Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

Ba mô hình tập đoàn hóa đại học công lập ở nước ngoài và chuyển dịch quản trị đại học ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (681.05 KB, 21 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

Ba mƠ hÌnh tập đồn hĨa đẠi họC CƠng lập


Ở nƯớC ngồi và ChuyỂn dỊCh QuẢn trỊ đẠi họC


Ở viỆt nam



GS.TS. Lê Ngọc Hùng1
GS.TS. Nguyễn Quý Thanh2
TS. Nguyễn Thị Bích Thủy3
ThS. Vũ Thị Mai Anh4


<b>Tóm tắt: Ở Việt Nam, tập đồn giáo dục bao gồm cả trường đại học mới xuất hiện </b>
trong khu vực tư nhân và tập đồn hóa đại học cơng lập chưa được thể chế hóa
trong chính sách đổi mới giáo dục đại học. Trong khi đó trên thế giới một số nước
như Malaysia, Nhật Bản, Canada đã tiến hành tập đồn hóa trong giáo dục đại học
biến các đại học công lập thành các pháp nhân độc lập với cơ quan quản lý nhà
nước, chịu trách nhiệm trước pháp luật và tự chủ hoạt động đảm bảo hiệu quả, chất
lượng trong nền kinh tế thị trường. Việc tìm hiểu nội dung các mơ hình tập đồn hóa
đại học cơng lập ở nước ngồi có thể giúp làm rõ q trình chuyển dịch quản trị đại
học ở Việt Nam đáp ứng mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ đổi mới căn bản, toàn diện
<i>giáo dục và đào tạo. Bài viết sử dụng dữ liệu thuộc đề tài “Báo cáo Thường niên </i>


<i>Giáo dục 2018: Quản trị đại học ở Việt Nam trong quá trình chuyển đổi” (Đề tài cấp </i>


Đại học Quốc gia, mã số QG.18.27) do chính nhóm tác giả thực hiện.


<i><b>Từ khóa: Mơ hình,Tập đồn hóa, Tập đồn đại học cơng lập, Quản trị, Quản trị </b></i>
<i>đại học.</i>


<b>1. Đặt vấn đề</b>


“Tập đồn hóa” (Corporatisation) khơng phải là tư nhân hóa (Privatization)
mặc dù Corporation có nghĩa là nhà nước cho phép các đại học được huy động tài


chính từ các nguồn ngồi nhà nước trong đó có tổ chức tư nhân, cá nhân, người
học trong nước và quốc tế. Quản trị đại học kiểu tập đoàn là kiểu quản trị trong đó
quyền lực quản trị nằm trong các hội đồng gồm hội đồng quản trị và các hội đồng
chuyên môn, hội đồng tư vấn của trường đại học. Quản trị đại học tập đồn hóa là
q trình dịch chuyển quyền lực quản trị đại học từ cơ quan quản lý nhà nước và từ


1, 2, 3 Trường ĐH Giáo dục, ĐHQGHN.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

các cá nhân sang các hội đồng quản trị và các hội đồng khác đối với trường đại học.
Quản trị đại học tập đồn hóa là q trình quản trị đại học theo các hệ giá trị và các
quy tắc của một tập đồn hoạt động có hiệu quả trong bối cảnh cạnh tranh về các
nguồn lực, đặc biệt là nguồn lực tài chính, tiền tệ. Tập đồn hóa là q trình hình
thành, vận động và phát triển của hệ thống tập đồn. Trong q trình tập đồn hóa,
một cơ sở giáo dục đại học này có thể trở thành một tập đồn đại học đồ sộ với nhiều
phần và cấu trúc phức tạp đảm bảo hoạt động có hiệu quả. Bài viết hướng đến phân
tích 3 mơ hình tập đồn hóa điển hình ở 3 quốc gia trên thế giới và từ đó đánh giá sự
chuyển dịch trong quản trị đại học ở Việt Nam.


<b>3.1. Mơ hình tập đồn hóa trong quản trị đại học ở Malaysia</b>


Đối với các đại học cơng lập ở Malaysia, nhà nước khơng tư nhân hóa đại học
cơng lập và cũng khơng cổ phần hóa đại học cơng lập mà thực hiện “tập đồn hóa
trong quản trị” (corporatisation-in-governance) (Chang-Da Wan, 2017). Quá trình
chuyển dịch đại học công lập theo hướng Corporation ở Malaysia bắt nguồn từ bối
cảnh khủng hoảng tài chính, khủng hoảng tiền tệ châu Á khởi đầu từ khủng hoảng
tài chính ở Thái Land vào tháng 7 năm 1997 rồi lan sang các thị trường chứng khoán,
tiền tệ, giá cả ở các nước khác trong đó có Malaysia, Nhật Bản, Canada.


a) Mục tiêu và nội dung



Malaysia chuyển dịch đại học công lập theo hướng Corporation để nâng cao
hiệu quả sử dụng ngân sách nhà nước cấp cho các đại học công lập nhằm đáp ứng
đầy đủ các yêu cầu của xã hội (Chang-Da Wan, 2017). Đồng thời, nhà nước cho
phép thành lập các đại học tư thục và đến cuối những năm 1990, ở Malaysia có 17
đại học tư thục được thành lập và đi vào hoạt động. Ngày 1 tháng 1 năm 1998, Đại
học Malaysia là đại học công lập đầu tiên được chuyển dịch theo Corporation và
tiếp sau đó là tất cả 8 trường đại học công lập khác của Malaysia được Corporation
. Đến năm 2017, đã có 17 trong tổng số 20 trường đại học công lập của Malaysia được
Corporation (Corporatised university).


- Tái cấu trúc tài chính, ngân sách nhà nước cấp cho đại học cơng lập


<i> Trên cấp độ hệ thống quốc gia, Corporation là quá trình cắt giảm ngân sách </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Phần 1. TRIẾT lÝ, MÔ THỨc, PHƯƠNG THỨc GIÁO Dục THEO ĐỊNH HƯỚNG 4.0

131


Adam Bakar). Sau khi được tập đoàn hóa, đại học cơng lập quản trị có hiệu quả hơn
đối với ngân sách nhà nước và các tài sản vật chất, tài sản tinh thần được nhà nước
cấp cho nhà trường. Đồng thời, quản trị đại học có hiệu quả và sáng tạo hơn trong
huy động các nguồn lực bao gồm cả nguồn tài chính, thu nhập. Điều này đồng nghĩa
với việc quyền kiểm soát của nhà nước đối với quản trị đại học của nhà trường bị
giảm sút và nhà trường có quyền tự chủ nhiều hơn trong quản trị các lĩnh vực hoạt
động đáp ứng các yêu cầu của các bên liên quan.


