Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUẢN LÝ KẾ TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM XDCB TRONG DOANH NGHIỆP XÂP LẮP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (206.65 KB, 34 trang )

LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUẢN LÝ KẾ TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ
TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM XDCB TRONG DOANH NGHIỆP XÂP
LẮP
I. Những vấn đề chung về chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm
trong hoạt động Xây lắp
1.Đặc điểm của hoạt động xây lắp
Xây dựng cơ bản là ngành sản xuất vật chất mang tính chất công nghiệp
và có vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế, nó tạo ra trang bị TSCĐ cho tất
cả các ngành kinh tế quốc dân, góp phần quan trọng trong việc xây lắp cơ sở hạ
tầng và công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá XHCN.
Ngành xây dựng cơ bản có những đặc điểm riêng biệt, khác với những
ngành sản xuất khác như chu kỳ sản xuất dài, sản phẩm có tính chất đơn chiếc,
đó là những công trình, vật kiến trúc có quy mô lớn, kết cấu phức tạp, thời
gian xây lắp và lắp đặt dài, sản phẩm không đem ra thị trường tiêu thụ, hầu hết
có người đặt hàng trước khi xây lắp và nơi sản xuất cũng đồng thời là nơi
tiêu thụ. Chính những sự khác nhau đó đã ảnh hưởng rất lớn tới công tác quản
lý và hạch toán trong XDCB. Đặc điểm này làm công tác quản lý sử dụng và
hạch toán tài sản, vật tư rất phức tạp vì chịu ảnh hưởng lớn của thiên nhiên,
thời tiết dễ mất mát hư hỏng... Đối với sản phẩm xây lắp phải lập dự toán và
quá trình sản xuất phải so sánh với dự toán.
Những đặc điểm trên của ngành XDCB có ảnh hưởng rất lớn tới công
tác tổ chức hạch toán kế toán làm cho phương pháp tập hợp chi phí sản xuất
và tính giá thành cũng có đặc điểm thích hợp riêng biệt. Đối tượng tập hợp
chi phí sản xuất có thể là từng hạng mục công trình hoặc từng đơn vị thi công.
Đối tượng tính giá thành xây lắp và các hạng mục công trình hoàn thành, các
khối lượng công tác xây lắp có dự toán riêng đã hoàn thành.
Việc xác định đối tượng tính giá thành phải chi tiết phù hợp với chế độ
thanh toán sản phẩm xây lắp hoàn thành nhưng cuối cùng vẫn phải là từng
hạng mục công trình hoàn thành bàn giao đưa vào sử dụng. Vì vậy, phương
pháp tính giá thành sản phẩm xây lắp chủ yếu là phương pháp tính trực tiếp
hoặc phương pháp tính tổng cộng chi phí.


Phương pháp lập dự toán trong XDCB là phương pháp lập theo từng
hạng mục công trình và được phân tích theo các khoản mục chi phí. Do vậy,
việc phân loại theo chi phí sản xuất và cơ cấu giá thành sản phẩm xây lắp
cũng chủ yếu được phân loại theo khoản mục (theo công dụng kinh tế). Theo
quy định của chế độ kế toán áp dụng từ trước tháng 10/1994 chi phí sản xuất
trong các xí nghiệp xây lắp được xếp thành 6 khoản mục:
- Chi phí nguyên vật liệu
- Chi phí nhân công
- Chi phí sử dụng máy
- Chi phí trực tiếp khác
- Phí tổn gián tiếp
- Chi phí thiệt hại trong sản xuất (Chi phí này không được tính trong dự
toán)
Theo chế độ kế toán mới thì một phần khoản mục phí tổn gián tiếp được
kết chuyển trực tiếp vào TK 911 "xác định kết quả" và khoản chi phí này
không được coi là khoản mục giá thành.
2. Chi phí sản xuất và phân loại chi phí sản xuất
Trong các xí nghiệp xây lắp, quá trình sản xuất cũng xảy ra theo đúng
chức năng chủ yếu của quá trình sản xuất nói chung. Đó là quá trình kết hợp
giữa tư liệu lao động, đối tượng lao động và sức lao động để tạo thành sản
phẩm. Trong quá trình này sẽ phát sinh những chi phí bao gồm: một phần hao
phí lao động sống và lao động quá khứ được vật hoá trong tư liệu sản xuất.
Lao động sống và lao động vật hoá mà xí nghiệp xây lắp phải bỏ ra
trong quá trình sản xuất thi công được biểu hiện ra ở sức lao động, tư liệu lao
động và đối tượng lao động. Trong sản xuất xây lắp đòi hỏi xí nghiệp phải kết
hợp chặt chẽ 3 yếu tố trên để tạo ra sản phẩm tốt, giá thành hạ, đáp ứng yêu
cầu thiết kế.
Trong điều kiện xã hội còn tồn tại quan hệ hàng hoá - tiền tệ thì những
chi phí bỏ ra trong quá tình sản xuất xây lắp được biểu hiện dưới hình thành
giá trị. Ba yếu tố chi phí cơ bản trong sản xuất xây lắp tham gia vào quá trình

