Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty cổ phần xây dựng năng lượng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (682.7 KB, 84 trang )

Luận văn thạc sĩ QTKD

Trƣờng ĐH Bách Khoa Hà Nội
PHẦN MỞ ĐẦU

1.Đặt vấn đề - Lý do nghiên cứu đề tài :
Trong thời kỳ tồn cầu hóa và nền kinh tế thị trường cạnh tranh ngày càng khốc
liệt như hiện nay, mỗi doanh nghiệp phải khơng ngừng tự hồn thiện mình và tìm ra
hướng đi riêng mới có thể tồn tại và phát triển. Với ngành nghề kinh doanh của công
ty cổ phần xây dựng Năng Lượng và những yêu cầu ngày càng cao của xã hội thì cần
phải khơng ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ và cơng trình, đồng thời có các biện
pháp hạ thấp chi phí để nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty.
Cơ chế kinh tế thị trường đã làm cho nền kinh tế Việt Nam có những chuyển
biến mạnh mẽ, từ đó tạo điều kiện cho ngành xây dựng phát triển. Thực tế hiện nay, thị
trường ngành xây dựng đang tăng trưởng mạnh, thu hút đầu tư nước ngoài gia tăng đã
kéo theo phát triển cơ sở hạ tầng, xây dựng các công trình dân dụng, cơng nghiệp; giao
thơng, thủy lợi, san lấp mặt bằng… Đây là cơ hội lớn nhất cho ngành, và đặc biệt là
công ty cổ phần xây dựng Năng Lượng. Với mục tiêu mở rộng thị trường trên toàn
thành phố Hà Nội và các tỉnh lân cận, công ty đang đối mặt với nhiều sự cạnh tranh
gay gắt từ các nhà thầu trong nước và một số nhà thầu nước ngồi. Doanh thu cơng ty
tăng trưởng nhưng tỷ lệ lợi nhuận/ doanh thu có dấu hiệu giảm và có nguy cơ không
thực hiện được mục tiêu đề ra. Làm thế nào để có thể giữ vững được vị thế cạnh tranh,
hoàn thành được mục tiêu đề ra là vấn đề cấp thiết nhất mà công ty phải giải quyết.
Đây cũng chính là lý do nghiên cứu đề tài của học viên.
2. Xác định vấn đề nghiên cứu
Bài toán cạnh tranh là vấn đề sống còn của các doanh nghiệp ngành xây dựng
nói chung và của các doanh nghiệp xây dựng các cơng trình dân dụng và cơng nghiệp
nói riêng. Hạn chế trong năng lực và hiệu quả cạnh tranh là ngun nhân chính làm
giảm thị phần cơng ty. Lời giải hữu hiệu cho bài toán này là nâng cao năng lực cạnh
tranh cho công ty. Để giúp lãnh đạo có cái nhìn chính xác về tình hình cạnh tranh, thực
trạng doanh nghiệp mình, và các giải pháp có thể có từ đó đưa ra các chiến lược hoạt


động hiệu quả cho công ty, vấn đề được đặt ra cho đề tài này là:
“ Một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty cổ phần xây
dựng Năng Lượng”
Học viên: Bùi Tiến Cƣờng

1

Viện Kinh tế và quản lý


Luận văn thạc sĩ QTKD

Trƣờng ĐH Bách Khoa Hà Nội

Kết quả nghiên cứu có tính ứng dụng thực tiễn cao, cấp thiết phục vụ trực tiếp
cho cơng ty. Ngồi ra còn giúp chúng ta nhận diện được thực trạng của doanh nghiệp
trong ngành xây dựng dân dụng, đặc biệt là các doanh nghiệp đang hoạt động ở thị
trường trong nước.
Để giải quyết vấn đề nghiên cứu trên, luận văn này nhằm trả lời một số câu hỏi
cơ bản như:
- Những yếu tố chính nào quyết định năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp
xây dựng dân dụng?
- Năng lực chủ đạo, năng lực khác biệt của công ty Năng Lượng là gì?
- Lợi thế cạnh tranh của cơng ty Năng Lượng là gì? Có bền vững khơng?
- Tính cấp thiết phải đưa ra giải pháp cạnh tranh hữu hiệu và khả năng ứng
dụng của công ty hiện nay ra sao?
- Làm thế nào để nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp?
3. Mục tiêu nghiên cứu
Những mục tiêu nghiên cứu chính bao gồm:
- Hệ thống hóa và lượng hóa các yếu tố chính quyết định năng lực cạnh tranh và

lợi thế cạnh tranh của các doanh nghiệp xây dựng dân dụng.
- Xác định năng lực chủ đạo, năng lực khác biệt và thế giới cạnh tranh của công
ty cổ phần xây dựng Năng Lượng.
- Xây dựng các giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh cho công ty cổ phần xây
dựng Năng Lượng.
4. Phạm vi nghiên cứu
Do thời gian có hạn, phạm vi nghiên cứu của đề tài chỉ giới hạn trong hoạt động
chính của cơng ty Năng Lượng là lĩnh vực xây dựng dân dụng, công nghiệp, giao
thông, thủy lợi, thi cơng các cơng trình hạ tầng, cơng trình văn hóa. Nhóm khách hàng
trọng tâm là các Ban quản lý dự án, UNND các quận huyện. Đề tài không đi sâu vào
nghiên cứu việc thực thi và đánh giá các giải pháp đã đưa ra.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong luận văn gồm:
- Phương pháp tổng hợp, kết hợp các phương pháp thống kê, nghiên cứu tương
quan, hệ thống hóa phân tích tổng hợp để rút ra bản chất từng vấn đề diễn ra trog thực
tiễn ngành, công ty.
Học viên: Bùi Tiến Cƣờng

2

Viện Kinh tế và quản lý


Luận văn thạc sĩ QTKD

Trƣờng ĐH Bách Khoa Hà Nội

- Từ đó xây dựng ma trận SWOT, ma trận hình ảnh cạnh tranh nhằm xác định
năng lực chủ đạo, năng lực khác biệt, lợi thế cạnh tranh của công ty Năng Lượng.
- Và cuối cùng và cũng là quan trong nhất, đề tài sẽ đề xuất: “ Một số giải pháp

nâng cao năng lực cạnh tranh cho công ty cổ phần xây dựng Năng Lƣợng”.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chương:
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp.
Chƣơng 2: Phân tích thực trạng năng lực cạnh tranh của Công ty cổ phần xây
dựng Năng Lượng.
Chƣơng 3: Một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty cổ phần
xây dựng Năng Lượng.

Học viên: Bùi Tiến Cƣờng

3

Viện Kinh tế và quản lý


Luận văn thạc sĩ QTKD

Trƣờng ĐH Bách Khoa Hà Nội
CHƢƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CẠNH TRANH VÀ NĂNG LỰC
CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP
1.1. CẠNH TRANH VÀ VAI TRÕ CỦA CẠNH TRANH TRONG NỀN KINH TẾ.
1.1.1. Khái niệm về cạnh tranh.
Hiện nay, có nhiều khái niệm khác nhau về cạnh tranh trong các lĩnh vực kinh
tế và xã hội. Một trong những khó khăn là khơng có một sự thống nhất rộng rãi về
định nghĩa khái niệm này. Lý do là thuật ngữ này được sử dụng để đánh giá cho tất cả
các doanh nghiệp, các ngành, các quốc gia và cả các khu vực liên quốc gia. Nhưng

những mục tiêu cơ bản được đặt ra khác nhau phụ thuộc vào góc độ xem xét là của
quốc gia hay doanh nghiệp. Trong khi đối với một doanh nghiệp mục tiêu chủ yếu là
tồn tại và tìm kiếm lợi nhuận trên cơ sở cạnh tranh trong môi trường quốc gia hay quốc
tế thì đối với một quốc gia mục tiêu là nâng cao mức sống vật chất và phúc lợi cho
nhân dân. Ở đây, thuật ngữ cạnh tranh được tiếp cận dưới góc độ trong lĩnh vực kinh
tế, một dạng cụ thể của cạnh tranh.
Từ lâu, khái niệm về cạnh tranh đã được các học giả kinh tế của các trường phái
kinh tế khác nhau rất quan tâm. Các nhà kinh tế học trường phái tư sản cổ điển cho
rằng: Cạnh tranh là một quá trình bao gồm các hành vi phản ứng. Quá trình này tạo ra
cho mỗi thành viên một phần xứng đáng so với khả năng của mình. Theo Từ điển kinh
doanh của Anh xuất bản năm 1992, cạnh tranh được xem như là sự ganh đua, sự kình
địch giữa các nhà kinh doanh trên thị trường nhằm tranh giành cùng một loại tài
nguyên sản xuất hoặc cùng một loại khách hàng về phía mình. Theo định nghĩa của Uỷ
ban cạnh tranh cơng nghiệp Hoa Kỳ thì ở quy mô một quốc gia, cạnh tranh được hiểu
là mức độ nào đó mà ở đó, dưới các điều kiện thị trường tự do và cơng bằng có thể sản
xuất được các hàng hoá và dịch vụ đáp ứng được địi hỏi của thị trường quốc tế, đồng
thời duy trì và mở rộng thu nhập thực tế của nhân dân nước đó. Ở Việt Nam, khi đề
cập đến cạnh tranh, một số nhà khoa học đã cho rằng: cạnh tranh là vấn đề giành lợi
thế về giá cả hàng hoá, dịch vụ (mua và bán) và đó là con đường, phương thức để
giành lấy lợi thế cao cho các chủ thể kinh tế. Từ điển Bách khoa Việt Nam [4, tập 1]
định nghĩa: Cạnh tranh trong kinh doanh là hoạt động ganh đua giữa những người
sản xuất hàng hoá, giữa các thương nhân, các nhà kinh doanh trong nền kinh tế thị
Học viên: Bùi Tiến Cƣờng

