Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Thiết chế xã hội cổ truyền của người Mông ở các tỉnh miền núi phía Bắc với vấn đề xây dựng đời sống văn hóa cơ sở

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (823.65 KB, 7 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

NHÂN HỌC VĂN HÓA


N



<b>THIẾT CHẾ XÃ HỘI CỔ TRUYỀN CỦA NGƯỜI MÔNG </b>


<b>Ở CÁC TỈNH MIỀN NÚI PHÍA BẮC VỚI VẤN ĐỀ</b>



<b>XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HĨA CƠ SỞ</b>



<b>BÙI THANH THỦY</b>
<b>Tóm tắt</b>


<i>Với người Mơng, các thiết chế gia đình, dịng họ, làng bản đóng vai trị rất quan trọng trong đời </i>
<i>sống kinh tế, xã hội, văn hóa. Vì vậy, muốn tạo dựng được đời sống văn hóa cơ sở ở vùng đồng bào </i>
<i>Mơng sinh sống, chính quyền địa phương cần nghiên cứu, phát huy những yếu tố tích cực trong cơ chế </i>
<i>vận hành của các thiết chế xã hội truyền thống; đồng thời hạn chế những yếu tố lạc hậu, không phù </i>
<i>hợp. Việc xác định rõ tiêu chí gia đình văn hóa, bản văn hóa dựa theo nguyên tắc trên là nhiệm vụ trọng </i>
<i>tâm, then chốt trong quá trình thực hiện các mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội cho cộng </i>
<i>đồng người Mông mà Đảng và Nhà nước đã đề ra.</i>


<b>Từ khóa: Thiết chế xã hội, người Mơng, đời sống văn hóa</b>
<b>Abstract</b>


<i>To the Hmong people, their families and villages play a very important role in economic, social and </i>
<i>cultural life. Therefore, in order to create the basic cultural life of the Hmong people, it is necessary to </i>
<i>study and bring into play the positive factors in the operation mechanism of such social institutions </i>
<i>as well as limit the backward, inappropriate factors at the same time. Well defining criteria of cultural </i>
<i>families and cultural villages are key tasks in implementing the strategic objectives of the socio- </i>
<i>economic development that the Party and State have set.</i>


<b>Keywords: social institutions, Hmong, cultural life</b>


<b>1. Đặt vấn đề</b>


gười Mông thuộc nhóm ngơn ngữ
Mơng – Dao, có nguồn gốc từ
phương Bắc, di chuyển vào Việt
Nam cách đây khoảng hơn 300 năm. Cộng
đồng tộc người này sống tập trung chủ yếu ở
miền núi phía Bắc Việt Nam, nhiều nhất là các
tỉnh Hà Giang, Lai Châu, Điện Biên, Lào Cai, Sơn
La, Yên Bái, Cao Bằng, Bắc Kạn, Tuyên Quang,
trên những sơn nguyên có sự chia cắt bởi các
khe núi, với độ cao từ 800m đến 1.700m. Để
duy trì được cuộc sống lâu dài trên những
vùng núi cao, người Mơng đã sớm thích nghi
với từng vùng sinh thái. Họ xác lập cho mình
một hệ thống nơng nghiệp hồn chỉnh bao
gồm: trồng trọt, chăn nuôi, khai thác nguồn
lợi tự nhiên, làm nghề phụ (trồng lanh, dệt vải,


làm giấy, rèn, đúc, chạm bạc, mộc) và trao đổi
hàng hóa. Để bảo vệ, duy trì sự ổn định, tồn tại
của cộng đồng, họ đã xây dựng một hệ thống
thiết chế xã hội riêng biệt. Đó là hệ thống thiết
chế xã hội nhỏ nhưng bền vững với quan hệ
gia đình, dịng họ và làng bản, thích ứng với
điều kiện phải cư trú phân tán, khơng cịn lãnh
thổ tộc người.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

NHÂN HỌC VĂN HÓA



<b>2. Đặc điểm thiết chế xã hội cổ truyền của </b>
<b>người Mông</b>


Trong xã hội các dân tộc nói chung và người
<i>Mơng nói riêng, gia đình, dịng họ, bản làng là </i>
những cơ sở quan trọng hàng đầu của sự phát
triển tộc người.