sản xuất xây lắp với mức độ khác nhau hình thành nên các yếu tố chi phí tương
ứng đó là: chi phí về khấu hao tài sản cố định, chi phí về nguyên vật liệu và
chi phí về nhân công. Những yếu tố chi phí này chính là chi phí sản xuất trong
xí nghiệp xây lắp. Vậy chi phí sản xuất trong xí nghiệp xây lắp là toàn bộ
những chi phí lao động sống và lao động vật hoá phát sinh trong quá trình sản
xuất sản phẩm của xí nghiệp. Bao gồm chi phí sản xuất xây lắp và chi phí sản
xuất ngoài xây lắp
Trong xí nghiệp xây lắp, chi phí sản xuất bao gồm nhiều loại có tính chất
kinh tế khác nhau có công dụng kinh tế khác nhau và yêu cầu quản lý đối với
từng loại chi phí cũng khác nhau. Việc quản lý sản xuất, quản lý chi phí sản
xuất không thể chỉ dựa vào số liệu phản ánh tổng hợp chi phí sản xuất, mà còn
phải căn cứ vào số liệu cụ thể của từng loại chi phí riêng biệt, để phục vụ cho
yêu cầu kiểm tra và phân tích toàn bộ các chi phí sản xuất, hoặc từng yếu tố
kinh tế ban đầu của chúng theo từng hạng mục công trình, từng công trình,
theo từng nơi phát sinh chi phí và nơi chịu chi phí. Do đó, đòi hỏi phải có sự
phân loại chi phí và đó là một yêu cầu tất yếu để hạch toán chính xác chi phí
sản xuất phấn đấu hạ giá thành.
Phân loại chi phí sản xuất một cách khoa học và thống nhất không những
có ý nghĩa quan trọng đối với hạch toán mà còn là tiền đề rất quan trọng của kế
hoạch hoá, kiểm tra và phân tích chi phí sản xuất của toàn xí nghiệp, thúc đẩy
không ngừng tiết kiệm chi phí sản xuất, hạ giá thành, phát huy hơn nữa vai
trò của công cụ kế toán đối với sự nghiệp phát triển của xí nghiệp.
Xuất phát từ đặc điểm của sản phẩm xây lắp và yêu cầu quản lý của
XDCB làm cho việc phân loại chi phí sản xuất có những nét không giống với
những ngành sản xuất khác. Thông thường chi phí sản xuất được phân loại theo
hai phương pháp chủ yếu sau:
a. Phân loại chi phí sản xuất theo tính chất kinh tế
Theo phương pháp này chi phí sản xuất được phân thành:
- Nguyên vật liệu chính mua ngoài
- Vật liệu phụ mua ngoài (gồm vật liệu phụ, phụ tùng và công cụ lao