4

Viện Kinh tế và quản lý


Luận văn thạc sĩ QTKD


Trƣờng ĐH Bách Khoa Hà Nội

trường, bị chi phối bởi quan hệ cung - cầu, nhằm giành được các điều kiện sản xuất,
tiêu thụ, thị trường có lợi nhất. Quan niệm này đã xác định rõ các chủ thể của cạnh
tranh là các chủ thể kinh tế và mục đích của họ là nhằm giành được các điều kiện sản
xuất, tiêu thụ và thị trường có lợi nhất.
Giáo trình Kinh tế học chính trị Mác-Lênin [1] nêu ra định nghĩa: Cạnh tranh là
sự ganh đua, sự đấu tranh về kinh tế giữa các chủ thể tham gia sản xuất - kinh doanh
với nhau nhằm giành được những điều kiện thuận lợi trong sản xuất - kinh doanh, tiêu
thụ hàng hoá và dịch vụ để thu được nhiều lợi ích nhất cho mình. Mục tiêu của cạnh
tranh là giành được lợi ích, lợi nhuận lớn nhất, bảo đảm sự tồn tại và phát triển của
chủ thể tham gia cạnh tranh.
Như vậy, hiểu theo nghĩa chung nhất thì cạnh tranh trong kinh doanh được hiểu
là chạy đua hay ganh đua gay gắt, quyết liệt giữa các chủ thể tham gia kinh doanh trên
thị trường để giành giật những điều kiện kinh doanh thuận lợi nhất nhằm đem lại cho
mình nhiều lợi ích nhất.
Kinh doanh trong nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, các doanh
nghiệp bắt buộc phải chấp nhận cạnh tranh, ganh đua với nhau, phải luôn không ngừng
phát triển để giành được ưu thế tương đối so với đối thủ. Nếu như lợi nhuận là động
lực thúc đẩy các doanh nghiệp tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh thì cạnh
tranh bắt buộc họ phải tiến hành các hoạt động một cách có hiệu quả cao nhất nhằm
thu được lợi nhuận tối đa. Kết quả cạnh tranh sẽ loại bỏ được các doanh nghiệp yếu
kém và thúc đẩy các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả. Ở Việt Nam, cùng với sự
chuyển đổi của nền kinh tế, cạnh tranh được thừa nhận là một quy luật kinh tế khách
quan và được coi như là một nguyên tắc cơ bản trong tổ chức điều hành kinh doanh
của các doanh nghiệp.
1.1.2. Vai trò của cạnh tranh trong nền kinh tế :
1.1.2.1. Vai trò của cạnh tranh đối với doanh nghiệp:
Cạnh tranh là quy luật khách quan của nền kinh tế thị trường. Bởi vậy, bất cứ

doanh nghiệp nào khi tham gia vào nền kinh tế thị trường cũng phải đối mặt với cạnh
tranh và phải nâng cao năng lực cạnh tranh của mình bằng cách tạo ra những lợi thế
cạnh tranh vượt trội hơn so với đối thủ như là: Nâng cao chất lượng và mẫu mã sản
phẩm, giảm giá, nâng cao hiệu quả công tác quản lý và nguồn nhân lực... Do đó, cạnh
Học viên: Bùi Tiến Cƣờng

5

Viện Kinh tế và quản lý


Luận văn thạc sĩ QTKD

Trƣờng ĐH Bách Khoa Hà Nội

tranh sẽ kích thích các doanh nghiệp năng động hơn, mạnh mẽ hơn và làm ăn có hiệu
quả hơn. Mặt khác, các doanh nghiệp có lợi thế cạnh tranh vượt trội so với đối thủ
trong điều kiện cạnh tranh khốc liệt sẽ đảm bảo cho doanh nghiệp phát triển lâu dài và
ổn định.
1.1.2.2. Vai trò của cạnh tranh đối với người tiêu dùng
Cạnh tranh thúc đẩy các doanh nghiệp theo đuổi các chiến lược khác nhau, sử
dụng hiệu quả các nguồn lực, áp dụng những cơng nghệ hiện đại để có thể đứng vững
trên thị trường, thu được lợi nhuận cao,... chính điều này đã làm cho người tiêu dùng
được hưởng nhiều điều kiện thuận lợi hơn như: Sự đa dạng chủng loại các mặt hàng,
sản phẩm có chất lượng tốt hơn mà giá lại rẻ hơn, các dịch vụ ngày càng thuận tiện,....
1.1.2.3. Vai trò của cạnh tranh đối với nền kinh tế
Cạnh tranh là động lực làm cho nền kinh tế tăng trưởng và phát triển vì cạnh
tranh loại bỏ những doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả đồng thời khẳng định sự tồn tại
và phát triển của các doanh nghiệp kinh doanh hiệu quả. Cạnh tranh thúc đẩy sự phát
triển bình đẳng của các thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường, góp phần xố

bỏ sự độc quyền, sự bất bình đẳng trong kinh doanh. Mặt khác, cạnh tranh thúc đẩy sự
phát triển của khoa học kỹ thuật, sự phân công lao động xã hội ngày càng sâu rộng, tạo
ra những sản phẩm đáp ứng nhu cầu ngày càng tốt hơn. Từ đó, góp phần nâng cao chất
lượng cuộc sống của cộng đồng xã hội.
1.1.3. Các hình thức cạnh tranh chủ yếu
Cạnh tranh được phân loại theo các hình thức như sau:
1.1.3.1. Căn cứ theo tính chất và mức độ cạnh tranh:
- Cạnh tranh hoàn hảo: Là hình thức cạnh tranh mà trong đó người bán và người
mua khơng có ảnh hưởng lên giá thị trường, giá cả thị trường là do quan hệ cung cầu
trên thị trường quyết định. Các sản phẩm bán ra có tính chất đồng nhất cao. Điều kiện
tham gia hay rút lui khỏi thị trường rất dễ dàng. Hình thức cạnh tranh hồn hảo khó
tìm thấy hiện nay.
- Cạnh tranh khơng hồn hảo: Cạnh tranh khơng hồn hảo là hình thức cạnh
tranh chiếm ưu thế trong các ngành sản xuất, mà ở đó các doanh nghiệp có đủ sức
mạnh và thế lực có thể chi phối được giá cả sản phẩm của mình trên thị trường.
Cạnh tranh khơng hồn hảo có hai loại: Độc quyền nhóm và cạnh tranh mang
Học viên: Bùi Tiến Cƣờng

6

Viện Kinh tế và quản lý


Luận văn thạc sĩ QTKD

Trƣờng ĐH Bách Khoa Hà Nội

tính độc quyền.
+ Độc quyền nhóm: Tồn tại trong các ngành sản xuất mà ở đó chỉ có một ít
người sản xuất, mỗi người đều nhận thức được rằng giá cả các sản phẩm của mình

khơng chỉ phụ thuộc vào hoạt động của mình mà cịn phụ thuộc vào hoạt động của
những kẻ cạnh tranh quan trọng trong ngành đó.
+ Cạnh tranh mang tính độc quyền: Là hình thức cạnh tranh mà trong đó các
doanh nghiệp cạnh tranh với nhau bằng việc bán các sản phẩm phân biệt (đã được làm
cho khác sản phẩm của các doanh nghiệp khác), các sản phẩm này có thể thay thế cho
nhau ở mức độ cao nhưng khơng phải là thay thế hồn hảo. Người bán có thể thu hút
khách hàng bằng các cách hữu hiệu như quảng cáo, khuyến mại, dịch vụ hậu mãi,....
Loại hình cạnh tranh này rất phổ biến hiện nay.
1.1.3.2. Căn cứ vào chủ thể tham gia thị trường
- Cạnh tranh giữa người bán với người mua: Là cuộc cạnh tranh diễn ra theo
“luật” mua rẻ - bán đắt. Người mua ln muốn mua được rẻ, ngược lại, người bán ln
có tham vọng bán đắt. Sự cạnh tranh này được thực hiện trong quá trình “mặc cả” và
cuối cùng giá cả được hình thành và hành động bán, mua được thực hiện.
- Cạnh tranh giữa những người mua với nhau: Là cuộc cạnh tranh trên cơ sở
quy luật cung cầu. Khi một loại hàng hố, dịch vụ nào đó mà mức cung cấp nhỏ hơn
nhu cầu tiêu dùng thì cuộc cạnh tranh càng trở nên quyết liệt và giá hàng hoá, dịch vụ
đó sẽ càng tăng. Kết quả cuối cùng là người bán thu được lợi nhuận cao, cịn người
mua thì phải mất thêm một số tiền. Đây là cuộc cạnh tranh mà những người mua tự
làm hại chính mình.
- Cạnh tranh giữa những người bán với nhau: Là cuộc cạnh tranh chính trên
vũ đài thị trường, đồng thời cũng là cuộc cạnh tranh khốc liệt nhất, có ý nghĩa sống
cịn đối với các doanh nghiệp. Tất cả các Doanh nghiệp đều muốn giành giật lấy lợi
thế cạnh tranh, chiếm lĩnh thị phần của đối thủ. Kết quả để đánh giá doanh nghiệp nào
chiến thắng trong cuộc cạnh tranh này là việc tăng doanh số tiêu thụ, tăng tỉ lệ thị
phần. Cùng với nó là tăng lợi nhuận, tăng đầu tư chiều sâu, mở rộng sản xuất. Trong
nền kinh tế thị trường, cạnh tranh là hiện tượng tự nhiên, bởi thế, đã bước vào kinh
doanh thì bắt buộc phải chấp nhận.
Thực tế cho thấy, khi sản xuất hàng hoá càng phát triển, số người bán càng tăng
lên thì cạnh tranh càng quyết liệt. Trong quá trình ấy, một mặt sản xuất hàng hoá với
Học viên: Bùi Tiến Cƣờng


