PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN HẠCH TOÁN CHI PHÍ SẢN
XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM TẠI XÍ NGHIỆP BẢO
TRÌ VÀ XÂY LẮP CƠ ĐIỆN HÀ NỘI.
1.Những nhận xét chung về thực tế kế toán tại doanh nghiệp
1.1.Những thành tựu và tồn tại của doanh nghiệp trong việc vận dụng chế
độ kế toán hiện hành.
Tại công ty Cổ phần chế tạo biến thế và thiết bị điện Hà Nội, chế độ kế
toán áp dụng là chế độ kế toán ban hành theo quyết định số 1177/TC/QĐ-TCKT
ngày 23/12/1996 và Quyết định số 144/2001/QĐ/BTC ngày 21/12/2001 của Bộ
Tài chính. Nhìn chung việc vận dụng chế độ kế toán đã được tổ chức một cách
khá đầy đủ. Chế độ chứng từ kế toán, chế độ tài khoản kế toán, chế độ sổ kế
toán và chế độ báo cáo kế toán đều đã đựoc doanh nghiệp vận dụng một cách
phù hợp với thực tế doanh nghiệp mặc dù nó chưa hoàn toàn đầy đủ. Vận dụng
chế độ kế toán tại doanh nghiệp cũng đã đem lại cho doanh nghiệp những thành
tựu đáng kể trong thời gian đầu tổ chức công tác kế toán. Tuy nhiên, bên cạnh
những thành tựu đó, thực tế công tác kế toán tại doanh nghiệp vấn còn tồn tại
một số vấn đề mà bộ máy quản lý doanh nghiệp nói chung và bộ máy kế toán
nói riêng cần phải xem xét để có được hướng khắc phục cho phù hợp.
1.1.1. Việc vận dụng chế độ chứng từ kế toán.
Hệ thống chứng từ kế toán đang được áp dụng tại Công ty là khá đầy đủ.
Doanh nghiệp đã sử dụng những chứng từ cần thiết, phù hợp với yêu cầu quản
lý tại doanh nghiệp. Các nghiệp vụ kinh tế phát sinh hầu hết đều đựơc chứng
minh bằng các chứng từ kế toán. Tuy nhiên, trong việc vận dụng hệ thống
chứng từ kế toán tại doanh nghiệp vấn còn một số vướng mắc sau mà kế toán
doanh nghiệp cần phải quan tâm khác phục.
Thứ nhất là việc vận dụng các chứng từ kế toán thuộc chỉ tiêu TSCĐ.
Doanh nghiệp chưa sử dụng bất kỳ một chứng từ nào liên quan đến TSCĐ
(ngoại trừ phiếu chi). TSCĐ tại doanh nghiệp có giá trị lớn so với tổng tài sản
của doanh nghiệp. Nhưng do doanh nghiệp không sử dụng chứng từ để quản lý
TSCĐ nên có thể đánh giá việc quản lý TSCĐ tại doanh nghiệp chưa chặt chẽ.
Thứ hai là việc áp dụng thẻ kho chưa đúng với phạm vi áp dụng. Thẻ kho
đựơc lập cho từng loại vật tư, sản phẩm, hàng hoá để theo dõi tình hình nhập, xuất,
tồn kho của chúng. Nhưng hiện tại doanh nghiệp lại sử dụng thẻ kho để theo dõi
tình hình sử dụng vật tư tại từng bộ phận sản xuất.
1.1.2. Việc vận dụng chế độ tài khoản kế toán.
Là một doanh nghiệp có qui mô chưa lớn, số lượng các nghiệp vụ kinh tế
phát sinh hàng ngày chưa nhiều và chưa phức tạp, doanh nghiệp đã có cho mình
một hệ thống tài khoản kế toán một cách phù hợp nhất. Số lượng tài khoản cấp
1 sử dụng trong doanh nghiệp không nhiều, chỉ có 26 tài khoản (không tính các
tài khoản ngoài bảng – loại 0) trên tổng số 44 tài khoản cấp 1. Còn hệ thống tài
khoản cấp 2, cấp 3 cũng đã được kế toán doanh nghiệp lập cho phù hợp nhất với
thực tế các nghiệp vụ kinh tế phát sinh tại doanh nghiệp.
Với điều kiện là một doanh nghiệp sản xuất, kế toán doanh nghiệp đã chú
trọng đến việc mở các tài khoản cấp 2, 3 cho tài khoản 154 “Chi phí sản xuất kinh
doanh dở dang” (Là tài khoản dùng để tập hợp các chi phí sản xuất phát sinh).