động nhỏ)
- Nhiên liệu mua ngoài
- Năng lượng, động lực mua ngoài
- Tiền lương công nhân viên
- Bảo hiểm xã hội của công nhân viên
- Khấu hao tài sản cố định
- Chi phí khác bằng tiền
Phân loại chi phí sản xuất theo cách này giúp ta biết được các chi phí nào
đã dùng vào quá trình sản xuất. Đồng thời cũng cho ta biết tỷ trọng của từng
loại chi phí sản xuất của xí nghiệp xây lắp. Từ đó giúp cho đơn vị xác định
được định mức lao động, vật tư, định mức vốn lưu động, kiểm tra việc thực
hiện dự toán trong quá trình sản xuất. Nó là tài liệu quan trọng dùng làm căn cứ
để xác định mức tiêu hao vật chất vào thu nhập quốc dân, cân đối vĩ mô toàn
bộ nền kinh tế quốc dân.
b. Phân loại chi phí theo công dụng kinh tế:
Trong các xí nghiệp xây lắp hiện nay do yêu cầu hạch toán kinh tế nên chi
phí sản xuất phân loại theo công dụng kinh tế, gồm nhiều khoản mục thể
hiện điều kiện khác nhau của chi phí sản xuất, đồng thời cũng thể hiện nơi phát
sinh chi phí và đối tượng chi phí. Cụ thể như sau:
- Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: là các chi phí nguyên vật liệu phát
sinh thực tế để sản xuất sản phẩm xây lắp hay lắp đặt công trình. Chi phí này
được hạch toán chi tiết theo từng công trình xây lắp, lắp đặt (công trình, hạng
mục công trình, các giai đoạn công việc, khối lượng xây lắp có dự toán riêng).
- Chi phí nhân công trực tiếp: là các khoản thù lao lao động phải trả cho
công nhân trực tiếp xây, lắp các công trình và các khoản phụ cấp, các khoản
trích cho các quỹ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn. Chi phí
này cũng được hạch toán chi tiết theo từng công trình, hạng mục công trình, giai
đoạn công việc...
- Chi phí sử dụng máy: chi phí này được đưa vào dành cho máy móc xây
lắp khi máy hư hao trong quá trình sử dụng.

- Chi phí trực tiếp khác: Đây là những chi phí phục vụ sản xuất xây lắp
trong quá trình tiến hành xây dựng cơ bản tại các công trường, các đội và các
bộ phận sản xuất kinh doanh trong các doanh nghiệp xây dựng cơ bản ngoài
các chi phí trên. Chi phí này hạch toán chi tiết cho từng công trình, từng đội,
từng bộ phận.
Phân loại chi phí theo công dụng kinh tế cho thấy mức độ ảnh hưởng của
các nhân tố khác nhau đến giá thành sản phẩm, xác định mục đích chi tiêu,
giám sát quá trình thực hiện kế hoạch giá thành và hạ giá thành sản phẩm.
Ngoài ra dựa vào cách phân loại chi phí này để giúp cho công tác lập kế
hoạch giá thành, xác định giá thành thực tế và phân tích giá thành theo khoản
mục có cơ sở vững chắc.
c. Phân loại theo sản phẩm:
- Chi phí xây dựng: là toàn bộ chi phí phát sinh trong quá trình xây dựng
như chi phí nhân công, nguyên vật liệu, sử dụng máy thi công, chi phí phục vụ
quá trình xây lắp.
- Chi phí lắp đặt: là những chi phí phát sinh sau khi công trình được hoàn
thành. Bao gồm những chi phí như nghiệm thu, lắp đặt, chạy thử...
Trên đây là ba cách phân loại chi phí sản xuất trong các xí nghiệp xây
lắp. Ngoài hai cách phân loại trên còn có các cách phân loại khác như phân loại
theo địa điểm phát sinh chi phí, phân loại theo mối quan hệ với sản lượng...
Mỗi cách phân loại có một ý nghĩa riêng nhưng chúng lại bổ xung cho nhau
nhằm quản lý tốt chi phí sản xuất, cho phép kiểm tra toàn bộ chi phí phát sinh
trong phạm vi xí nghiệp theo từng yếu tốt riêng biệt của chúng, đồng thời có
tác dụng kiểm tra việc sử dụng chi phí theo từng khoản mục của giá thành sản
phẩm.
3. Giá thành sản phẩm và các loại giá thành sản phẩm:
a. Giá thành sản phẩm:
Giá thành sản phẩm là toàn bộ chi phí sản xuất và chi phí ngoài sản xuất
tính theo số lượng và loại sản phẩm đã hoàn thành.
Giá thành là một phạm trù kinh tế gắn liền với sản xuất hàng hoá. Nó là