7

Viện Kinh tế và quản lý


Luận văn thạc sĩ QTKD

Trƣờng ĐH Bách Khoa Hà Nội

qui luật cạnh tranh sẽ lần lượt gạt ra khỏi thị trường những doanh nghiệp khơng có
chiến lược cạnh tranh thích hợp. Nhưng mặt khác, nó lại mở đường cho những doanh
nghiệp nắm chắc “vũ khí” cạnh tranh thị trường và dám chấp nhận “luật chơi” phát
triển.
1.1.3.3. Căn cứ theo phạm vi lãnh thổ
- Cạnh tranh trong nước.
- Cạnh tranh quốc tế.
Trong bối cảnh hội nhập ngày nay thì cạnh tranh quốc tế ngày càng trở nên gay
gắt, cạnh tranh quốc tế đòi hỏi các chủ thể phải tuân thủ các tiêu chuẩn quốc tế, thông
lệ quốc tế.
1.1.3.4. Căn cứ theo phạm vi ngành kinh tế
- Cạnh tranh trong nội bộ ngành: Là sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp cùng
sản xuất và tiêu thụ một loại hàng hoá hoặc dịch vụ nào đó. Trong cuộc cạnh tranh
này, các doanh nghiệp thơn tính nhau. Những doanh nghiệp chiến thắng sẽ mở rộng
phạm vi hoạt động của mình trên thị trường; những doanh nghiệp thua cuộc sẽ phải thu
hẹp kinh doanh, thậm chí bị phá sản.
- Cạnh tranh giữa các ngành: Là sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp, hay
đồng minh các doanh nghiệp trong ngành kinh tế khác nhau, nhằm giành lấy lợi nhuận
lớn nhất. Trong quá trình cạnh tranh này, các doanh nghiệp luôn say mê với những
ngành đầu tư có lợi nhuận nên đã chuyển vốn từ ngành ít lợi nhuận sang ngành nhiều

lợi nhuận. Sự điều chuyển tự nhiên theo tiếng gọi của lợi nhuận này sau một thời gian
nhất định, vơ hình chung hình thành nên sự phân phối vốn hợp lý giữa các ngành sản
xuất, để rồi kết quả cuối cùng là, các doanh nghiệp đầu tư ở các ngành khác nhau với
số vốn bằng nhau chỉ thu được lợi nhuận như nhau, tức là hình thành tỷ suất lợi nhuận
bình quân cho tất cả các ngành.
1.2. NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP
1.2.1. Khái niệm về năng lực cạnh tranh
Thuật ngữ “Năng lực cạnh tranh” dù được sử dụng rất rộng rãi nhưng vẫn chưa
có một khái niệm rõ ràng cũng như cách thức đo lường năng lực cạnh tranh ở cả cấp
độ quốc gia lẫn cấp ngành. Chủ đề này đang được bàn luận nhiều ở cả các nước phát
triển và đang phát triển vì tầm quan trọng của nó đối với sự phát triển của nền kinh tế
Học viên: Bùi Tiến Cƣờng

8

Viện Kinh tế và quản lý


Luận văn thạc sĩ QTKD

Trƣờng ĐH Bách Khoa Hà Nội

trong một thế giới ngày càng mở cửa và hội nhập. Mặc dù các nhà kinh tế thống nhất
với nhau về tầm quan trọng, nhưng lại có những nhận thức khác nhau về khái niệm
Năng lực cạnh tranh.
Theo định nghĩa của Đại từ điển Tiếng Việt[2, tr.1172] năng lực là (1) những
điều kiện đủ hoặc vốn có để làm một việc gì đó; (2) khả năng đủ để thực hiện tốt một
công việc và năng lực cạnh tranh là “Khả năng giành thắng lợi trong cuộc cạnh tranh
của những hàng hoá cùng loại trên một thị trường tiêu thụ”. Theo Từ điển Thuật ngữ
chính sách thương mại “Năng lực cạnh tranh là năng lực của một doanh nghiệp hoặc

một ngành thậm chí một quốc gia khơng bị doanh nghiệp khác, ngành khác hoặc nước
khác đánh bại về năng lực kinh tế”.
Có nhiều cách hiểu khác nhau về thuật ngữ năng lực cạnh tranh và các cấp độ
áp dụng cũng rất khác nhau. Khái niệm năng lực cạnh tranh được hiểu theo ba cấp độ,
năng lực cạnh tranh cấp doanh nghiệp, cấp ngành hay cấp quốc gia.
Bên cạnh đó, cũng có quan điểm phân tích năng lực cạnh tranh quốc gia trên cơ
sở lợi thế cạnh tranh của các ngành. Quan điểm này thể hiện rõ trong nhiều cơng trình
của Porter, nhất là Porter (1990). Porter cho rằng, các doanh nghiệp là những chủ thể
cạnh tranh trên thị trường thế giới. Chính vì vậy, nói về lợi thế cạnh tranh quốc gia là
nói về những đặc trưng của quốc gia với tư cách là môi trường hoạt động cho phép các
doanh nghiệp của quốc gia đó có thể thành cơng trên thị trường thế giới.
Năng lực cạnh tranh quốc gia được đề cập trong báo cáo hàng năm của WEF,
trong đó năng lực cạnh tranh được định nghĩa là năng lực của nền kinh tế trong việc
đạt và duy trì được mức tăng trưởng cao. Trong cách tiếp cận của Porter, chỉ có chỉ số
năng suất là có nghĩa cho khái niệm tính cạnh tranh quốc gia bởi vì đây là yếu tố cơ
bản quyết định việc nâng cao mức sống của quốc gia về dài hạn.
Ngược lại với khái niệm năng lực cạnh tranh mang tính tổng quát áp dụng ở cấp
quốc gia nói trên, quan điểm tân cổ điển dựa trên lý thuyết thương mại truyền thống
xem xét lợi thế cạnh tranh hay tính cạnh tranh đối với, một sản phẩm (đồng nhất)
thông qua lợi thế so sánh về chi phí sản xuất và năng suất. Theo Westgren (1991),
năng lực cạnh tranh của một ngành/doanh nghiệp là năng lực duy trì được lợi nhuận và
thị phần trên thị trường trong và ngoài nước. Định nghĩa này được xem là nhất quán
với mục tiêu kinh doanh, đồng thời phù hợp với các mục tiêu của chính sách kinh tế và
chính sách thương mại của chính phủ.
Học viên: Bùi Tiến Cƣờng

9

Viện Kinh tế và quản lý



Luận văn thạc sĩ QTKD

Trƣờng ĐH Bách Khoa Hà Nội

Tuy nhiên, trong phạm vi và giới hạn đề tài nghiên cứu, tác giả sẽ chỉ đi sâu
nghiên cứu năng lực cạnh tranh cấp doanh nghiệp.
Có rất nhiều quan niệm về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhưng quan
niệm cho rằng “Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng tạo dựng, duy trì,
sử dụng và sáng tạo mới các lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp nhằm đáp ứng tốt
nhất nhu cầu của khách hàng (so với các đối thủ cạnh tranh) và đạt được các mục tiêu
của doanh nghiệp trong môi trường cạnh tranh trong nước và quốc tế” có lẽ là phù
hợp hơn cả.
Xuất phát điểm của năng lực cạnh tranh là lợi thế cạnh tranh - nghĩa là khả năng
sản xuất và cung cấp sản phẩm tốt hơn đối thủ. Tuy nhiên không phải những gì doanh
nghiệp hơn đối thủ đều là lợi thế cạnh tranh. Lợi thế cạnh tranh trước hết phải là yếu tố
thành công cơ bản, gắn liền với nhu cầu của khách hàng, đồng thời là điểm mạnh của
doanh nghiệp và ln so sánh với đối thủ. Vì thế điều sống còn đối với mỗi doanh
nghiệp là phải hiểu rất rõ lợi thế cạnh tranh của mình là gì, bắt nguồn từ đâu và làm thế
nào để duy trì và phát triển lợi thế cạnh tranh đó.
1.2.2. Lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp
1.2.2.1. Khái niệm
Lợi thế cạnh tranh (LTCT) là các yếu tố năng lực, nguồn lực mà doanh nghiệp
có thể sử dụng để tiến hành các hoạt động kinh doanh một cách có kết quả và có hiệu
quả hơn so với đối thủ cạnh tranh.
Để có lợi thế cạnh tranh các doanh nghiệp cần phải có chi phí trên một đơn vị
sản phẩm là thấp hơn (LTCT về chi phí) hoặc là cho sản phẩm của mình khác biệt với
sản phẩm của đối thủ cạnh tranh về một khía cạnh nào đó để có thể đặt giá cao hơn so
với đối thủ (LTCT về khác biệt sản phẩm) hoặc làm đồng thời cả hai cách trên.
Lợi thế về chi phí (được gọi là lợi thế cạnh tranh bên trong) dựa trên tính ưu