Trong quan hệ với các đối tượng công nợ, doanh nghiệp có những nhà cung cấp,
những khách hàng thường xuyên có giao dịch. Vì vậy việc mở các tài khoản chi
tiết cho tài khoản 131, 331 là rất phù hợp với thực tế của doanh nghiệp, tạo điều
kiện thuận lợi cho doanh nghiệp trong việc quản lý công nợ.
1.1.3. Việc vận dụng hệ thống sổ sách kế toán trong doanh nghiệp.
Hệ thống sổ sách kế toán có vị trí rất quan trọng trong tổ chức công tác kế
toán tại mỗi doanh nghiệp. Hệ thống sổ sách kế toán thể hiện mức độ chặt chẽ,
hiệu quả của công tác kế toán. Sổ sách kế toán của doanh nghiệp được tổ chức
tốt thì công tác kế toán mới có hiệu quả. Để tổ chức hệ thống sổ sách kế toán có
hiệu quả thì việc lựa chọn hình thức sổ kế toán phù hợp là rất quan trọng. Và
việc tổ chức ghi sổ sách kế toán phải được tổ chức một cách đầy đủ, chặt chẽ,
đảm bảo tất cả các nghiệp vụ kinh tế phát sinh đều được phản ánh vào các sổ
sách kế toán có liên quan.
Tại Công ty, kế toán áp dụng hình thức sổ kế toán Nhật ký chung và có
sử dụng các nhật ký đặc biệt. Kế toán của doanh nghiệp cũng đã tổ chức ghi
chép sổ sách kế toán tổng hợp và hệ thống sổ sách kế toán chi tiết một cách tốt
nhất.
Sổ sách kế toán tổng hợp của doanh nghiệp bao gồm sổ nhật ký chung,
nhật ký thu tiền, nhật ký chi tiền, và sổ cái các tài khoản có liên quan. Các
nghiệp vụ kế toán phát sinh hàng ngày đều được phản ánh vào trong sổ kế toán
tổng hợp.
Bên cạnh việc mở sổ kế toán tổng hợp thì việc mở các sổ kế toán chi tiết
cũng hết sức quan trọng. Nó là căn cứ để theo dõi một cách chi tiết tình hình của
doanh nghiệp. Kế toán tại Công ty cũng đã sử dụng một số sổ kế toán chi tiết cần
thiết cho mình, nhằm quản lý tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp một
cách dễ dàng nhất. Tuy nhiên hệ thống sổ sách kế toán mà doanh nghiệp sử dụng
cũng chưa thật sự đầy đủ, chưa đáp ứng được nhu cầu cung cấp thông tin một cách
chi tiết, đầy đủ. Do đó, việc quản lý tình hình sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp chưa thực sự chặt chẽ, và hiệu quả của công tác kế toán chưa cao.
1.1.4. Việc vận dụng chế độ báo cáo kế toán.
Báo cáo kế toán là những bảng tổng kết tình hình sản xuất kinh doanh,
qui mô, tình hình sử dụng và luân chuyển vốn của doanh nghiệp trong kỳ kế
toán. Thể hiện được kết quả hoạt động của doanh nghiệp sau một kỳ kinh
doanh. áp dụng theo qui định của Bộ Tài chính, kế toán tại Công ty cũng đã lập
đầy đủ các báo cáo kế toán cuối kỳ kế toán để nộp cho các cơ quan có thẩm
quyền quản lý.
Hệ thống báo cáo kế toán của doanh nghiệp bao gồm báo cáo tài chính và
báo cáo quản trị. Kế toán doanh nghiệp lập các báo cáo tài chính theo qui định
chung và lập các báo cáo quản trị theo yêu cầu quản lý của doanh nghiệp.
Nhìn chung việc áp dụng chế độ báo cáo kế toán tại doanh nghiệp đã
được thực hiện tốt. Báo cáo quản trị được lập một cách phù hợp với yêu cầu
quản lý doanh nghiệp. Tuy nhiên, do hệ thống chứng từ kế toán, sổ sách kế toán
được tổ chức thực hiện chưa được hoàn toàn chặt chẽ, nên việc lập báo cáo kế
toán còn gặp nhiều khó khăn. Và các báo cáo kế toán chưa có sức thuyết phục
cao, do căn cứ lập báo cáo không chắc chắn, không có đủ điều kiện để đối chiếu
số liệu giữa kế toán tổng hợp và kế toán chi tiết.