- Tái cấu trúc cơ chế kiểm soát, giám sát và kiểm định chất lượng


Việc nhà nước cắt giảm ngân sách cho các đại học công lập và các đại học phải
tự chủ huy động các nguồn lực tài chính bên ngồi, tất yếu dẫn đến việc giảm bớt
quyền lực kiểm soát trực tiếp của cơ quan nhà nước đối với quản trị đại học. Ví
dụ, trước khi Corporation, Vụ Giáo dục đại học của Bộ Giáo dục đại học thực hiện


nhiệm vụ kiểm soát, giám sát và kiểm định chất lượng giáo dục của đại học công lập.
Nhưng sau khi Corporation, nhiệm vụ giám sát và kiểm định giáo dục được chuyển
cho Ban Kiểm định quốc gia.


b) Tập đoàn hóa trong quản trị cấp tổ chức nhà trường


Trên cấp độ tổ chức, thể chế trường đại học, tập đồn hóa trong quản trị
(Corporatisation-in-governance) đặc trưng bởi những thay đổi cơ bản trong cấu trúc
quản trị của nhà trường như sau:


(i) Ban giám đốc: Thay đổi cơ bản nhất trong cấu trúc quản trị đại học là Hội
đồng trường trở thành Ban giám đốc, theo đó quy mơ hội đồng trường gồm 16 thành
viên được giảm bớt thành Ban giám đốc có 8 thành viên gồm thành viên đại diện cho
Chính phủ và các thành viên cá nhân do Bộ trưởng bổ nhiệm.


(ii) Tái cấu trúc Hội đồng học thuật. Thay đổi cơ bản thứ hai là tinh giản Hội
đồng học thuật (University Senate) từ số lượng thành viên gồm 200-300 người xuống
còn hơn 20 người. Hội đồng học thuật được tinh giản, tái cấu trúc gồm những người
lãnh đạo trường và không quá 20 giáo sư do Phó hiệu trưởng bổ nhiệm. Sự thay đổi
theo hướng Corporation này làm giảm bớt đáng kể tiếng nói của giới học thuật trong
cấu trúc quản trị đại học.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

(iv) Trách nhiệm giải trình: Corporation cho phép các đại học tham gia các hoạt
động đối tác, đầu tư vào chứng khoán và thành lập các công ty. Tuy nhiên, các hoạt
động này phải được Bộ Tài chính phê duyệt và do trường đại học có quyền và trách
nhiệm lớn hơn nên trường đại học phải có trách nhiệm giải trình.


(v) Mở rộng nguồn thu: Các trường đại học Corporation được huy động nguồn
kinh phí thơng qua vơ số các hoạt động tạo nguồn thu, ví dụ như tăng học phí, mở
rộng tuyển sinh, tích cực cung cấp dịch vụ tư vấn cho các doanh nghiệp và nhà nước,


phát triển và thực hiện các chương trình đào tạo ngắn hạn đáp ứng nhu cầu của khu
vực tư nhân và cho bên ngoài thuê các cơ sở vật chất, trang thiết bị của trường. Như
vậy, sau khi chuyển dịch theo hướng Corporation các trường đại học công lập vừa
phát triển các nguồn thu thay thế cần thiết cho hoạt động của nhà trường và vừa
giảm bớt sự phụ thuộc tài chính vào nhà nước.


(vi) Tăng tự chủ trong quản trị học thuật và nhân lực học thuật: Những người
ủng hộ Corporation nhấn mạnh rằng những thay đổi này sẽ giúp trường đại học
được tự chủ nhiều hơn về tài chính và quản trị nhân sự. Nhờ vậy, nhà trường có thể
xây dựng và thực hiện cơ chế trả lương hấp dẫn đối với đội ngũ các nhà khoa học và
do vậy có thể ngăn chặn được hiện tượng “chảy não” (brain drain) từ đại học công
lập sang khu vực tư nhân (Abd Rahman Ahmad, Alan Farley, Ng Kim-Soon, 2013).
Như vậy, ở Malaysia “tập đồn hóa trong quản trị” đối với đại học công lập diễn ra
đồng thời trên cấp độ hệ thống và cấp độ tổ chức nhà trường để đảm bảo thực hiện
mục tiêu nâng cao hiệu quả, tự chủ và chất lượng giáo dục đại học đáp ứng yêu cầu
của xã hội.


<b>2. Mơ hình tập đồn hóa giáo dục đại học theo Luật Tập đồn đại học cơng lập </b>
<b>ở Nhật Bản</b>


Khác với Malaysia thực hiện “tập đồn hóa trong quản trị” đối với giáo dục đại
học công lập năm 1998, Nhật Bản thực hiện cải cách đại học quốc gia thành tập đồn
hóa đại học quốc gia năm 2004. Đây là cuộc cải cách giáo dục đại học công lập to lớn
nhất và có ảnh hưởng sâu rộng nhất đến vị trí, vai trị của đại học cơng lập trong xã
hội Nhật Bản kể từ thời Minh Trị đến đầu thế kỷ XXI (Jun Oba, 2004, 2006). Đại học
công lập trở thành một thực thể pháp nhân công, tự chủ và chịu trách nhiệm trước
pháp luật, độc lập với chính phủ trung ương, cụ thể là độc lập với Bộ Giáo dục.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

Phần 1. TRIẾT lÝ, MÔ THỨc, PHƯƠNG THỨc GIÁO Dục THEO ĐỊNH HƯỚNG 4.0

133



2003 (National University Corporation Law, 2003) và các quy định pháp luật khác
liên quan. Từ ngày 1 tháng 4 năm 2004, theo luật định, các đại học quốc gia Nhật Bản
bắt đầu được chuyển đổi thành các tập đoàn đại học quốc gia (National University
Corporations, viết tắt là NUCs). Đến tháng 4 năm 2004, tất cả 87 đại học quốc gia
của Nhật Bản đều được tập đồn hóa và trở thành 87 tập đoàn đại học quốc gia
(Kiyoshi Yamamoto, 2004; Jun Oba, 2004, 2006).


<i>a) Mục tiêu, nguyên tắc và chức năng </i>


<i>- Mục tiêu: Cuộc cải cách giáo dục đại học theo hướng Corporation nhằm mục </i>


tiêu tổng quát là biến các đại học cơng lập thành các tập đồn đại học cơng lập có tư
cách pháp nhân chịu trách nhiệm trước pháp luật chứ không phải chịu trách nhiệm
trước cơ quan nhà nước hay Bộ Giáo dục và độc lập, tự chủ thực hiện nghiên cứu
khoa học, giáo dục đại học và phục vụ cộng đồng với sự hỗ trợ của nhà nước thông
qua các cải cách cơ chế cấp phát ngân sách và cơ chế kiểm định chất lượng.


<i>- Nguyên tắc: Công cuộc tập đồn hóa đại học cơng lập được thực hiện theo các </i>


nguyên tắc cơ bản như sau:


(i) Bãi bỏ cơ chế bao cấp, “hộ tống” của nhà nước đối với đại học công lập,
chuyển đổi cơ chế cấp phát ngân sách theo dòng chi tiêu sang cơ chế cấp ngân sách
theo khối, đồng thời tăng quyền tự chủ đại học trong sử dụng ngân sách và nguồn
thu bên ngoài, chuyển đổi cơ chế quản lý nhân sự công lập sang cơ chế quản lý nhân
sự ngồi cơng lập cho phù hợp với mơi trường cạnh tranh.


(ii) Áp dụng mơ hình, cơ chế, phương pháp, kỹ thuật quản trị của khu vực tư
nhân trong quản trị đại học: cụ thể là thành lập ban giám đốc gồm các nhà quản trị
cao cấp do chủ tịch trường chỉ định và tập hợp; áp dụng linh hoạt cơ chế tuyển dụng


và đãi ngộ nhân sự dựa vào năng lực và kết quả công việc, chuyển quyền tuyển
dụng và bổ nhiệm nhân sự hành chính cho chủ tịch.