việt của doanh nghiệp trong việc làm chủ chi phí sản xuất. Nó tạo nên giá trị cho người
sản xuất bằng cách tạo ra cho doanh nghiệp một giá thành thấp hơn so với đối thủ cạnh
tranh chủ yếu.
Lợi thế về phân biệt hoá sản phẩm (LTCT bên ngồi) dựa trên chiến lược phân
biệt sản phẩm, hình thành nên giá trị cho người mua, hoặc bằng cách giảm chi phí sử
dụng hoặc bằng cách tăng khả năng sử dụng. Lợi thế này tạo cho doanh nghiệp
Học viên: Bùi Tiến Cƣờng

10

Viện Kinh tế và quản lý


Luận văn thạc sĩ QTKD

Trƣờng ĐH Bách Khoa Hà Nội

“Quyền lực thị trường”.
1.2.2.2. Các yếu tố cơ bản tạo nên lợi thế cạnh tranh.
Để có được lợi thế cạnh tranh đòi hỏi doanh nghiệp phải hoạt động tốt trên bốn
phương diện cơ bản: Hiệu suất và hiệu quả cao hơn, chất lượng tốt hơn, đổi mới nhanh
hơn và đáp ứng cho khách hàng nhanh hơn. Đây là bốn cách cơ bản nhất để giảm chi
phí và đa dạng hóa mà bất kỳ doanh nghiệp nào ở một ngành nào đó cũng có thể áp
dụng.
- Hiệu suất và hiệu quả cao hơn: Hiệu suất được đo lường bởi mức độ tổn hao
các đầu vào cần thiết để sản xuất ra một sản phẩm hoặc dịch vụ nhất định. Doanh
nghiệp có hiệu suất càng cao, mức độ hao phí đầu vào cần thiết để sản xuất ra một đơn
vị đầu ra càng thấp. Do đó, hiệu suất giúp doanh nghiệp đạt được lợi thế cạnh tranh về
chi phí. Việc đạt được hiệu suất cao, đồng nghĩa với việc sử dụng tốt nhất các đầu vào
trong quá trình sản xuất.

Khi đầu vào là nhân cơng, chúng ta có khái niệm rất quan trọng phản ánh hiệu
suất sử dụng lao động, đó là năng suất lao động, thường được đo bằng mức sản lượng
trên một nhân công hoặc một khoảng thời gian lao động nhất định. Năng suất lao động
cao đồng nghĩa với việc giảm bớt hao tổn thời gian lao động trên một đơn vị sản phẩm,
do vậy mang lại lợi thế cạnh tranh về chi phí cho doanh nghiệp.
Hiệu suất và hiệu quả đều là những nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến lợi thế
cạnh tranh của doanh nghiệp. Theo Peter Drucker, hiệu quả là việc giải quyết đúng
công việc và hiệu suất là giải quyết công việc đúng cách. Như vậy, hiệu suất phản ánh
những nỗ lực của các bộ phận chức năng trong việc triển khai những hoạt động riêng
biệt. Trong hoạt động thường ngày, các nhà quản trị có xu hướng nâng cao hiệu suất
hoạt động của đơn vị họ. Tuy nhiên, việc nâng cao hiệu suất hoạt động của các bộ
phận của tổ chức không phải lúc nào cũng dẫn đến việc đạt tới các mục tiêu chung của
tổ chức. Khi điều này xảy ra sẽ gây nên sự lãng phí lớn. Vì vậy, xác định đúng các
mục tiêu chiến lược dài hạn, làm cho mọi người hiểu được các mục tiêu đó, qua đó
hướng các nguồn lực và hoạt động của tổ chức vào việc đạt tới mục các tiêu chung với
hiệu suất và hiệu quả cao nhất là điều kiện quan trọng trong việc xây dựng lợi thế cạnh
tranh của doanh nghiệp.
- Chất lượng cao hơn: Sản phẩm chất lượng là hàng hóa và dịch vụ có độ tin
cậy cao trong q trình sử dụng và có thể thực hiện tốt các chức năng mà nó được thiết
Học viên: Bùi Tiến Cƣờng

11

Viện Kinh tế và quản lý


Luận văn thạc sĩ QTKD

Trƣờng ĐH Bách Khoa Hà Nội


kế chế tạo ra. Như vậy, chất lượng có thể được hiểu là sự phù hợp với mục đính hay
nhu cầu sử dụng của khách hàng. Tác động của chất lượng sản phẩm đến lợi thế cạnh
tranh mang tính hai mặt.
+ Thứ nhất, việc cung cấp những sản phẩm có chất lượng cao tạo nên uy tín cho
thương hiệu những sản phẩm của doanh nghiệp. Điều này cho phép doanh nghiệp có
thể bán các sản phẩm của mình với giá cao hơn.
+ Thứ hai, chất lượng cao hơn dẫn đến hiệu suất cao. Chất lượng sản phẩm cao
đồng nghĩa với việc giảm bớt thời gian hao phí để chỉnh sửa lỗi và khuyết điểm của
sản phẩm cũng như giảm bớt các dịch vụ phụ thêm. Điều này dẫn đến việc giảm tiêu
hao nhân lực và tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm. Việc chú trọng đến
chất lượng trong việc tạo lợi thế cạnh tranh đang tăng nên một cách đáng kể trong thời
gian gần đây. Thực tế hiện nay, đối với nhiều doanh nghiệp thì chất lượng khơng chỉ
được xem là một cách tạo nên lợi thế cạnh tranh mà còn là một yếu tố quan trọng hàng
đầu đối với sự sống còn và sự phát triển của doanh nghiệp.
- Đổi mới nhanh hơn: Đổi mới được hiểu là bất cứ cái gì mới, có thể là cách
vận hành một doanh nghiệp hay những sản phẩm mà nó sản xuất ra. Như vậy, đổi mới
bao gồm những tiến bộ trong việc sản xuất ra sản phẩm mới, các quy trình hoạt động,
hệ thống quản lý, đổi mới cơ cấu tổ chức và kể cả những chiến lược của doanh nghiệp.
Đổi mới có thể coi là yếu tố quan trọng nhất trong việc xây dựng lợi thế cạnh
tranh của doanh nghiệp. Mặc dù khơng phải tất cả những gì đổi mới đều thành công,
nhưng một khi đã thành công, sẽ trở thành một động lực chủ yếu của lợi thế cạnh
tranh. Đó là vì những sự đổi mới thành công tạo ra cho doanh nghiệp những yếu tố độc
nhất, những thứ mà đối thủ cạnh tranh khơng có (cho đến khi những thứ này bị đối thủ
cạnh tranh bắt chước). Sự độc nhất này làm cho doanh nghiệp khác biệt so với đối thủ
cạnh tranh và có thể bán sản phẩm của mình với giá cao.
- Đáp ứng khách hàng nhanh hơn: Để đáp ứng tốt nhu cầu khách hàng doanh
nghiệp cần cung cấp những hàng hoá, dịch vụ mà họ cần vào đúng thời điểm khách
hàng mong muốn. Vì thế doanh nghiệp cần phải nghiên cứu nhu cầu khách hàng để
thoả mãn họ. Nói cách khác, doanh nghiệp phải làm bất cứ điều gì để nhận biết và thỏa
mãn nhu cầu của khách hàng. Như vậy, những nỗ lực để có chất lượng, hiệu suất, hiệu

quả và đổi mới hơn chính là những yếu tố giúp doanh nghiệp đạt được khả năng sẵn
sàng đáp ứng khách hàng.
Học viên: Bùi Tiến Cƣờng

12

Viện Kinh tế và quản lý


Luận văn thạc sĩ QTKD

Trƣờng ĐH Bách Khoa Hà Nội

Một yếu tố khác giúp doanh nghiệp xây dựng lợi thế cạnh tranh là khả năng làm
theo yêu cầu của khách hàng. Những khách hàng riêng biệt sẽ được doanh nghiệp cung
cấp những hàng hóa và dịch vụ theo yêu cầu.
Doanh nghiệp có thể nâng cao lợi thế cạnh tranh của mình bằng cách tập trung
giảm thiểu thời gian đáp ứng khách hàng, tức là thời gian của quá trình phân phối hoặc
tiêu dùng sản phẩm hay dịch vụ.
Ngoài chất lượng, làm theo yêu cầu của khách hàng và thời gian đáp ứng khách
hàng, doanh nghiệp có thể nâng cao khả năng sẵn sàng đáp ứng khách hàng bằng các
dịch vụ trước, trong và sau bán hàng tốt hơn, thiết kế mẫu mã hàng hóa tốt hơn,.... Tất
cả những yếu tố này đều giúp cho doanh nghiệp tạo ra sự khác biệt hóa so với đối thủ
cạnh tranh, từ đó xây dựng uy tín và lịng trung thành của khách hàng đối với thương
hiệu của doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp có được mức giá tốt hơn so với các đối thủ
cạnh tranh.
Hiệu quả
Hữu hình

Lợi thế cạnh

Nguồn lực

Năng

Đổi mới

-Chi phí thấp

lực đặc

Vơ hình
Khả năng

Chất lượng

biệt

tranh

-Sự khác biệt

Đáp ứng
khách hàng

Hình 1.1: Các yếu tố cơ bản tạo nên lợi thế cạnh tranh.
Có thể nói bốn yếu tố trên là bốn yếu tố quan trọng trong việc tạo được lợi thế
cạnh tranh của doanh nghiệp. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để có thể sản xuất kinh
doanh có hiệu quả cao hơn, chất lượng tốt hơn, đổi mới và đáp ứng khách hàng nhanh
hơn, điều này địi hỏi doanh nghiệp phải có năng lực đặc biệt (các nguồn lực và khả
năng nhất định ).

