng như uy
tín của doanh nghiệp, của quốc gia. Xuất phát từ sự ảnh hưởng và vai trò của các

15

Xem />

18

đối tượng SHCN mà pháp luật mỗi quốc gia và pháp luật quốc tế đều có những quy
định cho các chủ thể sở hữu những quyền pháp lý nhất định đối với các đối tượng
này. Đối tượng mà SHCN hướng tới là các quyền đối với sáng chế, kiểu dáng công
nghiệp, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, tên thương mại hay bí mật kinh doanh.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, quyền SHCN là một trong các quyền
SHTT. Theo đó, khái niệm quyền SHTT được quy định gián tiếp thông qua khái
niệm về quyền tài sản16 và được quy định một cách trực tiếp tại khoản 1, Điều 4,
Luật Sở hữu trí tuệ hiện hành, cụ thể: “quyền SHTT là quyền của tổ chức, cá nhân
đối với tài sản trí tuệ bao gồm quyền tác giả, quyền liên quan đến quyền tác giả,
quyền SHCN và quyền đối với giống cây trồng.”
Khái niệm về quyền SHCN cũng được xây dựng tương tự theo cách thức hình
thành quy định về khái niệm quyền SHTT. Theo đó, quyền SHCN là quyền của tổ
chức, cá nhân đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý,
tên thương mại hay bí mật kinh doanh do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu và quyền
chống cạnh tranh không lành mạnh. Đối tượng mà pháp luật hướng tới bảo vệ
không phải là một dấu hiệu gắn trên hàng hóa hay một kiểu dáng bên ngồi sản
phẩm mà chính là thành quả lao động sáng tạo hay uy tín kinh doanh của chủ sở
hữu đối tượng đó.
Ở Nhật Bản, Châu Âu hay theo quy định của Tổ chức thương mại thế giới đều
đưa ra khái niệm về quyền SHCN nhưng lại coi quyền đối với giống cây trồng là
một bộ phận của loại quyền này, trong khi đó, pháp luật Hoa Kỳ lại khơng cụ thể
hóa quy định thế nào là quyền SHCN.
1.2.1.2 Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu
Việc bảo vệ quyền SHCN nói riêng và quyền SHTT nói chung đều xuất phát từ

hai hướng, đó là từ chính những chủ thể sở hữu, họ có thể sử dụng những cách thức,
áp dụng các biện pháp phù hợp để tự mình bảo vệ đối tượng sở hữu của mình hay
việc bảo hộ từ một chủ thể khác mang quyền lực đặc biệt - Nhà nước và như vậy,
bảo hộ quyền SHTT là việc nhà nước sử dụng công cụ pháp lý và quyền lực đảm
16

Điều 115, Bộ luật Dân sự 2015


×