<i>Gia đình là tế bào của xã hội, đối với các dân </i>


tộc, nó cịn mang tính truyền thống đậm nét. Nó
đã và đang thực hiện nhiều chức năng quan
trọng trong mọi lĩnh vực của đời sống, có tác
động đến sự phát triển và ý thức tộc người. Tuy
nhiên, cơ cấu gia đình ở các tộc người có những
nét khác nhau. Điều này phụ thuộc vào trình độ
phát triển kinh tế - xã hội, các quan hệ xã hội và
đặc điểm cư trú của từng tộc người, từng vùng.
Gia đình người Mơng là loại gia đình phụ
hệ lớn (gia đình khơng phân chia, gia đình mở
rộng) mà thành phần của nó gồm vài thế hệ
với vài cặp vợ chồng và con cái cùng chung
sống dưới một mái nhà, có kinh tế chung (làm
chung, ăn chung, chi tiêu chung).


Đặc điểm tiêu biểu của gia đình người
Mơng là tính chất phụ quyền thể hiện khá rõ
trong đời sống hằng ngày. Cho đến nay,
phong tục tập quán của họ vẫn thể hiện rõ tư
tưởng trọng nam khinh nữ. Tư tưởng này thể


hiện đậm nét qua các nguyên tắc ứng xử, sơ đồ
mặt bằng sinh hoạt trong gia đình…và được
lưu lại qua hệ thống tục ngữ:


<i>“Con gái chỉ giúp nhà một thời </i>
<i>Con trai mới giúp nhà cả đời”</i>


<i>Hay“Đẻ congáinhư gáonướcđổ đi rồi khơng </i>


<i>lấy lại được” (1).</i>


Tuy nhiên, sự hịa thuận trong gia đình vẫn
được đề cao: vợ chồng ít chửi mắng nhau, bố
mẹ ít đánh con cái, ơng bà được tơn trọng, sinh
hoạt gia đình có nề nếp, kỷ cương.


Một đặc điểm nữa trong gia đình của người
Mông là rất đông con. Quy mô trung bình của
mỗi gia đình từ 8 đến 10 người. Hiện tượng một
cặp vợ chồng người Mông khoảng 30 - 35 tuổi
đã có 6 hay 7 con là chuyện bình thường. Đáng
chú ý là tuổi kết hơn quá sớm, thông thường là
13, 14 tuổi. Người vợ thường nhiều hơn chồng
5 đến 6 tuổi. Có tới gần 70% phụ nữ Mông kết
hôn khi chưa đến tuổi trưởng thành.


<i>Cái lý“cha mẹ lấy vợ cho con trai, con trai phải có </i>


<i>nghĩa vụ giết trâu làm ma cho cha mẹ” vẫn ngự </i>



trị ở người Mông. Điều này gây ra những hủ tục,
tập quán nặng nề, tốn kém mà người dân phải
gánh chịu.


Sở dĩ gia đình người Mơng đơng con và có
tình trạng kết hơn sớm vì cho đến nay gia đình
vẫn là đơn vị kinh tế cơ bản. Mọi hoạt động sản
xuất của gia đình hầu như vẫn dựa chủ yếu vào
sức lao động và sự cần cù của con người. Chính
nhu cầu muốn có nhiều nhân lực tham gia lao
động sản xuất đã góp phần hạ thấp tuổi kết
hôn và tăng tỷ lệ sinh đẻ trong các gia đình
người Mơng. Hơn nữa, với phương thức sản
xuất nương rẫy, đi rừng và cư trú ở vùng khí
hậu, mơi trường khắc nghiệt, tình trạng “hữu
sinh vơ dưỡng” thường xun xảy ra, nên việc
đẻ nhiều cũng là một vấn đề tất yếu để đảm
bảo duy trì nịi giống.


Mặt khác, truyền thống văn hóa của người
Mơng cũng có những tác động nhất định, chi
phối quan niệm về số con trong gia đình. Cộng
đồng người Mơng lưu truyền quan niệm: Hạnh
phúc của người phụ nữ được thể hiện qua khả
năng sinh nở; điều bất hạnh đối với các cặp vợ
chồng là khơng có con. Thêm vào đó, vì theo
chế độ phụ hệ, ngồi mong muốn đơng con
nhiều cháu, họ nhất thiết phải có con trai.
Người Mông quan niệm con trai là trụ cột của
gia đình, vì vậy, khi sinh con trai, nhau thai sẽ


được chơn dưới cột chính của ngơi nhà.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

NHÂN HỌC VĂN HĨA


có tri thức, kinh nghiệm sống, kỹ năng nghề
nghiệp và biết cách giữ gìn, phát triển những
yếu tố đó. Thực tế cho thấy cách dựng nhà, dệt
vải, nấu nướng, thêu thùa, những nghề thủ
công truyền thống nổi tiếng như nghề rèn,
chạm bạc, dệt thổ cẩm, đan lát… tồn tại ở các
làng bản, trước hết từ trong các gia đình.