Năng lực đặc biệt là điểm mạnh cho phép doanh nghiệp có được chất lượng,
hiệu quả, khả năng đổi mới và đáp ứng khách hàng tốt hơn so với đối thủ cạnh tranh.
Các doanh nghiệp có thể xây dựng cho mình những năng lực đặc biệt ở những lĩnh vực
khác nhau. Năng lực đặc biệt của một doanh nghiệp được xây dựng trên hai yếu tố bổ
trợ cho nhau là nguồn lực và khả năng.
Học viên: Bùi Tiến Cƣờng

13

Viện Kinh tế và quản lý


Luận văn thạc sĩ QTKD

Trƣờng ĐH Bách Khoa Hà Nội

- Nguồn lực của doanh nghiệp được hiểu là nguồn lực về tài chính, vật chất,
nhân sự, cơng nghệ và các nguồn lực về tổ chức. Các nguồn lực này được chia thành 2
loại:
+ Nguồn lực hữu hình: Nhà xưởng, máy móc thiết bị, nguồn lực tài chính
+ Nguồn lực vơ hình: Nhãn hiệu hàng hố, uy tín, bản quyền, bí quyết công
nghệ hay tiếp thị.
Để nâng cao năng lực đặc biệt, các nguồn lực của doanh nghiệp phải vừa có giá
trị vừa có tính độc nhất. Nguồn lực độc nhất là nguồn lực mà khơng có tổ chức nào
khác có được. Nguồn lực được coi là giá trị khi mà nó giúp tạo ra nhu cầu cao đối với
sản phẩm của doanh nghiệp. Nói cách khác, tức là những nguồn lực tạo giá trị cho
khách hàng.
- Khả năng là những kỹ năng của một doanh nghiệp trong việc phối hợp các
nguồn lực này vào sản xuất một cách có hiệu quả. Những kỹ năng này nằm trong hoạt
động hàng ngày của doanh nghiệp, tức là trong cách thức ra quyết định quản lý trong

nội bộ của doanh nghiệp để đạt được các mục tiêu doanh nghiệp đề ra. Nói một cách
tổng quát hơn khả năng của doanh nghiệp là sản phẩm của cơ cấu tổ chức và hệ thống
kiểm tra nội bộ doanh nghiệp. Nhưng để có lợi thế cạnh tranh thì các nguồn lực và khả
năng này phải được sử dụng có hiệu quả.
Tóm lại, muốn có khả năng tạo lợi thế cạnh tranh thì doanh nghiệp phải có các
nguồn lực có giá trị và các kỹ năng cần thiết để khai thác và quản lý có hiệu quả các
nguồn lực đó.
Một vấn đề mà các doanh nghiệp cũng cần phải lưu ý đó là khi tạo ra được lợi
thế cạnh tranh rồi, thì lợi thế cạnh tranh đó kéo dài được bao lâu và làm thế nào để duy
trì được các lợi thế đó một cách lâu dài. Vấn đề này phụ thuộc vào ba yếu tố: Hàng rào
cản trở việc bắt chước, khả năng của các đối thủ cạnh tranh và sự năng động của môi
trường ngành. Tuy nhiên, bất kỳ một năng lực nào của doanh nghiệp dù khó đến đâu
cũng đều có thể bị đối thủ cạnh tranh tranh bắt chước, vấn đề quan trọng là thời gian.
Thời gian mà đối thủ cạnh tranh bắt chước càng lâu thì doanh nghiệp càng có thời gian
để củng cố vị trí, uy tín của mình trên thị trường, làm cho đối thủ cạnh tranh khó lấn át
và doanh nghiệp có thời gian để hồn thiện lợi thế của mình. Nhìn chung các nguồn
lực dễ bị sao chép hơn là các khả năng. Do đó điều quan trọng đối với doanh nghiệp là
thiết lập được cơ sở cho lợi thế cạnh tranh lâu bền và duy trì được lợi thế cạnh tranh đó.
Học viên: Bùi Tiến Cƣờng

14

Viện Kinh tế và quản lý


Luận văn thạc sĩ QTKD

Trƣờng ĐH Bách Khoa Hà Nội

1.2.3. Các tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp

Chính vì năng lực cạnh tranh được phân tích dưới nhiều góc độ và xuất phát từ
những quan điểm khác nhau, cho nên các tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp cũng khác nhau, phụ thuộc vào mục đích đánh giá, phương pháp luận,
phương pháp đánh giá và mức độ sẵn có của số liệu về doanh nghiệp. Các nhà khoa
học đưa ra nhiều phương pháp đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, nhưng
nhìn chung các quan điểm đó đều xoay quanh các tiêu chí cơ bản sau:
1.2.3.1. Khả năng duy trì và mở rộng thị phần
Khả năng duy trì và mở rộng thị trường của doanh nghiệp được thể hiện trên 2
khía cạnh đó là thị phần và tốc độ tăng trưởng thị phần. Thị phần lớn tạo điều kiện cho
doanh nghiệp hạ thấp chi phí sản xuất do có lợi thế về quy mơ, đồng thời củng cố lịng
tin của khách hàng. Tuy nhiên nếu chỉ xét thị phần của doanh nghiệp trong một thời kỳ
nhất định thì chưa thấy hết năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Trong một thời kỳ
cụ thể, thị phần chủ yếu thể hiện vị thế của doanh nghiệp tại thời điểm đó hơn là thể
hiện năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp đó. Cần nghiên cứu sự biến đổi (tăng,
giảm) của thị phần trong các thời kỳ khác nhau để hiểu rõ năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp.
- Thị phần của doanh nghiệp:
+ Thị phần của doanh nghiệp so với toàn bộ thị trường là tỷ lệ % giữa doanh
thu của doanh nghiệp so với toàn bộ thị trường.

Doanh thu của DN
Thị phần của DN

* 100%

=
Doanh thu của toàn bộ thị trường

+ Thị phần của doanh nghiệp so với phần khúc mà nó phục vụ là tỷ lệ % giữa
doanh thu của doanh nghiệp so với toàn phân khúc.

Doanh thu của DN
Thị phần của DN

=

Doanh thu của toàn phân khúc

* 100%

- Tốc độ tăng trưởng thị phần hàng năm (Thn):
Thn = Thị phần năm sau – Thị phần năm trước
Học viên: Bùi Tiến Cƣờng

15

Viện Kinh tế và quản lý


Luận văn thạc sĩ QTKD

Trƣờng ĐH Bách Khoa Hà Nội

Nếu Thn > 0: Tức là năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp tăng nên có khả
năng mở rộng thị phần
Nếu Thn < 0: Tức là năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp giảm nên khơng có
khả năng giữ vững được thị phần.
1.2.3.2. Chất lượng của sản phẩm và các quá trình sản xuất.
Chất lượng sản phẩm là tổng thể những chỉ tiêu, những thuộc tính của sản phẩm
thể hiện mức độ thỏa mãn những nhu cầu trong những điều kiện tiêu dùng xác định
với công dụng của sản phẩm. Chất lượng sản phẩm đã trở thành một vũ khí cạnh tranh

quan trọng của các doanh nghiệp trên thị trường bởi nó biểu hiện sự thỏa mãn nhu cầu
của khách hàng về sản phẩm. Chất lượng sản phẩm càng cao tức là mức độ thỏa mãn
nhu cầu càng tăng, làm tăng khả năng thắng thế trong cạnh tranh của doanh nghiệp.
Bên cạnh đó chất lượng sản phẩm cao sẽ làm tăng uy tín cho nhãn mác sản phẩm của
doanh nghiệp và do vậy doanh nghiệp có khả năng định giá cao hơn, đem lại lợi nhuận
cao cho doanh nghiệp.
Mặt khác, chất lượng của các quá trình trong nội bộ doanh nghiệp (thu mua đầu
vào, sản xuất, marketing và dịch vụ bán hàng) được nâng cao sẽ làm tăng hiệu quả, hạ
thấp chi phí đơn vị sản phẩm.
1.2.3.3. Giá cả sản phẩm, dịch vụ.
Đối với người mua "Giá cả của một sản phẩm hoặc dịch vụ là khoản tiền mà
người mua phải trả cho người bán để được quyền sở hữu, sử dụng sản phẩm hay dịch
vụ đó", cịn đối với người bán " Giá cả của một hàng hóa, dịch vụ là khoản thu nhập
mà người bán nhận được từ việc tiêu thụ sản phẩm đó". Chính vì vậy, giá cả vừa quan
trọng cho cả người mua và người bán.
Trong cạnh tranh, giá cả có vai trị rất quan trọng. Nếu như chênh lệch về giá
giữa các doanh nghiệp và đối thủ cạnh tranh lớn hơn chênh lệch về giá trị sử dụng sản
phẩm của doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh thì doanh nghiệp đã đem lại lợi ích cho
người tiêu dùng lớn hơn so với đối thủ cạnh tranh. Vì lẽ đó sản phẩm của doanh nghiệp sẽ
ngày càng chiếm được lòng tin của người tiêu dùng và cũng có nghĩa là sản phẩm của
doanh nghiệp có vị trí cạnh tranh ngày càng cao. Bên cạnh đó giá cả cũng thể hiện được
lợi thế về chi phí và khả năng hạ giá thành của sản phẩm của doanh nghiệp.
Học viên: Bùi Tiến Cƣờng