một phạm trù kinh tế khách quan đồng thời có đặc tính chủ quan trong một
giới hạn nhất định. Giá thành là một bộ phận giá trị biểu hiện bằng tiền.
Nó cũng là một bộ phận của chi phí sản xuất xã hội bao gồm toàn bộ hao
phí về lao động vật hoá và một phần lao động sống để sản xuất hàng hoá. ở
góc độ này, giá thành là một phạm trù kinh tế khách quan bởi vì sự chuyển dịch
giá trị tư liệu sản xuất và lao động sống đã hao phí vào sản xuất là một sự cần
thiết tất yếu.
Đối với xí nghiệp, giá thành là một đại lượng tính toán, là chỉ tiêu có sự
biến tướng nhất định. Bởi vậy ở phương diện này, giá thành có đặt điểm chủ
quan nhất định (biểu hiện mặt hạn chế của chỉ tiêu giá thành). Đặc điểm chủ
quan của chỉ tiêu giá thành thể hiện ở hai khía cạnh:
Tính vào giá thành một số chi phí và về thực chất là thu nhập thuần tuý
của XH như: BHXH, các khoản nộp cho cơ quan cấp trên, thuế tài nguyên,
tiền sử dụng vốn...
Việc áp dụng nguyên tắc đánh giá khi biểu hiện hao phí bằng hình thức
tiền tệ, giá thành là một chỉ tiêu tính toán.
Bên cạnh đó, giá thành là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh chất
lượng toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh và quản lý kinh tế tài chính của
xí nghiệp (để xem xét quản lý giá thành, người ta căn cứ vào chỉ tiêu mức hạ
và tỷ lệ hạ giá thành). Thông qua chỉ tiêu hạ giá thành có thể thấy trình độ xử lý
và tiết kiệm chi phí vật liệu, nhân công, sử dụng máy thi công, khả năng tận
dụng công suất máy móc thiết bị sản xuất và mức độ trang bị kỹ thuật sản
xuất tiên tiến, kết quả của việc sử dụng hợp ký sức lao động, tăng năng suất
lao động và trình độ quản lý kinh tế tài chính, trình độ hạch toán của xí nghiệp.
Mặc dù giá thành sản phẩm xây lắp là một bộ phận của giá trị xấy lắp
nhưng nó không đồng nhất với giá trị sản phẩm xây lắp. Giá trị sản phẩm lớn
hay nhỏ hoàn toàn phụ thuộc vào lượng lao động xã hội cần thiết bỏ ra, còn giá
thành sản phẩm xây lắp chịu ảnh hưởng của giá cả, cước phí vận chuyển,
tiền lương... Giá thành sản phẩm xây lắp cao hay thấp còn phản ánh mọi mặt cố
gắng của xí nghiệp xây lắp như trình độ kỹ thuật thi công trình độ tổ chức

sản xuất thi công, tình hình sử dụng lao động, vật tư, thiết bị... có nghĩa là
giá thành sản phẩm xây lắp phản ánh trình độ kỹ thuật, trình độ kinh tế, trình
độ tổ chức, quản lý của xí nghiệp xây lắp. Như vậy, tất cả các mặt hoạt động,
các biện pháp chi tiêu, quản lý xí nghiệp xây lắp đem lại hiệu quả cao hay
thấp đều thể hiện ở chỉ tiêu giá thành sản phẩm xây lắp. Thông qua chỉ tiêu
giá thành sản phẩm xây lắp, người ta có thể xác định được kết quả quá trình
sản xuất kinh doanh mức độ tích luỹ của xí nghiệp xây lắp.
Hạ giá thành sản phẩm xây lắp là một nhiệm vụ quan trọng trong sản
xuất xây lắp. Việc hạ giá thành sản phẩm xây lắp một cách hệ thống là một
trong những nguyên tắc quan trọng nhất của sản xuất kinh doanh, nó là nhiệm
vụ hàng đầu của doanh nghiệp trong việc nâng cao chất lượng quản lý kinh tế
và cũng trên sơ sở hạ giá thành xây lắp có hệ thống thì mới nâng cao tích luỹ
một cách vững chắc và bảo đảm các phương tiện cần thiết để tái sản xuất mở
rộng xã hội và nâng cao đời sống cho cán bộ công nhân viên.
Tóm lại, trong điều kiện hạch toán kinh doanh XHCN, phấn đấu hạ giá
thành sản phẩm là điều kiện quan trọng để sản phẩm được thị trường chấp
nhận, đảm bảo tăng tốc độ và quy mô phát triển sản xuất, tăng tích luỹ và cải
thiện đời sống cho người lao động - là nhiệm vụ quan trọng và thường xuyên
của công tác quản lý kinh tế ở các doanh nghiệp sản xuất.
b. Các loại giá thành xây lắp:
Sản phẩm của hoạt động xây lắp có giá trị lớn, thời gian thi công dài và
mang tính chất đơn chiếc, có kết cấu phức tạp, khối lượng lớn. Do đó, mỗi
công trình có thiết kế dự toán riêng, giá trị từng hạng mục của công trình được
biểu hiện trong dự toán.
Giá trị dự toán hạng = Giá thành dự toán + Lãi định mức
mục công trình hạng mục công trình
Tác dụng của giá thành dự toán:
- Dự toán trước được nguyên vật liệu, chi phí xây lắp thì ước lượng được
giá trị công trình giúp cho nhà thầu dễ dàng thắng thầu.
- Từ giá thành dự toán xác định được khối lượng, loại vật liệu cần mua