(iii) Thu hút các chuyên gia bên ngoài tham gia quản trị đại học: tham gia ủy ban
lựa chọn chủ tịch để đảm bảo phản ánh được yêu cầu của xã hội; tham gia hội đồng
quản trị và cùng với các thành viên của nhà trường tham gia hội đồng hành chính.


(iv) Xây dựng hệ thống đánh giá - bên thứ ba (third – party – evaluation system)
dựa trên mục tiêu/kế hoạch đã xác định. Áp dụng cơ chế phân bổ nguồn lực dựa trên
kết quả đánh giá của bên thứ ba; tăng cường tính minh bạch và đóng góp cho xã hội.


<i><b>- Chức năng: Theo luật định, các tập đoàn đại học quốc gia cam kết thực hiện </b></i>


các chức năng như sau:


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

• Trợ giúp, tư vấn sinh viên về học tập, kế hoạch nghề nghiệp, sức khỏe thể
lực và sức khỏe tinh thần và các hình thức hỗ trợ khác.


• Thực hiện các nghiên cứu và các đào tạo do ủy thác của các bên ngoài đại
học quốc gia.


• Tạo cơ hội học tập cho những người khơng phải là sinh viên, bao gồm các
khóa học dành cho cộng đồng xã hội.


• Truyền bá và khuyến khích ứng dụng các kết quả nghiên cứu khoa học.
• Tài trợ thực hiện các dự án thúc đẩy áp dụng các kết quả nghiên cứu liên


quan đến công nghệ trong đại học phù hợp và các dự án được chính phủ
xác định



• Thực hiện các chức năng khác liên quan đến tập đồn đại học quốc gia


<i>b) Mơ hình quản trị đại học của tập đoàn đại học quốc gia</i>


<i>- Chuyển đổi mơ hình trật tự thứ bậc sang mơ hình pháp nhân độc lập, hợp tác nhiều bên. </i>


Trước khi Corporation, các đại học quốc gia là các tổ chức giáo dục cấp thể chế
nhà nước trực thuộc Bộ Giáo dục. Do vậy, các đại học này đều phải áp dụng tất cả
các quy tắc, quy định dành cho các cơ quan nhà nước, ngoại trừ lĩnh vực quản lý tài
chính và nhân sự có cơ chế riêng, do đặc thù của hoạt động giảng dạy và nghiên cứu
trong giáo dục đại học. Mơ hình quản trị đại học trước đây là mơ hình trật tự thứ
bậc các quan hệ tổ chức kiểu nhiệm sở (bureucratic organization, tổ chức quan liêu).
Corporation đã tách các đại học quốc gia khỏi mối quan hệ trực thuộc với Bộ Giáo
dục và đặt các đại học này vào hệ thống các mối quan hệ nhiều ông chủ - nhiều đại
diện. Đồng thời, mỗi một đại học quốc gia là một tập đồn cơng lập có tư cách pháp
nhân độc lập trong các mối tương tác với xã hội thông qua các dịch vụ công và cạnh
tranh với các đại học tư nhân và các đại học cơng ở địa phương. Mơ hình quản trị đại
học của tập đoàn đại học quốc gia trở thành mơ hình pháp nhân độc lập, tự chủ và
hợp tác nhiều bên để đảm bảo hiệu quả trong môi trường cạnh tranh về các nguồn
lực và cạnh tranh về chất lượng giáo dục đại học và nghiên cứu khoa học.


<i>- Thành phần và cấu trúc của quản trị đại học: Mơ hình quản trị đại học của tập </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

Phần 1. TRIẾT lÝ, MÔ THỨc, PHƯƠNG THỨc GIÁO Dục THEO ĐỊNH HƯỚNG 4.0

135


vụ của nhà trường (các khách hàng) và (v) các cơ quan học thuật như các hiệp hội
đại học quốc gia.


<i>Sơ đồ 1: Mơ hình quản trị đại học của các tập đồn đại học cơng lập ở Nhật Bản</i>



<i>c) Cơ quan quản trị đại học trong tập đoàn đại học quốc gia</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

<i>Sơ đồ 2: Cơ quan quản trị của tập đoàn đại học quốc gia</i>


Thành phần và cấu trúc của cơ quan quản trị đại học trong tập đoàn đại học
quốc gia bao gồm: (i) chủ tịch, (ii) ban giám đốc, (iii) hội đồng hành chính, (iv) hội
đồng đào tạo và nghiên cứu. Để đảm bảo tập trung quản trị, chủ tịch trường là người
đứng đầu của cả ba bộ phận cấu thành của cơ quan quản trị đại học: ban giám đốc,
hội đồng hành chính và hội đồng đào tạo - nghiên cứu.


<i>d) Ảnh hưởng của Corporation đến các lĩnh vực quản trị đại học</i>


<i>Ảnh hưởng đến quản trị ngân sách và nguồn thu: Khi chuyển đổi theo hướng </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

Phần 1. TRIẾT lÝ, MÔ THỨc, PHƯƠNG THỨc GIÁO Dục THEO ĐỊNH HƯỚNG 4.0

137


chủ hơn trong quản trị học phí và phí nhập học. Đây là hai nguồn thu riêng của nhà
trường và do vậy ở Nhật Bản khơng cịn một hệ thống học phí duy nhất cho tất cả
các đại học như trước năm kia nữa.


Các đại học chủ động quản trị có hiệu quả các nguồn thu thơng qua hàng loạt
các chương trình hoạt động cụ thể. Các đại học áp dụng các chương trình vừa cắt
giảm chi tiêu, ví dụ chi tiêu cho điện, nước và vừa sử dụng hiệu quả các chi tiêu, ví
dụ sử dụng các trang thiết bị, phòng học, cơ sở vật chất của nhà trường. Cơ chế cấp
phát các trang thiết bị, phòng học cho các đơn vị trước đây được thay bằng cơ chế
quản lý tập trung, thống nhất đảm bảo các trang thiết bị, phòng học được sử dụng
có hiệu quả hơn. Các đại học cắt giảm chi phí thường xuyên, nhưng vẫn giữ nguyên
mức chi quỹ lương và đồng thời dành kinh phí để thu hút các chuyên gia, các nhà
khoa học nổi tiếng đến làm việc cho nhà trường.



<i>- Ảnh hưởng đến cơ chế lựa chọn chủ tịch: Sau khi chuyển đổi thành tập đoàn, các </i>


chủ tịch đại học vẫn được Bộ trưởng Bộ Giáo dục chính thức bổ nhiệm, nhưng theo
sự lựa chọn của Ủy ban lựa chọn chủ tịch gồm một nửa số thành viên là các chuyên
gia bên ngoài trường. Một số đại học quốc gia vẫn lấy ý kiến hay phiếu bầu của các
thành viên các khoa và phiếu bầu của các giảng viên và các nhà khoa học trong và
ngồi trường. Nhưng việc lựa chọn chủ tịch khơng hồn toàn dựa vào kết quả lấy ý
kiến hay kết quả bầu cử này. Một số đại học quốc gia đã khơng áp dụng, thậm chí
cịn bãi bỏ hồn toàn hệ thống lựa chọn, bầu cử kiểu cũ này. Một số đại học vẫn tiếp
tục duy trì hệ thống lựa chọn kiểu cũ trước đây, do vậy những chủ tịch được lựa
chọn theo kiểu cũ này thường phải hành động như các nhà cải cách và bị thất bại
trong các cuộc bỏ phiếu tính nhiệm.