16

Viện Kinh tế và quản lý


Luận văn thạc sĩ QTKD


Trƣờng ĐH Bách Khoa Hà Nội

1.2.3.4. Hiệu quả kinh doanh:
Hiệu quả kinh doanh là biểu hiện cơ bản nhất thể hiện năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp. Yếu tố này thể hiện trình độ tổ chức sản xuất và quản lý của doanh
nghiệp nhằm phát huy tối đa hiệu quả sử dụng các yếu tố vật chất cũng như phi vật
chất của doanh nghiệp. Nếu hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp cao thì doanh
nghiệp có khả năng tái sản xuất mở rộng, mở rộng phần thị trường tiềm năng, nâng cao
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhờ vào quy mô sản xuất ngày càng được mở
rộng, tạo lợi thế vượt trội so với đối thủ cạnh tranh. Doanh thu, tỷ suất lợi nhuận, tỷ
trọng chi phí, doanh lợi vốn, doanh lợi vốn chủ sở hữu là một trong những chỉ tiêu
tổng hợp phản ánh tính hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Lợi nhuận của doanh nghiệp
Tỷ suất lợi nhuận =

x 100
Doanh thu của doanh nghiệp

Chỉ tiêu này cho thấy nếu thu được 100 đồng doanh thu thì sẽ có bao nhiêu
đồng lợi nhuận trong đó. Nếu chỉ tiêu này cao chứng tỏ doanh nghiệp làm ăn hiệu quả,
đồng thời phản ánh năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là cao.
Tổng chi phí
Tỷ trọng chi phí =

x 100
Tổng doanh thu

Chỉ tiêu này phản ánh để thu được 100 đồng doanh thu thì phải mất bao nhiêu
đồng chi phí. Nếu chỉ tiêu này q cao thì chứng tỏ doanh nghiệp có thể sử dụng

nguồn lực là chưa hiệu quả và cần có biện pháp giảm chi phí để tăng năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp.
Lợi nhuận của doanh nghiệp
Doanh lợi vốn =

x 100
Tổng nguồn vốn DN bình quân

Chỉ tiêu doanh lợi vốn (ROA) được dùng để đánh giá khả năng sinh lợi của một
đồng vốn đầu tư. ROA cho biết cứ một đồng tài sản thì công ty tạo ra bao nhiêu đồng
lợi nhuận và ROA đánh giá hiệu suất sử dụng tài sản của công ty.
Học viên: Bùi Tiến Cƣờng

17

Viện Kinh tế và quản lý


Luận văn thạc sĩ QTKD

Trƣờng ĐH Bách Khoa Hà Nội
Lợi nhuận của doanh nghiệp

Doanh lợi vốn chủ sở hữu=

x 100
Vốn chủ sở hữu bình quân của DN

Chỉ tiêu doanh lợi vốn chủ sở hữu(ROE) cho biết một đồng vốn tự có tạo được
bao nhiêu đồng lợi nhuận. ROE càng cao thì khả năng cạnh tranh của cơng ty càng

mạnh,vì hệ số này cho thấy khả năng sinh lời và tỷ suất lợi nhuận của công ty, hơn nữa
tăng mức doanh lợi vốn chủ sở hữu là một mục tiêu quan trọng nhất trong hoạt động
quản lý tài chính của cơng ty.
1.2.3.5. Khả năng đổi mới của doanh nghiệp:
Tiêu chí này biểu hiện sự nhạy bén của lãnh đạo doanh nghiệp. Muốn thành
cơng, muốn chiến thắng đối thủ cạnh tranh thì doanh nghiệp phải chủ động dự đoán
trước được những biến động của thị trường, đi trước đối thủ cạnh tranh trong việc đáp
ứng những thay đổi nhu cầu đó. Khơng chỉ thế, doanh nghiệp cần phải tìm ra những
loại sản phẩm mới thay thế sản phẩm mà đối thủ cạnh tranh đang bán trên thị trường,
thậm chí phải thường xuyên thay đổi sản phẩm của chính doanh nghiệp theo xu hướng
tốt hơn về chất lượng và rẻ hơn về giá thành. Sự ra đời của các sản phẩm thay thế cho
phép doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh, đẩy lùi sự xâm lấn của đối thủ trên
thị trường mà doanh nghiệp đang tham gia. Khả năng đổi mới của doanh nghiệp sẽ cho
phép doanh nghiệp đứng vững trong thị trường cạnh tranh.
Khả năng đổi mới của doanh nghiệp được thể hiện trên nhiều khía cạnh: Khả
năng đổi mới của doanh nghiệp về cơ cấu tổ chức, quản lý, quá trình sản xuất, các
chiến lược mà doanh nghiệp xây dựng và thực hiện cũng như sự cải tiến hoặc sáng tạo
mới các sản phẩm, dịch vụ.
1.2.3.6. Khả năng đáp ứng nhu cầu của khách hàng.
Muốn có năng lực cạnh tranh cao hơn doanh nghiệp cần phải xác định và thoả
mãn tốt hơn nhu cầu khách hàng so với đối thủ cạnh tranh. Khả năng đáp ứng nhu cầu
khách hàng của doanh nghiệp được thể hiện trên nhiều khía cạnh:
- Khả năng cung cấp cho khách hàng đúng hàng hoá, dịch vụ họ cần, vào đúng
thời điểm mà họ muốn. Để phân tích đánh giá chỉ tiêu này cần tập trung và phân tích
hệ thống phân phối sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp.
- Sự đa dạng về sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp. Doanh nghiệp nào cung
Học viên: Bùi Tiến Cƣờng

18


Viện Kinh tế và quản lý


Luận văn thạc sĩ QTKD

Trƣờng ĐH Bách Khoa Hà Nội

ứng được nhiều loại và chủng loại sản phẩm sẽ có khả năng đáp ứng nhu cầu đa dạng
của khách hàng và do đó có năng lực cạnh tranh cao hơn.
- Thời gian đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Điều này tuỳ thuộc vào hoạt động
đặc thù của doanh nghiệp, thời gian đáp ứng nhu cầu được tính tốn khác nhau. Thời
gian đáp ứng nhu cầu khách hàng càng được rút ngắn, năng lực cạnh tranh càng cao.
- Sự hoàn hảo của dịch vụ trước, trong và sau khi bán hàng đang ngày càng trở
thành nhân tố quan trọng thu hút sự trở lại của khách hàng, tăng uy tín cho doanh
nghiệp, nuôi dưỡng sự trung thành của khách hàng đối với sản phẩm của doanh nghiệp
và bản thân doanh nghiệp.
1.2.3.7. Khả năng tiếp cận và khai thác có hiệu quả các nguồn lực phục vụ quá
trình kinh doanh.
Nếu doanh nghiệp có khả năng tiếp cận và khai thác có hiệu quả các nguồn lực
phục vụ quá trình kinh doanh sẽ giúp cho doanh nghiệp tạo ra được các lợi thế cạnh
tranh so với đối thủ cạnh tranh và do đó nâng cao được năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp. Khả năng tiếp cận và khai thác có hiệu quả các nguồn lực phục vụ quá trình
kinh doanh được thể hiện trên nhiều khía cạnh:
- Khả năng tiếp cận và xử lý các nguồn thơng tin hữu ích phục vụ quá trình ra
quyết định kinh doanh của doanh nghiệp. Các thông tin này bao gồm: thông tin về
năng lực cạnh tranh của các hàng hoá, dịch vụ cùng loại (về chất lượng, giá cả, bảo
đảm các tiêu chuẩn vệ sinh, môi trường, tốc độ cung ứng...); thông tin về cung cầu và
giá cả thị trường; thông tin về các công nghệ mới, thích hợp thơng tin về hoạt động và
cả thủ đoạn của đối thủ cạnh tranh; thông tin về hệ thống luật lệ, chính sách trong lĩnh
vực kinh tế của Việt Nam và của các nước mà doanh nghiệp đang tham gia kinh

doanh...
- Khả năng thu hút và phát triển nguồn lực có trình độ cao, chun sâu vào từng
hoạt động được giao. Việc đánh giá khả năng này thơng qua việc phân tích tình hình
tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng; phát triển đội ngũ lao động có trình độ và tay nghề
cao; nhất là phân tích năng suất lao động.
- Khả năng tiếp cận và sử dụng với hiệu suất cao các nguồn lực vật chất cũng là
chỉ tiêu quan trọng phản ánh năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Ưu thế của doanh
nghiệp so với đối thủ cạnh tranh trong việc thu mua các yếu tố đầu vào có chất lượng
với mức giá cả hợp lý. Doanh nghiệp càng có khả năng tiếp cận các yếu tố đầu vào có
Học viên: Bùi Tiến Cƣờng