tránh hiện tượng mua vật liệu tràn lan, lãng phí...
Về giá thành sản phẩm xây lắp hiện nay còn tồn tại 3 loại giá thành công
tác xây lắp sau:
* Giá thành dự toán công tác xây lắp:
Là một bộ phận của giá trị dự toán công tác xây lắp hoàn thành bàn
giao, hay nói cách khác giá thành dự toán công tác xây lắp là tổng số các chi
phí dự toán để hoàn thành khối lượng xây lắp công trình. Giá thành này được
xác định trên cơ sở các định mức kinh tế kỹ thuật quy định của Nhà nước và
khung giá của từng vùng lãnh thổ.
Thông qua tổng dự án công tác xây lắp (giá thành dự toán công tác xây
lắp) chúng ta có thể đánh giá được thành tích của xí nghiệp, nó là hạn mức chi
phí cao nhất mà xí nghiệp có thể chi ra để đảm bảo có lãi, là tiêu chuẩn để
phấn đấu hạ định mức thực tế.
* Giá thành kế hoạch công tác xây lắp:
Là giá thành được xác định xuất phát từ những điều kiện cụ thể của xí
nghiệp xây lắp trong giai đoạn kế hoạch hoá nhất định, nó là cơ sở để phấn đấu
hạ giá thành công tác xây lắp trong giai đoạn kế hoạch. Giá thành kế hoạch
được xác định trên cơ sở biện pháp thi công, các định mức nội bộ tiên tiến và
đơn giá áp dụng trong nội bộ xí nghiệp.
Công thức xác định:
Giá thành kế hoạch = Giá thành dự toán - Mức hạ giá thành
công tác xây lắp công tác xây lắp kế hoạch
Giá thành kế hoạch công tác xây lắp là mục tiêu cơ bản trong việc hạ giá
thành công tác xây lắp của các xí nghiệp xây lắp.
* Giá thành thực tế công tác xây lắp:
Là biểu hiện bằng tiền của tất cả các chi phí thực tế của xí nghiệp xây
lắp để hoàn thành một khối lượng xây lắp nhất định và giá thành thực tế
được xác định theo số liệu của kế toán cung cấp. Giá thành thực tế công tác
xây lắp bao gồm cả chi phí trong định mức, chi phí vượt định mức, chi phí
trong dự toán và chi phí ngoài dự toán của xí nghiệp được phép tính vào giá

thành.
Giá thành dự toán mang tính chất xã hội, do đó việc so sánh giá thành thực
tế với giá thành dự toán cho phép ta đánh giá trình độ quản lý của xí nghiệp
xây lắp trong mối quan hệ chung với các xí nghiệp xây lắp khác. Còn việc so
sánh giá thành dự toán với giá thành kế hoạch cho phép ta đánh giá trình độ
quản lý của xí nghiệp xây lắp trong mối quan hệ chung với các xí nghiệp xây
lắp khác. Còn việc so sánh giá thành dự toán với giá thành kế hoạch cho phép
ta đánh giá sự tiến bộ hay yếu kém của xí nghiệp xây lắp trong điều kiện cụ
thể về cơ sở vật chất kỹ thuật và trình độ quản lý của bản thân xí nghiệp.
Giữa 3 loại giá thành này có quan hệ chặt chẽ với nhau và yêu cầu các xí
nghiệp xây lắp phải phấn đấu đạt được, cụ thể là:
Giá thành dự toán > Giá thành kế hoạch > Giá thành thực tế
Giá thành kế hoạch = Giá thành dự toán - Mức lãi giá thành dự toán
Xuất phát từ đặc điểm của sản phẩm xây lắp cơ bản là có giá trị lớn, thời
gian xây lắp dài, do vậy để đáp ứng nhu cầu quản lý nói chung và quản lý giá
thành nói riêng thì giá thành sản phẩm xây lắp còn được chia thành hai chỉ tiêu
là giá thành khối lượng hoàn chỉnh và giá thành khối lượng hoàn thành quy
ước.
Giá thành khối lượng hoàn chỉnh là giá thành của những đối tượng huy
động vào sản xuất, sử dụng và có đủ khả năng phát huy tác dụng tương đối
độc lập. Giá thành khối lượng xây lắp hoàn chỉnh là giá thành hạng mục công
trình, công trình đã thi công đến giai đoạn cuối cùng, phù hợp với tiêu chuẩn
thiết kế quy định đã được bên A và bên B kiểm nhận, thanh toán và bàn giao
cho đơn vị sản xuất sử dụng. Chỉ tiêu này cho phép tính toán, đánh giá một
cách tổng quát hiệu quả kinh tế vốn đầu tư cho một công trình, nhưng lại không
đáp ứng được kịp thời cho việc phân tích đánh giá tình hình thực hiện kế
hoạch giá thành. Do đó, để đáp ứng yêu cầu quản lý và đảm bảo chỉ đạo sản
xuất kịp thời đòi hỏi xác định giá thành khối lượng xây lắp hoàn thành quy
ước.
Giá thành khối lượng xây lắp hoàn thành quy ước là giá thành của các