<i>- Ảnh hưởng đến cấu trúc tổ chức của bộ máy quản trị đại học: Cải cách đại học quốc </i>


gia theo hướng Corporation làm thay đổi căn bản, toàn diện thành phần và cấu trúc
của cơ quan quản trị chóp bu của nhà trường. Cơ quan quản trị đại học cấp trường
chủ yếu bao gồm hai thành phần cơ bản là chủ tịch đại học và các nhà quản trị đại
học gồm các chuyên gia bên ngoài trường và các đại diện bên trong trường.


<i>- Ảnh hưởng đến hệ thống ra quyết định trong quản trị đại học: Một thay đổi lớn </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

lượng các ủy ban, số lượng các thành viên ủy ban và số lượng các cuộc họp của các
ủy ban. Chỉ một thời gian ngắn sau khi được tập đoàn hóa, hơn một nửa các chủ tịch
đại học đã có quyền tự chủ phân bổ nhân lực và ngân sách tiền lương cho việc thực
hiện các dự án tầm chiến lược và các dự án khác của nhà trường.


<i>- Ảnh hưởng quản trị hành chính: Tất cả các tập đoàn đại học quốc gia đều thay </i>


đổi hệ thống hành chính để hỗ trợ chủ tịch trường, bao gồm việc củng cố văn phòng


chủ tịch, bổ nhiệm các trợ lý chủ tịch, củng cố các phòng ban kế hoạch/quản lý.


<i>- Ảnh hưởng đến quản trị nhân sự: Theo hướng Corporation, hệ thống nhân sự </i>


của đại học quốc gia khơng cịn phụ thuộc vào hệ thống quản lý nhân sự của cơ quan
nhà nước và đội ngũ nhân sự công lập trước đây trở thành đội ngũ nhân sự ngồi
cơng lập. Do vậy, đại học được tự chủ nhiều hơn trong quản trị nhân sự từ khâu
tuyển dụng đến bố trí cơng việc và quyết định trả lương, trả công và nhiều vấn đề
nhân sự khác.


<i>- Ảnh hưởng đến trách nhiệm giải trình: Trong mơ hình quản trị kiểu cũ, trách </i>


nhiệm giải trình được thực hiện thơng qua cơ chế tập trung quan liêu đặc trưng bởi
mức độ kiểm soát rất cao của mối quan hệ chỉ huy – phục tùng, chỉ đạo từ trên xuống
dưới. Đồng thời, trách nhiệm giải trình được thực hiện theo quy trình với các quy
tắc, tiêu chuẩn phức tạp ở bên trong với sự tham gia của những người làm việc trong
nhà trường. Trong mơ hình quản trị mới của tập đoàn đại học quốc gia, hai loại cơ
chế này đều biến đổi sang cơ chế pháp luật với mức độ kiểm soát cao đặc trưng bởi
quan hệ ơng chủ - đại diện, mang tính pháp nhân và kiểm tra, giám sát từ bên ngoài
và cơ chế chính trị với mức độ kiểm sốt thấp đặc trưng bởi quan hệ ủy thác – đại
diện và nhạy cảm với các bên liên quan ở bên ngoài. Sự chuyển dịch này thể hiện
đặc biệt rõ trong lĩnh vực quản lý hành chính và lĩnh vực học thuật khi cơ chế quan
liêu được chuyển sang cơ chế pháp luật và cơ chế chính trị.


<i>- Ảnh hưởng đến sự tham gia của các bên liên quan bên ngoài: Corporation giúp </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

Phần 1. TRIẾT lÝ, MÔ THỨc, PHƯƠNG THỨc GIÁO Dục THEO ĐỊNH HƯỚNG 4.0

139


<i>- Ảnh hưởng đến kiểm tra, đánh giá: Ủy ban đánh giá tập đoàn đại học quốc gia </i>



(gọi tắt là ủy ban đánh giá) được Bộ Giáo dục thành lập, bao gồm các thành viên đại
học không phải đại học quốc gia để đánh giá các đại học quốc gia về mặt thể chế.
Mỗi một đại học quốc gia đều được đánh giá bởi ủy ban đánh giá về việc thực hiện
các mục tiêu/kế hoạch trung hạn và kết quả đánh giá của ủy ban đánh giá được thể
hiện ở sự phân bổ ngân sách trong thời kỳ tới, cụ thể là kết quả đánh giá là căn cứ
để phân bổ ngân sách cho đại học quốc gia trong giai đoạn trung hạn tiếp theo. Về
các vấn đề liên quan đến đào tạo và nghiên cứu, ủy ban đánh giá sẽ nhận được từ
cơ quan quốc gia bản báo cáo về văn bằng học thuật và đánh giá đại học để nắm bắt
thông tin về thực chất của các nghiên cứu và đào tạo được thực hiện trong khuôn
khổ Đại học quốc gia.


<i>e) Thách thức đối với các tập đoàn đại học quốc gia </i>


<i>- Thách thức tài chính: Các đại học phải đối mặt với thách thức tài chính khi ngân </i>


sách nhà nước vẫn trợ cấp cho chi thường xuyên của các trường với tỉ trọng gần 45%
tổng các nguồn thu của các trường. Các trường phải chủ động, tích cực tăng các
nguồn thu ngoài trường qua các loại hoạt động đào tạo, nghiên cứu và dịch vụ, nhất
là qua hợp tác đại học – doanh nghiệp.


<i>- Thách thức phát triển lãnh đạo và đội ngũ hành chính: Trước đây, các nhà lãnh </i>


đạo và đội ngũ hành chính thiếu tính chuyên nghiệp, thiếu năng lực cạnh tranh. Sau
khi tập đoàn hóa, các đại học phải đối mặt với thách thức đào tạo và tuyển chọn các
nhà lãnh đạo và đội ngũ hành chính có năng lực làm việc hiệu quả, chuyên nghiệp
và cạnh tranh. Việc tuyển chọn nhân viên hành chính chuyên nghiệp về các lĩnh vực
dịch vụ sinh viên, hợp tác đại học – doanh nghiệp, dịch vụ hỗ trợ quản trị các lĩnh
vực khác nhau đòi hỏi phải mở cửa tuyển dụng rộng rãi từ các nguồn ngoài trường.


<i>- Thách thức tham gia quản trị chia sẻ: Các đại học gặp phải thách thức khi việc </i>



khuyến khích sự tham gia của giảng viên và sinh viên vào các quá trình quản trị đại
học có thể kéo dài thời gian ra quyết định với nhiều cơ chế phức tạp và hạn chế ưu
điểm của tập đồn hóa. Nhưng quản trị chia sẻ được nhiều nhà nghiên cứu đánh giá
là rất có hiệu quả trong việc tạo ra sự đồng thuận, động lực và tính bền vững cho
các bên tham gia.