19

Viện Kinh tế và quản lý


Luận văn thạc sĩ QTKD

Trƣờng ĐH Bách Khoa Hà Nội

chất lượng và sử dụng chúng càng hiệu quả thì khơng những làm giảm giá thành sản
phẩm mà còn tăng chất lượng, tăng năng lực cạnh tranh.
- Năng lực tài chính của doanh nghiệp thể hiện thông qua quy mô, cơ cấu tài
sản và nguồn vốn của doanh nghiệp, khả năng huy động các nguồn lực tài chính bên
trong và bên ngoài doanh nghiệp phục vụ các mục tiêu kinh doanh, khả năng sử dụng
có hiệu quả các nguồn lực tài chính trong q trình sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp.
1.2.3.8. Thương hiệu và uy tín của doanh nghiệp.
Uy tín của doanh nghiệp với các đối tác kinh doanh (người cung ứng, khách
hàng, đối tác liên minh,...) cũng là yếu tố quan trọng tạo nên lợi thế và góp phần nâng

cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Chữ “tín” trong kinh doanh ngày nay càng
có ý nghĩa quan trọng vì nó giúp làm giảm thiểu các chi phí giao dịch, nuôi dưỡng các
mối quan hệ bền vững giữa doanh nghiệp và đối tác.
Một vấn đề rất quan trọng liên quan đến nâng cao uy tín của doanh nghiệp là
khả năng doanh nghiệp sẽ phát triển thành công các thương hiệu mạnh. Nếu sản phẩm,
dịch vụ của doanh nghiệp có thương hiệu mạnh sẽ kích thích người mua nhanh chóng
đi đến quyết định mua, nhờ đó mà thị phần của doanh nghiệp gia tăng. Nhưng đánh giá
thương hiệu của doanh nghiệp không chỉ ở số lượng các thương hiệu mạnh và doanh
nghiệp đang có mà quan trọng là đánh giá được khả năng phát triển thương hiệu của
doanh nghiệp. Khả năng đó cho thấy sự thành cơng tiềm tàng của doanh nghiệp trong
tương lai. Nếu doanh nghiệp có khả năng phát triển thương hiệu thành
1.2.3.9. Khả năng liên kết và hợp tác với doanh nghiệp khác và hội nhập kinh tế
quốc tế
Mỗi doanh nghiệp tồn tại trong mối liên hệ nhiều chiều với các đối tượng hữu
quan trong môi trường kinh doanh. Trong kinh doanh thường xuất hiện các nhu cầu
liên kết và hợp tác qua nhiều đối tác với nhau làm tăng năng lực cạnh tranh. Khả năng
liên kết và hợp tác của doanh nghiệp thể hiện ở việc nhận biết các cơ hội kinh doanh
mới, lựa chọn đúng đối tác liên minh và khả năng vận hành liên minh đó một cách có
kết quả và hiệu quả cao, đạt được các mục tiêu đã đặt ra. Khả năng liên kết và hợp tác
cũng thể hiện sự linh hoạt của doanh nghiệp trong việc chủ động nắm bắt các cơ hội
kinh doanh trên thương trường.
Học viên: Bùi Tiến Cƣờng

20

Viện Kinh tế và quản lý


Luận văn thạc sĩ QTKD


Trƣờng ĐH Bách Khoa Hà Nội

Tuy nhiên, trong phạm vi và giới hạn đề tài nghiên cứu, tác giả sẽ chỉ phân tích
và đánh giá năng lực cạnh tranh trong hoạt động kinh doanh xây dựng cơ bản của
Công ty cổ phần xây dựng năng lượng dựa trên một số các tiêu chí trong bộ tiêu chí đã
nêu ở trên.
1.2.4. Các yếu tố ảnh hƣởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp:
1.2.4.1. Các nhân tố thuộc mơi trường bên ngồi
Các nhân tố thuộc mơi trường bên ngồi là các yếu tố bên ngồi doanh nghiệp,
có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Chúng tạo ra những cơ hội cũng như thách thức cho doanh nghiệp. Mơi trường bên
ngồi gồm: môi trường vĩ mô và môi trường vi mô (môi trường ngành).
a. Môi trường vĩ mô
Môi trường vĩ mô của doanh nghiệp là tổng hợp các nhân tố kinh tế, chính trị pháp luật, văn hố - xã hội, tự nhiên, cơng nghệ, tự nhiên... Các nhân tố có thể tác
động trực tiếp hoặc gián tiếp tới doanh nghiệp và doanh nghiệp khơng thể thay đổi nó
mà cần phải biết thích nghi một cách sáng tạo.
- Mơi trường kinh tế:
+ Mức tăng trưởng kinh tế hàng năm được đánh giá thông qua mức tăng GDP
và mức tăng thu nhập bình quân đầu người/năm. Mức tăng trưởng kinh tế ảnh hưởng
trực tiếp đến quy mô và đặc trưng của các cơ hội cũng như thách thức đối với doanh
nghiệp. Tăng trưởng kinh tế sẽ kéo theo tăng khả năng tiêu thụ sản phẩm hàng hố,
khai thác dịch vụ trong tồn bộ nền kinh tế quốc dân, từ đó tạo ra triển vọng phát triển
cho các doanh nghiệp và làm giảm bớt đi áp lực cạnh tranh trong phạm vi của những
ngành riêng biệt. Ngược lại, khi nền kinh tế sa sút, suy thoái sẽ làm giảm nhu cầu tiêu
thụ sản phẩm hàng hoá, dịch vụ khai thác, đồng thời làm tăng các lực lượng cạnh
tranh. Sự giảm sút của nền kinh tế cũng làm cho cuộc chiến về giá sẽ trở nên khốc liệt
hơn trong các ngành đang nằm trong thời kỳ trưởng thành.
+ Mức lãi suất, các chính sách tiền tệ, tỷ giá hối đối cũng có thể tạo ra một vận
hội mới cho doanh nghiệp nhưng cũng có thể là những nguy cơ đối với sự phát triển
của doanh nghiệp

+ Mức độ lạm phát và những vấn đề chống lạm phát cũng là một nhân tố quan
trọng ảnh hưởng đến doanh nghiệp. Thực tế, nếu tỷ lệ lạm phát quá cao có thể làm mất
Học viên: Bùi Tiến Cƣờng

21

Viện Kinh tế và quản lý


Luận văn thạc sĩ QTKD

Trƣờng ĐH Bách Khoa Hà Nội

ổn định nền kinh tế, hạn chế nhịp độ phát triển kinh tế, thúc đẩy việc nâng cao tỷ lệ
phần trăm cho vay vốn và tăng sự giao động về giá trao đổi ngoại tệ. Lạm phát tăng
lên, dự án để tiến hành đầu tư trở nên mạo hiểm hơn, doanh nghiệp sẽ phải cắt giảm
đầu tư phát triển sản xuất.
+ Hệ thống thuế và mức thuế suất là những căn cứ cơ sở để Nhà nước điều
khiển mối quan hệ cung cầu các sản phẩm hàng hoá khác nhau trong nền kinh tế. Nó
có ảnh hưởng lớn và trực tiếp đến thu nhập của các doanh nghiệp, hay tổ chức tạo ra
những nguy cơ hay triển vọng phát triển của doanh nghiệp.
+ Ngồi những nhân tố trên có những tác động trực tiếp và quan trọng đến
doanh nghiệp, nó cịn có các nhân tố khác nữa như các phương pháp hoạt động của thị
trường, thị trường vốn, vòng quay và các chỉ số chứng khoán, cấu trúc về nền kinh
tế…
- Mơi trường chính trị - pháp luật:
Các nhân tố này tác động đến doanh nghiệp theo những hướng khác nhau.
Chúng có thể tạo ra cơ hội, hay trở ngại, thậm chí là rủi ro thực sự cho doanh nghiệp,
tổ chức. Chúng thường bao gồm:
+ Chính phủ ln là người tiêu dùng lớn nhất trong nền kinh tế quốc gia.