<i>Thiết chế dịng họ ở người Mơng tồn tại khá </i>


<i>đậm nét. Người Mơng gọi dịng họ là Xênh, đó </i>
là anh em cùng tổ tiên, cùng huyết thống (tính
theo hệ cha) và quan trọng hơn là phải cùng
phong tục tập quán, đặc biệt có các nghi lễ thờ
cúng gia đình giống nhau. Theo thống kê, hiện
người Mơng có khoảng 18 họ. Mỗi họ có tên gọi
riêng, liên quan đến các con vật, cây, đồ vật hay
màu sắc. Người Mơng có những dấu hiệu riêng
để nhận họ: Các thành viên trong dòng họ vì
một lý do nào đó phải chia tay nhau, người ta
thường trao cho nhau những vật làm tin như cái
trống, thanh kiếm, mảnh đá… để sau này nhận
lại họ của mình.


Đặc trưng cơ bản của dịng họ người Mơng
là tập đồn ngoại hôn. Người trong họ lấy nhau


bị coi là vi phạm phong tục/tập quán pháp.
Trước đây mỗi dòng họ thường cư trú trong
một phạm vi đất đai nhất định do trưởng họ và
chủ các gia đình trong họ khai phá, sau này có
thêm nhiều dịng họ cư trú, nhưng mỗi họ vẫn
ở thành cụm gần nhau.


Như vậy, đặc điểm cư trú của người Mông là


<i>gia đình cư trú theo cùng dịng họ, khơng cư trú </i>


đan xen với người khác tộc. Chính vì thế, các
thành viên của dịng họ mang tính cố kết sâu sắc
(u thương, đùm bọc, quan tâm, giúp đỡ nhau
trong đời sống hằng ngày). Người Mơng thường
<i>nói “Sống là người của dòng họ, chết là ma của </i>


<i>dòng họ. Sống phải bảo vệ nhau, chết phải chôn </i>
<i>cất cho nhau”. Đặc biệt, mối quan hệ này đã </i>


<i>được nêu lên thành luật tục/quy ước. “Ý thức </i>


<i>dòng họ, cộng đồng còn biểu hiện khá sâu sắc ở </i>
<i>việc bảo vệ tính mạng cho nhau, bảo vệ sự sinh </i>
<i>tồn và phát triển của dịng họ. Mối quan hệ, tính </i>
<i>cố kết trong dòng họ của người Mông không </i>
<i>phụ thuộc vào ranh giới hành chính quốc gia và </i>
<i>ở mức độ nào đó, cịn độc lập với hệ thống tổ </i>
<i>chức, chính quyền cấp cơ sở hiện nay” (2).</i>



Mỗi dịng họ của người Mông thường có
<i>người đứng đầu gọi là hố pẩu (cái gốc) hay chủ </i>


<i>súng (chủ họ). Trưởng họ phải là người có đạo</i>


đức, am hiểu các tục lệ, các bài cúng của dịng
họ mình, rộng hơn là hiểu biết phong tục tập
qn của tộc người Mơng, có tài ứng xử, lý lẽ
giỏi, thuyết phục được mọi người nghe theo.
Ngoài ra, họ là người biết tổ chức và có khả
năng lao động, có phẩm chất trung thực, biết
quan tâm, chăm sóc người cùng họ và được
các thành viên họ mạc tin cậy, tiếng nói của
trưởng họ đóng vai trị quyết định đối với
nhiều việc trong họ. Khi nào trưởng họ chết thì
người đạt các tiêu chuẩn trên sẽ được suy tôn
làm kế nhiệm, không theo kiểu cha truyền con
nối. Trưởng họ có thể bị thay thế nếu khơng
hồn thành nhiệm vụ được giao.


Những đặc điểm mang tính riêng biệt của
thiết chế dịng họ người Mơng rất cần được
xem xét, vận dụng trong quá trình biên soạn
tiêu chí đánh giá để chỉ đạo, triển khai thực
hiện xây dựng đời sống văn hóa, xây dựng
nơng thơn mới hiện nay.