Qua những nhận xét trên về thực trạng áp dụng chế độ kế toán tại doanh
nghiệp, em thấy rằng bộ máy kế toán của doanh nghiệp cần phải được tổ chức thực
hiện tốt hơn, tăng cường hoạt động hơn để nâng cao hiệu quả của công tác kế toán.
Tuy nhiên, với một doanh nghiệp mới đi vào hoạt động, kinh nghiệm chưa cao nên
công tác kế toán chưa được hoàn thiện, còn gặp phải các sai xót là điều không thể
tránh khỏi. Để có được những thành công như hiện nay, em thấy rằng bộ máy kế
toán doanh nghiệp cũng đã cố gắng rất nhiều, và em cho rằng trong thời gian tới
công tác kế toán tại doanh nghiệp sẽ được tổ chức có hiệu quả hơn.
1.2. Nhận xét về tổ chức hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản
phẩm tại Công ty.
Phần hành kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm là phần
hành kế toán có số lượng nghiệp vụ phát sinh lớn, gắn với đặc điểm kinh doanh
của doanh nghiệp. Nếu phần hành kế toán này được tổ chức tốt thì hiệu quả
kinh doanh của doanh nghiệp sẽ cao. Như vậy công tác hạch toán chi phí sản
xuất và tính giá thành sản phẩm tại doanh nghiệp có ảnh hưởng trực tiếp đến
công tác quản trị doanh nghiệp và hiệu quả kinh doanh.
Thấy được vai trò của phần hành kế toán này trong doanh nghiệp, kế toán
doanh nghiệp cần phải tổ chức chặt chẽ công tác hạch toán chi phí sản xuất và
tính giá thành sản phẩm. Trên thực tế, kế toán cũng đã tổ chức theo dõi, ghi sổ
sách kế toán các nghiệp vụ liên quan đến chi phí sản xuất trong kỳ kinh doanh.
Kế toán cũng đã sử dụng các sổ chi tiết để theo dõi chi phí phát sinh đặc biệt là
trong việc theo dõi chi phí nguyên vật liệu trực tiếp. Chi phí nguyên vật liệu đã
được theo dõi chi tiết cho từng đơn vị sản phẩm. Vì thế chi phí nguyên vật liệu
trực tiếp cho từng sản phẩm là hoàn toàn chính xác, không cần sử dụng đến
những biện pháp phân bổ chi phí nguyên vật liệu trực tiếp.
Về chi phí nhân công trực tiếp, doanh nghiệp tiến hành hạch toán tổng
hợp nhân công trực tiếp. Doanh nghiệp không tiến hành phân bổ chi phí nhân
công trực tiếp cho từng đơn vị sản phẩm. Mỗi loại sản phẩm được kế toán
doanh nghiệp gắn cho một mức chi phí nhân công trực tiếp nhất định. Sử dụng
phương pháp này là sai nguyên tắc tính giá thành sản phẩm. Và tất yếu dẫn đến
kết quả là giá thành đơn vị sản phẩm trong bảng "tính giá sản xuất máy biến áp"
là không chính xác về chi phí nhân công trực tiếp. Qua bảng tính giá thành đơn
vị ta không thể thấy được tình hình sử dụng nhân công của doanh nghiệp. Nhìn
vào một số bảng tính giá thành đơn vị trong thời gian khác nhau chúng ta không
thấy được là doanh nghiệp tiết kiệm hay lãng phí nhân công so với thời gian
trước. Hơn nữa doanh nghiệp lại không thực hiện phân bổ chi phí nhân công sản
xuất trong kỳ cho giá trị chi phí sản xuất kinh doanh dở dang cuối kỳ. Toàn bộ
chi phí nhân công phát sinh trong kỳ đều được kết chuyển vào giá vốn của thành
phẩm tiêu thụ trong kỳ. Sử dụng phương pháp phân bổ chi phí như vậy không
phản ánh được thực chất kết quả kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ.
Chi phí sản xuất chung phát sinh trong kỳ tại doanh nghiệp cũng là một
khoản chi phí khá lớn. Việc phân bổ các khoản mục chi phí này cho từng đơn vị
sản phẩm cũng là việc rất cần thiết. Nhưng trên thực tế, kế toán của doanh
nghiệp chưa tiến hành phân bổ chi phí sản xuất chung cho từng đơn vị sản