<i>- Thách thức đánh giá: Hệ thống đánh giá chuyển từ cơ chế chính trị sang cơ chế </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

<i>Tóm lại, cuộc cải cách quản trị đại học quốc gia ở Nhật Bản là một phần của cải </i>


cách khu vực cơng do Chính phủ thực hiện trong những năm cuối thế kỷ 20 đầu thế
thế kỷ 21 để đối phó với những biến đổi kinh tế, xã hội trong nước và quốc tế gồm
cả khủng hoảng tài chính châu Á những năm cuối thập niên 1990 (Toyama, 2004).
Năm 2004, thực hiện Luật Tập đoàn đại học quốc gia, tất cả các đại học quốc gia của
Nhật Bản được cải cách thành các tập đoàn đại học quốc gia. Cuộc cải cách này tạo
ra những thay đổi trong toàn bộ hệ thống quản trị đại học quốc của Nhật Bản.


<b>3. Mô hình tập đồn hóa phi tập trung các đại học công lập ở Canada</b>


Khác với Malaysia, Nhật Bản và một số nước khác, Canada tiến hành chuyển
dịch đại học cơng lập theo hướng tập đồn hóa một cách từ từ, “tự nhiên” và phi tập
trung để đáp ứng yêu cầu tăng cao về giáo dục đại học của xã hội. Cuối thế kỷ XX
đầu thế kỷ XXI, ở Canada nhu cầu vào đại học tăng lên mạnh và tỉ trọng việc làm
địi hỏi trình độ đại học cũng tăng lên. Các kết quả khảo sát nhu cầu học tập đại học
ở Canada cho biết trên 80% các gia đình kỳ vọng con họ tiếp tục học lên để có trình
độ sau trung học phổ thơng. Trước áp lực từ phía người học và phía việc làm trình
độ đại học tăng cao như vậy các trường đại học phải thay đổi và dịch chuyển theo
hướng tập đồn hóa để nâng cao năng lực cạnh tranh, năng lực đáp ứng yêu cầu của
thị trường.



Q trình chuyển dịch đại học cơng lập theo hướng Corporation diễn ra với
đặc trưng của nó. Đó là tính phi tập trung: các đại học quốc gia dịch chuyển theo
hướng tập đồn hóa ở cấp độ địa phương chứ không phải ở cấp độ hệ thống quốc
gia. Hầu như Canada khơng có một chủ trương hay một chính sách tập trung, thống
nhất để triển khai việc tập đồn hóa các đại học cơng lập như ở Malaysia và Nhật
Bản. Lý do cơ bản là các đại học công lập chủ yếu thuộc quyền quản lý của các địa
phương, các bang, các tỉnh chứ không thuộc quyền quản lý của cơ quan nhà nước
trung ương, mặc dù chính phủ liên bang vẫn cấp ngân sách cho giáo dục đại học, cấp
kinh phí cho nghiên cứu khoa học và cấp học bổng cho sinh viên.


<i>f) Ảnh hưởng của tập đồn hóa đến quản trị đại học</i>


<i>- Ảnh hưởng đến quản trị tài chính: Ở Canada q trình chuyển dịch đại học cơng </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

Phần 1. TRIẾT lÝ, MÔ THỨc, PHƯƠNG THỨc GIÁO Dục THEO ĐỊNH HƯỚNG 4.0

141


bang và chính phủ địa phương đều cắt giảm ngân sách cho giáo dục đại học. Tính
riêng giai đoạn 1983 đến 1995, ngân sách trung ương dành cho giáo dục sau trung
học phổ thông đã bị cắt giảm khoảng 13.5 tỉ đô la. Ngân sách địa phương cho giáo
dục sau trung học phổ thông cũng bị cắt giảm tùy theo từng địa phương. Nhưng
nhờ dịch chuyển quản trị đại học theo hướng Corporation này mà từ giữa những
năm 1970 đến cuối những năm 1980, nguồn thu từ khu vực tư nhân và khu vực
ngoài nhà nước cho giáo dục đại học ước tính đã tăng gấp đơi so với trước.


<i>- Ảnh hưởng đến quản trị lĩnh vực học thuật: Sự dịch chuyển đại học công lập theo </i>


hướng corporation không chỉ thể hiện ở việc các đại học này phải dựa nhiều hơn
vào các nguồn thu từ khu vực tư nhân và khu vực ngoài nhà nước. Mà các đại học
còn thay đổi các chương trình đào tạo theo hướng phát triển kỹ năng đáp ứng yêu


cầu của thị trường việc làm và thay đổi cấu trúc chi tiêu cho nghiên cứu khoa học
theo hướng ưu tiên các nghiên cứu gắn với doanh nghiệp, các nghiên cứu và phát
triển (R&D). Một số trường đại học còn cắt giảm đầu tư cho đào tạo bằng cách giảm
số môn học, giảm thời lượng lên lớp, tăng quy mô sinh viên trong một lớp học, cắt
giảm các kinh phí phục vụ giảng viên và sinh viên để giành ngân sách đầu tư cho
nghiên cứu khoa học. Nhà trường phải đầu tư nhiều hơn cho các hoạt động thu hút
sự quan tâm, chú ý và đầu tư của các cơ quan, tổ chức bên ngồi nhất là từ phía các
doanh nghiệp. Đồng thời, nhà trường phải đầu tư nhiều hơn vào việc mua sắm các
trang thiết bị cần thiết cho các hoạt động nghiên cứu và triển khai (R&D).


<i>- Ảnh hưởng của Corporation đối với đào tạo trực tuyến: Với sự phát triển của khoa </i>


học công nghệ số nhất là truyền thông hiện đại các đại học chuyển sang áp dụng đào
tạo trực tuyến với 3 lý do cụ thể như sau. Một là đào tạo trực tuyến đảm bảo năng
suất, hiệu quả cao. Hai là đào tạo trực tuyến giúp làm tăng quyền lực của các nhà
quản trị, các nhà quản lý, các nhà hành chính và đội ngũ nhân viên và giảm sự phụ
thuộc vào quyền lực học thuật. Ba là đào tạo trực tuyến góp phần thúc đẩy q trình
Corporation khi quyền sở hữu trí tuệ đối với những gì liên quan đến đào tạo trực
tuyến được chuyển từ phía giảng viên sang nhà trường với tư cách là pháp nhân
hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật về đào tạo.


<i>- Ảnh hưởng đến tổ chức quản trị và nhân sự hành chính: Tập đồn hóa làm thay </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

để tăng quyền tự chủ, quyền quyết định của đội ngũ cán bộ quản trị, các trường đại
học được tập đồn hóa có xu hướng tăng tuyển dụng nhân sự theo chế độ hợp đồng
lao động.


Tóm lại, khi nghiên cứu về sự biến đổi quản trị đại học ở Canada, nhiều nhà
nghiên cứu sử dụng các từ ngữ như “hàng hóa hóa” (commodification), “thương
mại hóa” (Commercialization), “tư nhân hóa” (Privatization). Tuy nhiên, các từ ngữ


này thường dùng để nhấn mạnh cách tiếp cận quản trị đại học như là quản trị một
loại hàng hóa cơng được nhà trường sản xuất và cung cấp cho người học với tư cách
là khách hàng, người tiêu dùng (Coates & Morrison, 2011; Côté & Allahar, 2011;
Davidson Harden & Majhanovich, 2004; Hacker & Dreifus, 2010; Häyrinen-Alestalo
& Peltola, 2006; Newfield, 2008; Slaughter & Rhodes, 2009; Tuchman, 2011).