+ Sự ổn định về an ninh chính trị, nhất quán về quan điểm các chính sách lớn
ln là mơi trường tốt và sự hấp dẫn với các nhà đầu tư. Hệ thống luật pháp được ban
hành và xây dựng hoàn thiện sẽ là cơ sở để các doanh nghiệp, tổ chức đó kinh doanh
ổn định.
+ Quyết định về các loại chính sách thuế các lệ phí có thể vừa tạo ra cơ hội cũng
lại vừa có thể là những thách thức để doanh nghiệp kinh doanh phát triển sản xuất.
+ Luật lao động, bao gồm thu nhập, tiền lương, quy chế tuyển dụng, đề bạt, chế
độ hưu trí, trợ cấp thất nghiệp cũng là điều mà các doanh nghiệp phải tính đến.
- Môi trường khoa học công nghệ:
Đây là nhân tố có ảnh hưởng lớn đến chiến lược kinh doanh trong các lĩnh vực
kinh tế, của ngành cũng như nhiều doanh nghiệp, tổ chức. Thực tế thế giới đã từng
chứng kiến sự biến đổi của công nghệ làm chao đảo, thậm chí làm mất đi nhiều lĩnh
vực ngành nghề, nhưng đồng thời cũng làm xuất hiện nhiều ngành nghề lĩnh vực kinh
doanh mới, và hoàn thiện hơn.
Thế kỷ XXI là của tiến bộ khoa học, công nghệ tri thức. Nên các phân tích,
Học viên: Bùi Tiến Cƣờng

22

Viện Kinh tế và quản lý


Luận văn thạc sĩ QTKD

Trƣờng ĐH Bách Khoa Hà Nội

phán đốn mọi sự biến đổi cơng nghệ là rất quan trọng và cấp bách hơn lúc nào hết.
Thực tế sự biến đổi khoa học công nghệ đã thật sự làm ảnh hưởng đến mọi doanh
nghiệp, mọi tổ chức thậm chí cả các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Khi mà khoa học cơng
nghệ ngày càng phát triển thì nó sẽ tạo ra những cơ hội cũng như những nguy cơ cho

các doanh nghiệp. Cho phép các doanh nghiệp ứng dụng những khoa học hiện đại để
tạo ra các sản phẩm có sức cạnh tranh lớn và ngược lại nó cũng có thể làm cho công
nghệ hiện tại của doanh nghiệp trở nên lỗi thời.
- Mơi trường văn hố - xã hội:
Do những lối sống ln thích ứng và tự thay đổi nhanh chóng theo hướng du
nhập những lối sống văn hố mới, nên có thể làm nảy sinh ra những cơ hội kinh doanh
hoặc ngược lại. Vì vậy, doanh nghiệp cần phải xác định rõ mục tiêu và tính đến các
khả năng này thông qua thái độ tiêu dùng, sự thay đổi của tháp tuổi, tỷ lệ kết hôn sinh
đẻ, vị trí vai trị của người phụ nữ tại nơi làm việc và gia đình....
Sự xuất hiện của hiệp hội những người tiêu dùng là một cản trở đòi hỏi các
doanh nghiệp phải quan tâm, đặc biệt là chất lượng sản phẩm phải đảm bảo vì lợi ích
người tiêu dùng.
Trình độ dân trí ngày càng cao đã, đang và sẽ là một thách thức đối với các nhà
sản xuất.
Văn hoá truyền thống và văn hố tiếp nhận thơng qua các hình thức giao lưu
hình thành nền tảng văn hố của các dân tộc trong mỗi quốc gia. Nền tảng này có tính
hệ thống, có giá trị theo các mức độ khác nhau, có tính lịch sử, có mặt tích cực, có mặt
tiêu cực... và đều ảnh hưởng đến tư duy, hành động của con người trong các hoạt động
thuộc các lĩnh vực đời sống kinh tế xã hội và có ảnh hưởng đến hành vi tiêu dùng của
người dân.
Tóm lại, các yếu tố văn hoá - xã hội như: Phong tục tập quán, lối sống, thói
quen.. đều có ảnh hưởng đến hành vi của ngưới tiêu dùng. Nếu doanh nghiệp có sự
hiểu biết và thích nghi sáng tạo phù hợp với mơi trường văn hố - xã hội thì có thể tạo
ra cho mình năng lực cạnh tranh cao hơn so với đối thủ.
- Môi trường tự nhiên:
Môi trường tụ nhiên luôn là yếu tố đặc biệt quan trọng không chỉ đối với điều
kiện đời sống của con người, mà còn là yếu tố đầu vào hết sức quan trọng của các
Học viên: Bùi Tiến Cƣờng

23


Viện Kinh tế và quản lý


Luận văn thạc sĩ QTKD

Trƣờng ĐH Bách Khoa Hà Nội

ngành kinh tế. Mơi trường tự nhiên cần xét đến đó là các yếu tố vị trí địa lý, khí hậu,
đất đai, sơng, suối, ao hồ, biển, tài ngun khống sản, rừng, mơi trường sinh thái…
Nếu doanh nghiệp nào có thể khai thác hiệu quả, hợp lý các tài nguyên thiên
nhiên thì có thể tạo dựng được cho mình năng lực cạnh tranh cao.
- Môi trường quốc tế:
Xu thế tiến tới khu vực hố và tồn cầu hố đã và đang sẽ là một điều kiện tất
yếu mà mọi doanh nghiệp, mọi ngành, mọi chính phủ phải tính đến khi tiến trình hội
nhập nền kinh tế trên tồn thế giới đã được hình thành. Do đó mơi trường quốc tế và
tồn cầu hoá phát triển kinh tế sẽ phức tạp hơn, cạnh tranh càng quyết liệt hơn từ
những khác biệt về quan điểm xã hội văn hoá, cấu trúc thể chế, chính sách và kinh tế
trong mỗi quốc gia trên tồn thế giới...Việc gia nhập WTO đã giúp Việt Nam bước vào
để chuyển động trong mơi trường thế giới đó. Khi mà hội nhập ngày càng mở rộng thì
nó mở ra cho các doanh nghiệp cơ hội và những thách thức có thể làm tăng hoặc giảm
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
b. Môi trường vi mô
So với môi trường vĩ mơ, mơi trường vi mơ có tác động trực tiếp tới năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp trong ngành. Theo Michel Porter thì có 5 lực lượng chính
có ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, đó là:
- Đối thủ cạnh tranh trực tiếp: Là những doanh nghiệp cùng tạo ra và cung ứng
một loại sản phẩm trên cùng một thị trường giống doanh nghiệp. Cạnh tranh với các
đối thủ trực tiếp thường là gay gắt nhất. Nếu đối thủ cạnh tranh có tiềm lực lớn hơn so
với doanh nghiệp thì sẽ là mối đe doạ lớn đối với doanh nghiệp. Doanh nghiệp muốn

thắng được các đối thủ cạnh tranh thì cần phải nghiên cứu về họ thật thận trọng để có
thể đưa ra những chiến lược tác chiến hợp lý.
- Đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn: Là những người có dự tính sắp gia nhập thị
trường, những người mới gia nhập. Sự xuất hiện đối thủ cạnh tranh tiềm năng làm cho
cạnh tranh ngày càng gay gắt hơn, có thể là yếu tố làm thu hẹp thị phần, giảm lợi
nhuận của doanh nghiệp.
- Những nhà cung cấp: Đó là những người cung ứng những đầu vào cho doanh
nghiệp. Nhà cung ứng có thể gây áp lực mạnh cho doanh nghiệp về giá và khối lượng
cung ứng. Điều này sẽ làm cho giá thành sản phẩm của doanh nghiệp tăng cao, dẫn
Học viên: Bùi Tiến Cƣờng

24

Viện Kinh tế và quản lý


Luận văn thạc sĩ QTKD

Trƣờng ĐH Bách Khoa Hà Nội

đến làm giảm năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Do đó, doanh nghiệp cần phải
lựa chọn cho mình nhà cung ứng tốt nhất với giá cả và khối lượng ổn định.
- Khách hàng: Khách hàng là người có ảnh hưởng lớn đến sự thành công của
doanh nghiệp. Nếu khách hàng ép giá, giảm khối lượng mua, yêu cầu chất lượng cao
hơn mà mức giá như cũ hay yêu cầu cung cấp nhiều dịch vụ hơn hoặc từ bỏ doanh
nghiệp để lựa chọn doanh nghiệp khác thì có thể làm giảm lợi nhuận của doanh
nghiệp, và ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Do vậy, muốn thành
cơng thì doanh nghiệp phải tạo dựng được lòng tin nơi khách hàng bằng cách thoả mãn
tốt nhu cầu, thị hiếu... của khách hàng.
- Sản phẩm thay thế: Khi giá cả mặt hàng mà doanh nghiệp cung ứng cao thì

khách hàng có xu hướng sử dụng các sản phẩm thay thế. Nó có thể làm giảm thị phần
và làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp, và ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp
Những người muốn
vào mới ( cạnh
tranh tiềm tàng)
Mối đe doạ gia
nhập
Áp lực của
người cung ứng

Sức mạnh người
cung ứng

DN và các đối
thủ hiện tại

Sức mạnh
người mua

Áp lực của
người mua

Mối đe doạ
thay thế

.

Sản phẩm và
dịch vụ thay thế


Hình 1.2: Mơ hình gồm 5 lực lƣợng của Michel Poter
1.2.4.2. Các nhân tố thuộc mơi trường bên trong
Đó là những tiềm lực mà doanh nghiệp sử dụng để tạo ra những lợi thế cạnh
tranh so với đối thủ cạnh tranh.
a. Các nguồn lực.
Đây là nhóm yếu tố cơ bản cần xem xét đánh giá đầu tiên, mục tiêu của doanh
Học viên: Bùi Tiến Cƣờng

25

Viện Kinh tế và quản lý


×