khối lượng xây lắp, mà khối lượng đó phải thoả mãn các điều kiện sau:
- Phải nằm trong thiết kế và đảm bảo chất lượng thiết kế quy định
- Phải đo đếm được và được chủ đầu tư (bên A) chấp nhận thanh toán
- Phải đạt điểm dùng kỹ thuật hợp lý
Giá thành khối lượng xây lắp hoàn thành quy ước phản ánh kịp thời chi
phí cho đối tượng xây lắp trong quá trình thi công xây lắp, giúp cho xí nghiệp
phân tích kịp thời các mặt hoạt động sản xuất kinh doanh để có những biện
pháp uốn nắn những sai lệch để đảm bảo thực hiện nhiệm vụ hạ giá thành,
song chỉ tiêu này lại phản ánh không toàn diện và không chính xác, do vậy
việc quản lý giá thành đòi hỏi phải sử dụng cả hai chỉ tiêu để đảm bảo quản lý
giá thành được toàn diện và chính xác.
4. Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm:
* Giống nhau:
- Chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm đều là biểu hiện bằng tiền của những
chi phí doanh nghiệp đã bỏ ra cho hoạt động sản xuất.
- Chi phí là sự biểu hiện về mặt hao phí, giá thành là biểu hiện về mặt kết quả
của quá trình vì vậy chúng giống nhau về bản chất và là hai mặt thống nhất
của một quá trình.
- Chi phí sản xuất trong kỳ là cơ sở, căn cứ để tính giá thành sản phẩm, công
việc lao vụ hoàn thành, sự tiết kiệm hay lãng phí chi phí đều ảnh hưởng trực
tiếp đến giá thành sản phẩm. Quản lý giá thành luôn gắn liền với quản lý chi
phí sản xuất.
* Khác nhau:
- Chi phí sản xuất luôn gắn liền với từng thời kì phát sinh chi phí còn giá
thành lại gắn với khối lượng sản phẩm, công việc, lao vụ hoàn thành.
- Chi phí sản xuất trong kỳ bao gồm cả những chi phí sản xuất đã trả trước
trong kỳ chưa phân bổ trong kỳ này và những chi phí phải trả kỳ trước
nhưng kỳ này mới phát sinh nhưng không bao gồm chi phí trả trước của kỳ
trước phân bổ cho kỳ này và những chi phí phải trả kỳ này chưa thực tế phát
sinh. Còn giá thành sản phẩm thì ngược lại, nó chỉ liên quan đến chi phí phải

trả trong kỳ và chi phí trả trước được phân bổ trong kỳ.
- Chi phí sản xuất không chỉ liên quan những sản phẩm hoàn thành mà còn
liên uan đến cả sản phẩm hỏng và sản phẩm dở dang, còn giá thành sản
phẩm không liên quan đến chi phí sản phẩm dở dang và sản phẩm hỏng
nhưng lại liên quan đến chi phí sản xuất của sản phẩm dở dang kỳ trước
chuyển sang.
Sự khác nhau trên càng thể hiện rõ trong công thức sau:
Tổng giá
thành sản
phẩm
=
Chi phí SX
dở dang
đầu kỳ
+
Chi phí SX
phát sinh
trong kỳ
-
Chi phí dở
dang cuối
kỳ
Vì vậy, khi giá trị sản phẩm dở dang đầu kỳ và cuối kỳ bằng nhau thì tổng
giá thành sản phẩm bằng chi phí sản xuấtMối quan hệ giữa chi phí sản xuất và
*.Yêu cầu quản lý và nhiệm vụ kế toán tập chi phí sản xuất và tính giá thành
sản phẩm xây lắp
- Yêu cầu quản lý
Yêu cầu quản lý chi phí:
- Nắm rõ được mức độ của mỗi loại chi phí từ đó xây dựng kế hoạch tiết
kiệm chi phí nhằm giảm giá thành sản phẩm.