<b>4. Chuyển dịch quản trị đại học cơng lập theo hướng tập đồn hóa ở Việt Nam</b>


Mặc dù gần đây ở Việt Nam đã xuất hiện và phát triển một số tập đoàn giáo
dục sở hữu cả trường đại học, nhưng thuật ngữ “tập đồn” (Corporation) và “tập
đồn hóa” (Corporatisation) vẫn chưa được sử dụng trong các văn bản pháp luật và
điều lệ trường đại học. Do vậy, cả hai thuật ngữ “tập đồn” và “tập đồn hóa” đều
được hiểu như trong các mơ hình tập đồn hóa đại học cơng lập ở Malaysia, Nhật
Bản, Canada và các nước khác trên thế giới. Đồng thời, các thuật ngữ này và một
số thuật ngữ khác liên quan được vận dụng theo phương pháp phân tích so sánh
chính sách để đánh giá xem quản trị đại học công lập của Việt Nam đang chuyển
dịch như thế nào theo hướng tập đồn hóa. Ở đây tập đồn hóa là q trình biến
trường đại học cơng lập1<sub> thành pháp nhân độc lập, chịu trách nhiệm trước pháp </sub>


luật chứ không phải trước cơ quan chủ quản hay cơ quan quản lý nhà nước và tự
chủ thực hiện có hiệu quả các hoạt động giáo dục đại học đáp ứng yêu cầu phát
triển bền vững, bao trùm.


<i>a) Đổi mới cơ chế tài chính và ngân sách nhà nước: tập đồn hóa mới chỉ bắt đầu</i>


Luật Ngân sách Nhà nước (2002, sửa đổi 2015) phân định rõ cấp trung ương
và cấp địa phương2<sub>. Ở cấp trung ương, Bộ Tài chính chịu trách nhiệm phân bổ ngân </sub>


sách hoạt động thường xuyên và Bộ Kế hoạch và Đầu tư phân bổ ngân sách đầu tư
cho các bộ và các tỉnh. Ở cấp địa phương, Ủy ban nhân dân tỉnh là cơ quan chuyên


trách và chịu trách nhiệm phân bổ ngân sách. Năm học 2016-2017, Việt Nam có 170


1 Thuật ngữ “trường đại học công lập” được sử dụng tương đương với “đại học”, “đại học công lập”,
“trường đại học”, “nhà trường”, “trường”, “cơ sở giáo dục đại học” trừ trường hợp đặc biệt cần được
nêu rõ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

Phần 1. TRIẾT lÝ, MÔ THỨc, PHƯƠNG THỨc GIÁO Dục THEO ĐỊNH HƯỚNG 4.0

143


trường đại học công lập chiếm 72,3% trong tổng số 235 trường đại học. Bộ Giáo dục
đào tạo trực tiếp quản lý 50 trường đại học, các bộ ngành khác chủ quản 80 trường
đại học số còn lại do các ủy ban nhân dân tỉnh chủ quản. Do các trường đại học công
lập thuộc các bộ, ngành và địa phương quản lý nên việc phân bổ và quản trị ngân
sách rất phức tạp. Bộ Giáo dục và Đào tạo là cơ quan trung ương được giao trách
nhiệm quản lý nhà nước đối với giáo dục đại học cũng rất khó biết và khó giám sát
việc sử dụng ngân sách nhà nước của các trường đại học công lập trực thuộc các bộ
ngành trung ương và các trường đại học trực thuộc chính quyền địa phương. Tình
hình này trở nên khó khăn hơn, khi mức chi ngân sách trên đầu sinh viên ở Việt
Nam thuộc loại thấp và mức đóng góp từ phía người học và gia đình họ thuộc loại
cao so với nhiều nước trên thế giới. Năm 2014, mức chi ngân sách trên đầu sinh viên
chỉ ở mức 5.7 triệu đồng /sinh viên. Tỉ lệ phần trăm chi ngân sách trên đầu sinh viên
so với GDP trên đầu người của Việt Nam chỉ đạt 12%, chỉ hơn một phần ba so với
tỉ lệ 41% trung bình của các nước OECD. Do vậy, so với nhiều nước trên thế giới,
tổng chi phí cho sinh viên Việt Nam rất thấp, nhưng các cá nhân và gia đình Việt
Nam phải đóng góp khoảng 50% tổng chi phí cho giáo dục đại học. Tổng chi phí
bình qn trên đầu sinh viên Việt Nam đạt khoảng 630 USD/sinh viên/năm, rất thấp
so với Thái Lan 2.500 USD, Trung Quốc 3.500 USD, Malaysia 4.000 USD, Nhật Bản
5.000 USD và Canada 10.500.


<i>- Các trường đại học thực hiện thí điểm tự chủ, khơng có nguồn thu từ ngân sách nhà </i>
<i>nước nên chủ yếu dựa vào nguồn thu từ học phí và lệ phí: Báo cáo cơng khai tài chính của </i>



một trường đại học thuộc lĩnh vực kinh tế và tài chính cho biết1<sub>: năm học 2017 – 2018 </sub>


cho biết tổng thu năm 2016 của trường đại học này là 92,710 tỉ đồng trong đó 100%
thu từ học phí, lệ phí và khơng thu được đồng tiền nào từ ngân sách, từ nghiên cứu
<i>khoa học và chuyển giao cộng và từ các nguồn hợp pháp khác. Một trường đại học </i>


<i>khác2<sub> có tổng thu năm học 2017-2018 đạt trên 622 tỉ đồng, trong đó thu từ ngân sách chiếm </sub></i>


<i>trên 26%, từ học phí trên 61%, từ khoa học và chuyển giao công nghệ gần 5% và từ các </i>
<i>nguồn hợp pháp khác 8%. Tất cả các trường đại học công lập bao gồm 23 trường đại học thực </i>
<i>hiện thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động theo Nghị quyết số 77/2014/NQ-CP, chiếm 13.5% </i>
<i>trong tổng số 170 trường đại học công lập và các trường còn lại thực hiện quyền tự chủ theo </i>
<i>Nghị định số 43/2006/NĐ-CP đều có tổng thu chủ yếu dựa vào nguồn thu từ học phí và lệ </i>
<i>phí. Điều này chứng tỏ rằng mặc dù Việt Nam bắt đầu thực hiện cơ chế tự chủ và tự chịu </i>
<i>trách nhiệm từ năm 2006, nhưng đến nay xét về cấu trúc tài chính, chỉ một bộ phận nhỏ các </i>
<i>trường đại học công lập bắt đầu chuyển dịch theo hướng tập đồn hóa. Bởi vì tập đồn hóa </i>
<i>đại học cơng lập địi hỏi các trường đại học công lập phải tăng tỉ trọng các nguồn thu từ khoa </i>