Thiết chế làng/bản của người Mơng có thể
coi là điển hình cho cấu trúc cư trú của các tộc
người vùng núi cao phía Bắc. Đặc điểm nổi bật


là bản của người Mơng thường độc lập, ít xen
kẽ với các tộc người khác. Các ngôi nhà tập
trung chủ yếu trên những vùng núi cao với
<i>những sườn dốc lớn. Bản (tiếng Mơng: giào, </i>


<i>dị) là không gian sinh tồn của một cộng đồng </i>


người mà ranh giới của nó đã được vạch định
và được cộng đồng các làng/bản khác thừa
nhận. Trong không gian sinh tồn đó, những
ngơi nhà được xây dựng theo quy cách riêng.
Bản có đất đai canh tác, gồm ruộng, rẫy, những
khoảng rừng dự phòng, rừng cấm, rừng đầu
nguồn (nơi con người có thể săn bắn, hái
lượm, khai thác lâm thổ sản), có bãi tha ma, bãi
chăn thả gia súc, sông suối để đánh bắt cá…
Tất cả những cái đó thuộc quyền sở hữu của
toàn dân trong bản.


Số lượng cư dân trong mỗi bản của người
Mơng có thể lớn, nhỏ khác nhau, nhưng đều
thuộc về những gia đình có mối quan hệ huyết
thống hay láng giềng. Thường trong mỗi bản có
từ 2 đến 3 họ; bản lớn có từ 6 đến 7 họ, trong
đó đều có dịng họ lớn (họ gốc), người đứng đầu
dòng họ nhiều khi cũng là trưởng bản. Họ hợp
thành một cộng đồng xã hội tự quản, vận hành
<i>theo nguyên tắc luật tục/tập quán pháp, gọi là “kế </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

NHÂN HỌC VĂN HĨA



trong đó tính cộng đồng là nguyên tắc ứng xử
và quan hệ xã hội nền tảng. Tập quán pháp này
buộc mọi cư dân dù ở bất cứ bản nào hay dòng
họnào cũngphảituân theo. Tậpqnphápcịn
là cơ sở để các bản người Mơng xây dựng quy
ước nhằm giải quyết các vấn đề thiết yếu như:
bảo vệ an ninh; trồng và bảo vệ rừng chung,
rừng thiêng; nghĩa vụ giúp đỡ lẫn nhau… Tập
qn pháp là sợi dây vơ hình nhưng bền chặt
cố kết các thành viên trong bản.


Bản người Mơng cịn là một cộng đồng về
văn hóa với những nghi lễ, tín ngưỡng và các
sinh hoạt văn hóa chung khác như hát giao
duyên, lễ cưới, lễ tang, hội gầu tào, chợ phiên…


Là tổ chức xã hội tự quản, bản của người
Mơng có bộ máy điều hành do dân lựa chọn,
<i>đứng đầu là trưởng bản (Mã phải, Seo phải), </i>
tham gia là một số già làng và chủ (đại diện) các
gia đình để giúp việc trong các lĩnh vực. Chức
năng của tổ chức tự quản này là điều hành các
quan hệ xã hội, giữ gìn lễ nghi, phong tục và
đại diện cộng đồng quan hệ với bên ngồi.


Nhìn chung, do sống ở vùng núi cao, xa
nguồn nước, canh tác nương rẫy nên người
Mông quy tụ thành các bản phân tán, quy mô
tập trung dân cư không lớn như những bản


của tộc người khác ở vùng thấp và thung lũng.
Điều kiện này đã tạo sự liên kết không chặt
chẽ của dân cư trên một địa bàn lãnh thổ, tạo
nên một trong những nét đặc trưng riêng biệt
của kết cấu làng bản. Thay vào đó, mối quan
hệ huyết thống lại mạnh mẽ, tổ chức dòng họ
chặt chẽ đã chi phối nhiều mặt của đời sống cư
dân trong bản và ngoài bản. Đây là yếu tố quan
trọng giúp cho việc thực hiện, triển khai các chủ
trương của Đảng và chính sách của Nhà nước
đến với người dân một cách hiệu quả.