- Thường xuyên có sự kiểm tra đôn đốc để tránh hiện tượng tập hợp chi phí
nhầm lẫn và sai lệch.
Yêu cầu quản lý giá thành:
- Kiểm tra lại những hoá đơn chứng từ do kế toán chi phí chuyển lên để kế
toán tổng hợp xác định chính xác giá thành của từng công trình, hạ mục công trình.
- Kiểm tra lại việc xác định giá thành của kế toán tổng hợp, sau đó mới đưa
ra mức giá thành thực tế trước khi bàn giao công trình.
- Nhiệm vụ kế toán
Kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành có nhiệm vụ chủ yếu
sau:
- Kiểm tra tình hình thực hiện kế hoạch sản xuất ở từng bộ phận sản xuất
của xí nghiệp.
- Ghi chép, tính toán, phản ánh đầy đủ chi phí sản xuất và giá thành sản
phẩm của hoạt động xây lắp, xác định hiệu quả từng phần và toàn bộ hoạt
động sản xuất kinh doanh của xí nghiệp.
- Kiểm tra việc thực hiện các định mức tiêu hao vật tư lao động, sử
dụng máy thi công và các dự toán chi phí phục vụ quản lý sản xuất nhằm thúc
đẩy việc sử dụng hợp lý, tiết kiệm mọi chi phí trong quá trình sản xuất.
- Tính toán chính xác và kịp thời giá thành sản xuất xây lắp, các sản phẩm
và lao vụ của xí nghiệp theo kế hoạch giá thành.
- Kiểm tra việc thực hiện kế hoạch giá thành của xí nghiệp theo từng
khoản mục chi phí, từng hạng mục công trình, từng loại sản phẩm và lao vụ,
vạch ra khả năng tiềm tàng hạ giá thành sản phẩm xây lắp.
- Xác định đúng đắn và bàn giao thanh toán kịp thời khối lượng sản
phẩm xây lắp đã hoàn thành. Thực hiện kiểm kê, đánh giá hàng tháng khối
lượng xây lắp dở dang theo đúng quy định.
- Kiểm tra tình hình thực hiện nhiệm vụ hạ giá thành sản phẩm xây lắp.
* Yêu cầu tổ chức hợp lý kế toán chi phí và tính giá thành:
- Phải tập hợp các chi phí một cách chính xác, hợp lý để từ đó xác định đúng
giá trị của công trình xây lắp.

- Mỗi nghiệp vụ phát sinh phải hạch toán chi tiết tránh nhẫm lẫn trong việc
tổng hợp chi phí cuối kỳ.
- Xây dựng đội ngũ nhân viên kế toán có kinh nghiệm và có khả năng nhằm
đạt hiệu quả cao nhất trong quá trình tập hợp chi phí và tính giá thành.
II. Phương pháp kế toán chi phí xây lắp:
1. Đối tượng tập hợp chi phí sản xuất
Đối tượng tập hợp chi phí sản xuất là xác định một giới hạn nhất định các
loại chi phí được tập hợp.
Thực chất của việc xác định đối tượng tập hợp chi phí là xác định nơi phát
sinh chi phí và đối tượng chịu chi phí. Trước hết phải căn cứ vào mục đích sử
dụng của chi phí (sản xuất chính hay sản xuất phụ) sau đó căn cứ vào địa
điểm phát sinh của chi phí trong quá trình sản xuất (trực tiếp sản xuất hay
gián tiếp sản xuất) để xác định đối tượng tập hợp chi phí thích hợp. Việc xác
định đối tượng tập hợp chi phí nhằm giúp cho việc quản lý sản xuất, phục vụ
cho việc tính giá thành thuận lợi chính xác.
Đối tượng tập hợp chi phí ở từng doanh nghiệp cụ thể cần căn cứ vào
yêu cầu của cơ cấu tổ chức sản xuất, trình độ quản lý kinh tế. Cụ thể là:
- Tính chất sản xuất và đặc điểm quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm:
Nếu xí nghiệp có quy trình sản xuất giản đơn thì đối tượng hay giới hạn
tập hợp chi phí toàn bộ quy trình sản xuất. Còn các xí nghiệp có quy trình
công nghệ phức tạp kiểu chế biến liên tục thì đối tượng tập hợp chi phí sản
xuất có thể là sản phẩm cuối cùng hoặc từng giai đoạn công nghệ.
Nếu xí nghiệp có quy trình công nghệ phức tạp kiểu song song thì đối
tượng tập hợp chi phí sản xuất có thể là sản phẩm hoặc từng bộ phận chi tiết
sản phẩm. Nếu sản phẩm có quá nhiều chi tiết thì có thể hạch toán cho từng
nhóm chi tiết sản phẩm cùng loại.
- Căn cứ vào loại hình sản xuất các xí nghiệp thuộc loại hình sản xuất đơn
chiếc thì đối tượng tập hợp chi phí sản xuất có thể là từng sản phẩm, từng công
trình, từng hạng mục, công trình như trong XDCB. Còn các xí nghiệp thuộc
loại hình sản xuất hàng loạt thì đối tượng tập hợp chi phí sản xuất có thể là

