Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (244.07 KB, 6 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
25
<i>Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 144 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam </i>
Nhận ngày 05 tháng 01 năm 2017
Chỉnh sửa ngày 28 tháng 02 năm 2017; Chấp nhận đăng ngày 22 tháng 3 năm 2017
<b>Tóm tắt: Bảo đảm quyền tiếp cận công lý là một yêu cầu đối với Tòa án trong việc bảo đảm </b>
quyền con người. Mục đích quan trọng nhất của tố tụng tư pháp là bảo đảm cho mọi đối tượng
trong xã hội có quyền tiếp cận cơng lý, tiếp cận Tịa án một cách khơng hạn chế và được xét xử
công bằng, trong thời gian hợp lý. Bất bình đẳng về tiếp cận thơng tin và các dịch vụ pháp lý đang
là rào cản trong việc tiếp cận công lý, bảo đảm quyền của người dân trên thực tế. Việc cải cách tư
pháp và nâng cao hiệu lực, hiệu quả của pháp luật là nhu cầu cấp thiết bảo đảm quyền con người
hiện nay ở Việt Nam.
<i><b>Từ khóa: Tịa án; tiếp cận công lý; bảo đảm quyền con người. </b></i>
Bảo đảm quyền và khả năng tiếp cận công
lý được coi là một trong những nguyên tắc bản
chất của quyền tư pháp và cũng là một trong
những đặc trưng cơ bản bảo đảm quyền con
người bằng Tòa án. Khái niệm "Quyền tiếp cận
công lý" được nhắc đến nhiều trong khoa học
pháp lý và trên các diễn đàn, các nghiên cứu
pháp lý quốc tế và quốc gia trong thời gian
<b>1. Tiếp cận công lý bảo đảm cho quyền được </b>
<b>xét xử công bằng</b>
Xuất phát từ khái niệm cơng lý chính là
công bằng, lẽ phải, sự thật. Cơng lý bảo đảm
hồn trả cho mọi người cái mà họ có quyền
<sub>Tác giả liên hệ. ĐT.: 84-437549177 </sub>
Email:
Dù cách tiếp cận hiện đại này mở ra các cơ
hội chủ động cho việc bảo vệ công lý, bảo vệ
quyền con người thông qua nhiều cơ chế,
phương thức khác nhau để giải quyết các tranh
chấp, tuy nhiên trong phạm vi một quốc gia,
hiệu quả nhất của tiếp cận cơng lý là tìm kiếm
sự cơng bằng, khắc phục sự bất công, thiệt hại,
tổn thương thông qua các thiết chế quyền lực
của nhà nước, đặc biệt là thiết chế tư pháp -
Tòa án.
Quyền tiếp cận công lý vừa là yêu cầu, vừa
là mục tiêu của sự phát triển, là sự bảo đảm tự
Mục tiêu cuối cùng của tiếp cận công lý là
bảo đảm quyền được xét xử công bằng, được
khôi phục lại quyền lợi bị xâm hại bởi các chủ
xử, xét xử kịp thời và quyền bình đẳng trước
pháp luật và Tòa án [2, tr.32]...