1 />2 />


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

<i>học và chuyển giao công nghệ và các nguồn thu hợp pháp khác, chứ không phải chủ yếu tăng </i>
<i>nguồn thu từ học phí và lệ phí như các trường đại học công lập ở Việt Nam hiện nay. Như </i>
<i>vậy, về đổi mới tài chính và ngân sách nhà nước, tập đồn hóa mới chỉ bắt đầu được triển </i>
<i>khai nên khó tránh khỏi khó khăn, vướng mắc. </i>


<i>b) Tổ chức kinh tế trong trường đại học: một phần tất yếu của tập đồn hóa </i>


Theo Điều lệ trường đại học (2003), “doanh nghiệp” là một trong mười loại tổ
chức kinh tế trong cơ cấu tổ chức của trường đại học, nhưng trong Điều lệ trường
đại học (2010), Luật Giáo dục đại học (2012) và Điều lệ trường đại học (2014) khơng


nói đến “doanh nghiệp” chung chung, mà nói rõ là tổ chức hoặc cơ sở sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ. Luật Giáo dục đại học sửa đổi năm 2018 quy định cơ cấu tổ chức của
trường đại học bao gồm năm loại tổ chức đứng đầu là (i) Hội đồng trường, tiếp đến
là (ii) hiệu trưởng, phó hiệu trưởng tạo thành ban giám hiệu, (iii) hội đồng khoa học
và đào tạo, hội đồng khác (iv) Khoa, phòng chức năng, thư viện, tổ chức khoa học
và công nghệ, tổ chức phục vụ đào tạo khác và (v) trường, phân hiệu, viện nghiên
cứu, cơ sở dịch vụ, doanh nghiệp, cơ sở kinh doanh và đơn vị khác (nếu có) theo nhu
cầu phát triển của trường đại học (Điều 14). Như vậy, cơ cấu tổ chức của trường đại
học đã được tinh giản theo hướng tập đồn hóa từ cơ cấu gồm 10 loại tổ chức đặc
trưng cho kiểu tổ chức hàn lâm khoa học và tổ chức chính trị - nhà nước như quy
định trong Điều lệ trường đại học năm 2003 sang cơ cấu gồm 5 loại tổ chức trong đó
nổi bật loại “cơ sở dịch vụ, doanh nghiệp, cơ sở kinh doanh” theo Luật Giáo dục đại
học sửa đổi năm 2018.


<i>c) Thành lập hội đồng trường: mới tập đồn hóa được trên một phần ba </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

Phần 1. TRIẾT lÝ, MÔ THỨc, PHƯƠNG THỨc GIÁO Dục THEO ĐỊNH HƯỚNG 4.0

145


bảo những ngun tắc như cơng bằng, cùng có lợi và bền vững. Ở Việt Nam hiện
nay mới có trên một phần ba trong tổng số 170 trường đại học công lập thành lập hội
đồng trường. Điều này có nghĩa là tập đồn hóa các trường đại học cơng lập ở Việt
Nam mới đi được một phần ba quãng đường tập đồn hóa.


<i>d) Sự tham gia của chun gia bên ngoài với mức tối thiểu 30% </i>


Trên thế giới sự chuyển dịch đại học theo hướng tập đoàn hóa ln gắn liền với
sự tham gia của chun gia bên ngồi với số lượng rất đáng kể có khi lên tới một nửa
trong tổng số thành viên của tổ chức quản trị đại học. Ở Việt Nam, Luật Giáo dục
đại học và Điều lệ trường đại học không quy định sự tham gia của “chuyên gia bên
ngoài”, mà từng bước quy định hội đồng trường có sự tham gia của “cán bộ quản


lý giáo dục có uy tín ngồi trường” nhưng khơng rõ số lượng năm 2003 đến “thành
viên ngoài trường đại học” với số lượng tối thiểu là 30% tổng số thành viên hội đồng
trường năm 2008. Luật Giáo dục đại học năm 2012 quy định rõ hội đồng trường có
“đại diện cơ quan chủ quản cơ sở giáo dục đại học” và quy định chung chung là
có một số thành viên hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, khoa học, công nghệ, sản
xuất, kinh doanh. Điều lệ năm 2014 quy định thành phần và số lượng “thành viên
bên ngoài” tham gia hội đồng trường, cụ thể là thành viên bên ngoài gồm những
người đang hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, khoa học, công nghệ, sản xuất, kinh
doanh có liên quan đến chức năng, nhiệm vụ của nhà trường với số lượng chiếm
không dưới 20% tổng số thành viên của hội đồng trường. Năm 2018, “thành viên
ngoài trường đại học” được Luật Giáo dục đại học (2018) quy định là chiếm tỉ lệ tối
thiểu là 30% trong tổng số thành viên tối thiểu 15 người của hội đồng trường; thành
viên ngoài trường gồm đại diện của cơ quan quản lý có thẩm quyền, đại diện của
cộng đồng xã hội do hội nghị toàn thể hoặc hội nghị đại biểu của trường đại học bầu
bao gồm nhà lãnh đạo, nhà quản lý, nhà giáo dục, nhà văn hóa, nhà khoa học, doanh
nhân, cựu sinh viên, đại diện đơn vị sử dụng lao động. Nếu số thành viên bên ngồi
đạt được mức tối thiểu 30% này thì đó mới chỉ là sự tham gia trên danh nghĩa bởi vì
trừ chủ tịch hội đồng trường là thành viên cơ hữu của trường, số các thành viên còn
lại có thể tham gia kiêm nhiệm với cơng việc chính là “hội, họp”. Do vậy, có thể nói
với tỉ lệ tối thiểu của chuyên gia bên ngoài tham gia có tính chất hình thức, thủ tục,
“theo quy định” như vậy thì tập đồn hóa đại học cơng lập ở Việt Nam có lẽ mới chỉ
ở giai đoạn bắt đầu.


<i>e) Chuyển dịch mối quan hệ của trường đại học với các cơ quan quản lý </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

về các điều kiện đảm bảo chất lượng, các kết quả hoạt động, việc thực hiện các cam
kết và tài chính của trường.


Năm 2018, theo Luật Giáo dục sửa đổi (2018), trường đại học có các cơ quan cấp
trên bao gồm Chính phủ, các cơ quan quản lý nhà nước, các cơ quan có thẩm quyền,


cơ quan nhà nước có thẩm quyền, cơ quan ngang bộ, cơ quan chủ quản. Ví dụ: Luật
này quy định “Các trường đại học xây dựng quy chế về tổ chức và hoạt động của
trường trình cơ quan chủ quản phê duyệt”, “Hội đồng trường chịu trách nhiệm
trước pháp luật, trước cơ quan quản lý có thẩm quyền và các bên liên quan về các
quyết định của hội đồng trường”. Chính phủ quy định chi tiết về quy trình, thủ tục
thành lập, cơng nhận hội đồng trường; việc công nhận, bãi nhiệm, miễn nhiệm chủ
tịch hội đồng trường, bổ nhiệm, miễn nhiệm thành viên khác của hội đồng trường.
Như vậy, về mối quan hệ với các cơ quan quản lý cấp trên, trường đại học chịu sự
quản lý trực tiếp của cơ quan chủ quản, chịu sự quản lý nhà nước của Bộ Giáo dục và
đào tạo và các cơ quan quản lý có thẩm quyền ở trung ương và địa phương. Mặc dù
đã xuất hiện khả năng khơng cịn quan hệ chủ quản, nhưng các trường đại học công
lập vẫn chủ yếu nằm trong mối quan hệ quản lý theo trật tự thứ bậc trên – dưới nặng
về cơ chế, “xin – cho”. Như vậy, trường đại học cơng lập khó có thể trở thành một
thực thể pháp nhân độc lập chịu trách nhiệm trước pháp luật và tự chủ thực hiện có
hiệu quả các hoạt động đáp ứng yêu cầu giáo dục đại học và nghiên cứu, phát triển
khoa học, công nghệ.