từng đơn đặt hàng.
- Căn cứ vào đặc điểm tổ chức sản xuất: Nếu xí nghiệp tổ chức sản xuất
theo phân xưởng thì đối tượng tập hợp chi phí sản xuất theo phân xưởng
hoặc tổng hợp chi phí sản xuất theo sản phẩm.
- Căn cứ theo yêu cầu quản lý, khả năng trình độ quản lý, trình độ hạch
toán của xí nghiệp để xác định đối tượng tập hợp chi phí sản xuất cho thích
hợp. Nếu trình độ quản lý, hạch toán của xí nghiệp càng cao thì đối tượng tập
hợp chi phí càng cụ thể và chi tiết hơn.
Do đặc điểm ngành XDCB là sản phẩm đơn chiếc, thời gian xây lắp dài,
mỗi công trình, mỗi hạng mục công trình có dự toán, thiết kế riêng, có đặc
điểm riêng biệt... Vì vậy, đối tượng tập hợp chi phí sản xuất trong xí nghiệp
xây lắp thường là hạng mục công trình, các giai đoạn công việc của hạng mục
công trình, hoặc nhóm hạng mục công trình cùng loại hoặc theo đơn đặt hàng
(theo từng hợp đồng), hoặc theo công trình, tổ đội thi công.
Ví dụ: tổ đội thi công: toàn bộ chi phí phát sinh trong quá trình xây lắp có
liên quan đến tổ đội thi công thì tập hợp riêng cho từng tổ đội. Hay theo công
trình thì toàn bộ chi phí phát sinh cho công trình đó thì tập hợp để tính giá thành
công trình...
2.Trình tự hạch toán chi phí sản xuất:
Có thể khái quát thông qua 04 bước sau (Tuy nhiên tuỳ theo cách hạch
toán hàng tồn kho mà doanh nghiệp áp dụng):
Bước 1: Tập hợp các chi phí cơ bản liên quan trực tiếp với đối tượng sử dụng.
Bước 2: Tính toán và phân bổ lao vụ của các ngành sản xuất kinh doanh phụ có
liên quan trực tiếp cho từng đối tượng sử dụng trên cơ sở khối lượng lao vụ
phục vụ và giá thành đơn vị lao vụ.
Bước 3: Tập hợp và phân bổ chi phí sản xuất chung cho các loại sản phẩm có
liên quan.
Bước 4: Xác định chi phí sản xuất dở dang cuối kỳ.
3. Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất sản phẩm xây lắp
a. Hạch toán chi phí vật liệu trực tiếp

Trong xí nghiệp xây lắp, vật liệu là tài sản dự trữ thuộc loại tài sản lưu
động là một trong 3 yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất, là cơ sở vật chất hình
thành nên sản phẩm mới. Nội dung khoản mục vật liệu trong giá thành sản
phẩm xây lắp bao gồm:
- Giá trị của vật liệu xây lắp: cột diện, cáp ngầm...
- Giá trị của các vật liệu khác: cát,xi măng xây dựng trạm biến áp và chôn
cột điện...

×