Điều 10, Tuyên ngôn thế giới về nhân
<i>quyền (UDHR) quy định rằng "mọi người đều </i>
<i>bình đẳng về quyền được xét xử công bằng và </i>
<i>công khai bởi một tòa án độc lập và khách </i>
<i>quan" để xác định các quyền và nghĩa vụ của </i>
người tham gia tố tụng, cũng như về bất cứ sự
buộc tội nào đối với họ. Mọi người đều được
đối xử cơng bằng trước tịa án, được suy đốn
vơ tội và được đảm bảo những tố tụng tối thiểu
dành cho bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự
như được thơng báo khơng chậm trễ và chi tiết
bằng một ngôn ngữ mà người đó hiểu về bản
chất và lý do buộc tội mình; có đủ thời gian và
điều kiện thuận lợi để chuẩn bị bào chữa và liên
hệ với người bào chữa do chính mình lựa chọn;
được xét xử mà khơng bị trì hỗn một cách vơ
lý; được có mặt trong khi xét xử và được tự bào
chữa hoặc thông qua sự trợ giúp pháp lý theo sự
lựa chọn của mình; được thẩm vấn hoặc yêu
sự do người dân khiếu kiện, Tòa án vẫn phải
xem xét giải quyết. Các quy định về thẩm
quyền của Tòa án (thẩm quyền theo lãnh thổ,
thẩm quyền theo vụ việc) phải bảo đảm để các
bên có thể tiếp cận đến Tòa án giải quyết vụ
việc một cách hợp lý và bình đẳng. Tịa án có
thẩm quyền phải có trách nhiệm thụ lý vụ án để
giải quyết theo quy định của pháp luật, có nghĩa
vụ hướng dẫn cho các bên hoặc chuyển đơn
khởi kiện, đơn yêu cầu đến Tịa án có thẩm
quyền và báo cho người khởi kiện, người yêu
cầu nếu vụ việc dân sự thuộc thẩm quyền giải
quyết của Tòa án khác, bảo đảm vụ việc được
xét xử một cách nhanh chóng, hợp lý, tránh kéo
dài, gây ảnh hưởng đến quyền lợi của các bên
và tốn kém về thời gian, tiền của của cá nhân và
Nhà nước.
Bảo đảm quyền tiếp cận cơng lý cho nhóm
người dễ bị tổn thương là một trong những đối
tượng được luật nhân quyền quốc tế và pháp
Thực tế cho thấy đối với người dân yếu thế,
khơng có sức mạnh quyền lực, tiền tài, thậm chí
khơng có cả am hiểu về kiến thức pháp luật nên
bản thân không thể chống đỡ được sự xâm hại
từ các chủ thể khác. Quyền yêu cầu được Tòa
án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình
hay quyền tiếp cận công lý là một trong những
<i>xét xử và được tự bào chữa hoặc nhờ sự trợ </i>
<i>giúp pháp lý do mình chọn; nếu chưa có sự trợ </i>
<i>giúp pháp lý thì phải được thơng báo về quyền </i>
<i>này; trong trường hợp do lợi ích của cơng lý </i>
<i>địi hỏi, phải bố trí cho người đó một sự trợ </i>
<i>giúp pháp lý mà khơng phải trả tiền nếu người </i>
<i>đó khơng có đủ điều kiện để trả" (điểm d, khoản </i>
3 Điều 14 ICCPR).Quyền yêu cầu được Tòa án
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp là sự bảo đảm
an tồn cho mọi cơng dân, giúp những người
nghèo nhất, khó khăn nhất cũng có thể được
Tòa án bảo vệ, đặc biệt trong các tranh chấp
dân sự khi mà tố tụng yêu cầu phải có sự khiếu
kiện của đương sự thì vụ việc dân sự mới được
Tòa án thụ lý giải quyết.
Việc triển khai thực tế quyền tiếp cận công
lý đặc biệt phải được bảo đảm bởi một hệ thống
trợ giúp pháp lý. Sự hiểu biết pháp luật của
người dân rất có ý nghĩa đối với việc tiếp cận
công lý, bởi lẽ một người không biết được các
quyền và cơ chế bảo vệ quyền sẽ không bao giờ
có những ý tưởng và hành động về tiếp cận
<b>2. Tăng cường quyền tiếp cận công lý ở Việt </b>
<b>Nam hiện nay </b>
Quyền tiếp cận công lý đã được ghi nhận và
bảo đảm trong Hiến pháp và pháp luật tố tụng ở
nước ta, Chương trình cải cách tư pháp đến năm
2020 và kế hoạch công tác cải cách tư pháp
năm 2006 của ngành TAND đã đặt ra mục tiêu:
<i>"Nghiên cứu, từng bước thực hiện đổi mới thủ </i>
<i>dàng thực hiện quyền khởi kiện của họ trước </i>
<i>Tòa án, người dân khởi kiện ở một Tòa án, Tịa </i>
<i>án có trách nhiệm xác định thẩm quyền giải </i>
<i>quyết thuộc cơ quan nào để chuyển hồ sơ và </i>
<i>thông báo cho người khởi kiện biết; cơng khai </i>
<i>hóa thủ tục tiếp cận hồ sơ, cung cấp tài liệu, </i>
<i>thơng tin, trích lục bản án, quyết định của Tòa </i>
<i>án theo quy định của pháp luật". Việc khẳng </i>
định mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền
trong Hiến pháp 1992 và đã được cụ thể hóa
trong Hiến pháp 2013 với việc hiến định các giá
trị của nhà nước pháp quyền như quyền con
Chẳng hạn, khảo sát trên những nhóm thành
phần xã hội khác nhau về giới tính, địa vị, thu
nhập, khu vực sinh sống cho thấy đang có sự
gia tăng bất bình đẳng về thu nhập và cơ hội,
bất bình đẳng trong tiếp cận hệ thống pháp luật
và tư pháp, trong giải quyết các tranh chấp pháp
lý dân sự và khiếu nại hành chính, tước đi cơ
hội cho cạnh tranh cơng bằng và bình đẳng giữa
các cá nhân, tổ chức,...