<i>f) Tập đồn hóa trong quản trị đại học cấp trường</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(19)</span><div class='page_container' data-page=19>

Phần 1. TRIẾT lÝ, MÔ THỨc, PHƯƠNG THỨc GIÁO Dục THEO ĐỊNH HƯỚNG 4.0

147


và đại diện ban chấp hành Đồn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh. Như vậy, trong
quản trị đại học cấp trường ở Việt Nam vẫn chưa xác định rõ ai là người quản trị
đứng đầu, ai là người giúp việc về mặt quản trị hành chính, quản trị học thuật và
quản trị tài chính nhất là quản trị huy động các nguồn lực cho nhà trường. Tập đồn
hóa đại học cơng lập địi hỏi phải có quy định giúp trả lời rõ ràng những câu hỏi đại
loại như vậy về thành phần, cấu trúc của tổ chức quản trị đại học cấp trường. Về
mặt này, có lẽ tập đồn hóa ở Việt Nam mới chỉ đang trong giai đoạn thí điểm, “thử
và sai” cần được tiếp tục đổi mới ngay cả trong quan niệm về sử dụng từ ngữ “tập
đồn” và “tập đồn hóa”. Mặc dù trong thực tế ở Việt Nam những năm gần đây đã


xuất hiện và phát triển một số tập đoàn giáo dục sở hữu các trường học từ trường
mầm non đến trường đại học.


<b>Kết luận</b>


Trong bối cảnh ngân sách nhà nước bị cắt giảm đối với giáo dục đại học, quản
trị đại học theo hướng tập đồn hóa là một lựa chọn ưu tiên trên các cấp độ quốc
tế, quốc gia và thể chế hay tổ chức của cơ sở giáo dục đại học. Các nghiên cứu về
đổi mới giáo dục đại học ở châu Âu, châu Á và nhiều nơi khác cho thấy quản trị đại
học khu vực công lập và tư thục đều có thể chuyển dịch theo hướng tập đồn hóa.
Điều cơ bản và quan trọng của q trình chuyển dịch theo hướng tập đồn hóa là
trường đại học không bị biến mất, không bị biến thành tập đoàn kinh tế, tập đoàn
kinh doanh và quản trị đại học không phải là quản trị kinh doanh, không phải quản
trị kinh tế. Mặc dù nhiều bộ phận, nhiều cấu trúc và nhiều quá trình giáo dục đại học
có thể bị “tập đồn hóa” theo nghĩa là chỉ tập trung vào mục tiêu nâng cao hiệu quả
có thể lượng hóa bằng tiền. Bởi vì hiệu quả, thu nhập, lợi nhuận vẫn không phải là
mục tiêu cuối cùng của trường đại học và quản trị đại học. Mà tất cả những chuyển
dịch, những thay đổi theo hướng tập đồn hóa của quản trị đại học đều nhằm mục
tiêu cuối cùng là nâng cao uy tín và năng lực cạnh tranh của trường đại học trong
môi trường nội địa và quốc tế đang liên tục biến đổi.


<b>LỜI CẢM ƠN</b>


Nghiên cứu được tài trợ bỏi Đại học Quốc gia Hà Nội trong đề tài mã số
QG.18.27.


<b>TÀI LIỆU THAM KHẢO</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(20)</span><div class='page_container' data-page=20>

2. file:///C:/Users/Admin/Downloads/2019%20Bao%20cao%20giao%20duc%20


thuong%20nien/Corporation%20of%20Univ/The-History-of-University-Autonomy-in-Malaysia-.pdf.


3. Molly N. N. Lee. Corporatization and Privatization of Malaysian Higher
Education. International Higher Educaion. 1998. file:///C:/Users/Admin/
Downloads/6419-Article%20Text-12302-1-10-20150325%20(1).pdf.


4. Ainun Hj. Abd. Majid & Mohammad Adam Bakar. Corporatisation of Malaysian
Public Universites: a Case Study. 2017,
file:///C:/Users/Admin/Downloads/957-Article%20Text-2202-1-10-20171206%20(2).pdf.


5. Abd Rahman Ahmad, Alan Farley, Ng Kim-Soon. “Funding Reforms in
Malaysian Public Universities: Transitions towards Competitive Funding”.
Australian Journal of Basic and Applied Sciences, 7(10): 553-561, 2013.


6. Jun Oba (2004). Incorporation of National Universities in Japan – Reform towards
the enhancement of autonomy in search of excellence. In RIHE. Organization
Reforms and University Governance: Autonomy and Accountability. 2004
7. file:///C:/Users/Admin/Downloads/2019%20Bao%20cao%20giao%20duc%20


thuong %20nien/Corporation%20of%20Univ/incorporation2003.pdf;


8. Jun Oba (2006). Incorporation of National Universities in Japan and its Impact
upon Institutional Governance.


9. file:///C:/Users/Admin/Downloads /2019%20Bao%20cao%20giao%20duc%20
thuong%20nien/Corporation%20of% 20Univ/ incorporation2006.pdf


10. Kiyoshi Yamamoto (2004). Corporatization of National Universities in Japan:
An analysis of the impact on governance and finance. http://ump.p.u-tokyo.
ac.jp/crump/resource/crump_wp_no3.pdf.



11. Luật Ngân sách Nhà nước 2002, luật số 01/2002/QH11; Luật Ngân sách Nhà
nước 2015, luật số 83/2015/QH13.


12. />khai_mau_24.pdf.


</div>
<span class='text_page_counter'>(21)</span><div class='page_container' data-page=21>

Phần 1. TRIẾT lÝ, MÔ THỨc, PHƯƠNG THỨc GIÁO Dục THEO ĐỊNH HƯỚNG 4.0

149


<b>THREE CORPORATISATION MODELS OF OVERSEASPUBLIC UNIVERSITIES </b>
<b>AND TRANSITION OF UNIVERSITY GOVERNANCE IN VIETNAM</b>


<b>Abstract: In Vietnam, education corporations including universities newly </b>
emerge in private sector and corporatisation of public universities has not been
institutionalized in the innovation policy of higher education. Meanwhile, in the
world, some countries such as Malaysia, Japan and Canada have conducted
corporatisation in higher education,turned public universities into independent
legal entities which are independent of state management agencies, taking
legal obligation and autonomus operationto ensure efficiency and quality in the
market economy. Studying the content of corporatisation models of overseas
public universitiesmay help to clarify transitionprocess of University Governance
in Vietnamto meet the objectives, requirements and obligations of fundamental
and comprehensive innovation in education. The article uses survey data from
<i>the topic of Hanoi National University: “Annual Education Report 2018: University </i>


<i>Administration in Vietnam intransition process” (National University topic, code </i>


No. QG.18.27), by the group author of this article.


</div>

<!--links-->

×