Thực trạng về các tranh chấp, khiếu kiện
thương mại, đất đai, môi trường và các tranh
chấp dân sự. Khi hỏi về cách giải quyết các
tranh chấp này, một số khơng ít người dân trả
lời rằng "không hành động" hoặc "khơng biết
phải làm gì" khi có các tranh chấp (22% đối với
tranh chấp đất đai, 37% đối với tranh chấp lao
động) [3, tr.32]. Đối với những người "hành
động" khi có tranh chấp, người dân thường tìm
đến các cơ quan hành chính địa phương cấp
xã/phường hoặc cơ quan hành chính cấp
huyện/quận, tỉnh/thành để yêu cầu giải quyết và
hỗ trợ. Người dân phải tiếp cận từ 1-5 cơ quan
để yêu cầu hỗ trợ và giải quyết tranh chấp, thời
gian thường kéo dài hơn so với quy định của
Luật khiếu nại.
Khảo sát cho thấy các cơ quan, tổ chức, cá
nhân được người dân lựa chọn để giải quyết
tranh chấp gồm: cơ quan hành chính (UBND
xã, phường, cơ quan hành chính cấp huyện,
tỉnh), cơ quan tư pháp (Tòa án), cơ quan dân
cử, tổ chức quần chúng, quan hệ cá nhân, các
Tình trạng tiếp cận công lý ở nước ta còn
thấp do nhiều nguyên nhân, chủ yếu là: hạn chế
của người dân trong việc tiếp cận pháp luật và
các dịch vụ trợ giúp pháp lý, đặc biệt là đối với
những người nghèo, những người ở vùng sâu,
vùng xa, có hồn cảnh khó khăn; thủ tục tiếp
cận các dịch vụ pháp lý công và tư pháp còn
rườm rà; việc giải quyết khiếu kiện còn kéo dài
mất thời gian; tính hiệu quả của việc giải quyết
các tranh chấp bằng quyền lực cơng ở đâu đó
vẫn chưa thật sự tạo niềm tin cho dân chúng.
Để thúc đẩy quyền tiếp cận công lý, bảo đảm
công bằng và bình đẳng cho người dân ở nước
ta hiện nay, cần phải tiếp tục công cuộc cải cách
tư pháp hướng tới việc nâng cao hiệu lực, hiệu
quả của pháp luật, quyền tiếp cận công lý như:
<i>Thứ nhất, tăng cường tuyên truyền, phổ </i>
giải quyết các tranh chấp pháp lý. Mặc dù
người nghèo, người khuyết tật và người thuộc
<i>Thứ hai, đổi mới, đơn giản hóa các thủ tục </i>
hành chính theo tinh thần cải cách tư pháp
nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tiếp
cận công lý. Đối với hệ thống Tịa án, cơng khai
mẫu đơn, thủ tục tố tụng trong giải quyết các
tranh chấp tại các trụ sở tòa án là một yêu cầu
bắt buộc. Tuy nhiên, không ít Tòa án cấp
huyện, cấp tỉnh không niêm yết các thơng tin
này. Thủ tục hành chính cịn rườm rà, phức tạp,
chẳng hạn, sự đòi hỏi nhiều loại giấy tờ khi việc
nộp đơn khởi kiện, hay thủ tục xin giấy chứng
nhận bào chữa của những người tham gia bào
chữa cho bị can, bị cáo, quyền và lợi ích hợp
<i>Thứ ba, các dịch vụ pháp lý phải được cung </i>
cấp ở mức chi phí hợp lý, tạo điều kiện cho tầng
lớp dân cư bao gồm người nghèo, người có thu
nhập thấp có thể tiếp cận được.
<i>Thứ tư, việc tổ chức hệ thống Tòa án hiện </i>
nay phải thuận lợi cho việc đi lại giải quyết các
khiếu kiện của người dân. Rào cản về địa lý
trong việc tiếp cận tư pháp cùng với thủ tục
rườm rà là những nguyên nhân khiến người dân
không muốn chọn lựa phương thức giải quyết
tranh chấp bằng các thiết chế công quyền. Thực
tế, để theo đuổi các vụ kiện có đương sự phải đi
lại nhiều lần hàng trăm cây số đến dự phiên tòa,
khiến người dân thấy phiền hà, mệt mỏi.
<i>Thứ năm, cần phải nâng cao vị trí, vai trị </i>
của Tòa án trong hoạt động tư pháp. Tiếp tục
các giải pháp tăng cường tính độc lập, thẩm
quyền xét xử và chất lượng xét xử của Tòa án.
Tòa án có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ
quyền con người, quyền công dân (khoản 3
Điều 102 Hiến pháp năm 2013), thì mọi tranh
chấp mà người dân khiếu kiện đều phải được
<i>phải thực sự là chỗ dựa của nhân dân trong </i>
<i>việc bảo vệ công lý, quyền con người, đồng thời </i>
<i>phải là công cụ hữu hiệu bảo vệ pháp luật và </i>
<i>pháp chế xã hội chủ nghĩa, đấu tranh có hiệu </i>
<i>quả với các loại tội phạm”. </i>
<b>3. Kết luận </b>
Thực trạng tiếp cận công lý được coi là
thước đo bảo đảm cơng bằng và bình đẳng của
mọi người dân trong một xã hội. Sự bất bình
đẳng trong việc tiếp cận cơng lý có thể tạo ra từ
tâm lý truyền thống của người dân trong việc
chọn lựa các phương thức bảo đảm quyền của
mình khi có tranh chấp (ngại kiện tụng) nhưng
cũng khơng thể phủ nhận rằng tính hiệu quả của
các thiết chế công quyền trong việc bảo đảm
quyền con người còn chưa đáp ứng được yêu
cầu của người dân. Việc cải cách tư pháp và
nâng cao hiệu lực, hiệu quả của pháp luật là nhu
cầu cấp thiết bảo đảm quyền con người hiện
nay ở Việt Nam. Cần phải hiện thực hóa vai trị
bảo vệ cơng lý, bảo vệ quyền con người là
nhiệm vụ hàng đầu của Tòa án để người dân tin
tưởng và lựa chọn Tòa án làm thiết chế bảo vệ
quyền của mình.
<b>Tài liệu tham khảo </b>
[1] Vũ Công Giao (2009), Tiếp cận công lý và các
nguyên lý của Nhà nước pháp quyền, Tạp chí
Khoa học, ĐHQGHN, Luật học 25, tr. 189, 190.
[2] Đào Trí Úc (2014), Bản chất, đặc điểm và các
nguyên tắc chủ đạo của quyền tư pháp. Bài đăng
trong sách: Cải cách tư pháp vì một nền tư pháp
liêm chính, Nxb ĐHQGHN, tr. 32.
<i>VNU School of Law, 144 Xuan Thuy, Cau Giay, Hanoi, Vietnam </i>
<b>Abstract: Guarantee of access to justice is a demand toward the Court in protection of human </b>
rights. The most important purpose of judicial proceedings is to guarantee for all persons in the society
to have access to justice, access to the Court in an unlimited manner and to have fair trial in reasonable
time. Unfair in access to justice and legal services are ostacles in access to justice and warranty of civil
rights in reality. Judicial reform and enhancement of validity and effectiveness of the law is urgent
need to assure human rights in Vietnam at the moment.