<b>3. Xây dựng đời sống văn hóa cơ sở ở các </b>
<b>vùng người Mông sinh sống hiện nay</b>


Xã hội nông thôn của người Mơng hiện
nay, tuy đã có nhiều biến đổi do tác động nội
tại cũng như từ bên ngồi nhưng về cơ bản
vẫn cịn ở tình trạng xã hội cổ truyền tiền
công nghiệp. Bởi vậy, những thiết chế xã hội
cổ truyền vẫn tiếp tục chi phối nhiều mặt của
đời sống tộc người. Trong tình trạng như vậy,
nhiều yếu tố còn phù hợp, tạo nên sự ổn định
và phát triển xã hội nhưng cũng có những yếu


tố, những phương diện đã trở thành lỗi thời và
đang là lực cản cho sự phát triển, cho việc thực
hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội. Vì vậy, việc
nhận biết vai trị, đặc điểm của thiết chế xã hội
người Mơng để từ đó chọn lọc, kế thừa và sử


dụng những truyền thống tốt, phù hợp, nhằm
xây dựng đời sống văn hóa sao cho sát thực,
hiệu quả là một vấn đề hết sức cần thiết.


Thực tế, gia đình, dịng họ, làng bản người
Mơng hiện nay vẫn tồn tại như một hệ thống
thiết chế xã hội độc lập, thực hiện nhiều chức
năng, nhất là các chức năng kinh tế, văn hóa.
Tuy nhiên, khơng phải tồn bộ đặc trưng của
gia đình truyền thống, quy ước của dịng họ,
tập qn pháp đều có tác động tích cực, thúc
đẩy q trình phát triển. Tình trạng kết hơn
sớm (tảo hơn), tổ chức ăn uống linh đình, địa vị
thấp kém của người phụ nữ trong gia đình và
ngồi xã hội, số trẻ em được đi học thấp, cách
thức cư trú biệt lập... là những hiện thực cần
phải được thay đổi trong đời sống hiện nay.


Hình thức gia đình lớn của người Mông
cũng đang dần không phù hợp với cách thức
tổ chức và quản lý sản xuất hiện tại, không
phát huy được thế mạnh của mỗi cá nhân.
Ngày nay, kinh tế hộ nông dân, kinh tế trang
trại và dịch vụ đóng vai trị cơ bản. Các mơ
hình kinh tế này sẽ dẫn tới sự thay đổi về quy
mơ, tổ chức gia đình, tác động đến quan niệm
sinh đẻ cũng như các vấn đề văn hóa, giáo dục
và đào tạo. Vì vậy, cần phải tính tới những biện
pháp điều chỉnh văn hóa sao cho vừa phù hợp
với tình hình mới, vừa bảo lưu được các giá trị


truyền thống.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

NHÂN HỌC VĂN HÓA


Ngày nay, khi vấn đề bảo vệ rừng và môi
trường sống đặt ra gay gắt thì việc sở hữu
công cộng của làng bản người Mông trên
phạm vi đất đai, sông suối (sau khi xóa bỏ
được tập quán đốt rừng làm nương rẫy) có ý
nghĩa khẳng định chủ nhân, tránh tình trạng
đất vơ chủ, hạn chế phá rừng, tăng cường giữ
gìn và phát triển tài nguyên.


Tuy nhiên, làng bản người Mông và các
quan hệ làng bản vẫn bộc lộ những hạn chế
trong quá trình xây dựng đời sống văn hóa cơ
sở, đổi mới bộ mặt nơng thơn hiện nay. Tính
chất khép kín (tính biệt lập), các quan hệ ràng
buộc chung còn phổ biến, tập quán pháp vẫn
là cơ sở vận hành xã hội... đã và đang tạo thành
lực cản cho việc hòa hợp của người Mông với
các cộng đồng tộc người khác ở xung quanh.
Mặt khác, tư tưởng bình quân, tâm lý cào bằng
trong môi trường làng bản cũng ảnh hưởng
đến việc giải phóng cá nhân, phát huy sáng
tạo trong lao động sản xuất, hoạt động xã hội
của mỗi thành viên trong cộng đồng. Bởi vậy
phải có những biện pháp đặc biệt nhằm phát
triển kinh tế, giáo dục, nâng cao trình độ nhận
thức cho người dân. Việc xây dựng bản văn hóa


là chìa khóa để thúc đẩy q trình mở cửa và
hịa nhập của người Mông. Các cơ quan quản
lý cần xây dựng các tiêu chí, các quy định sao
cho có sự kết hợp hài hòa, vừa kế thừa được
những điều hay của tập quán pháp, quy ước
dòng họ, vừa đảm bảo được tính nghiêm minh
của pháp luật. Ví dụ, khi xây dựng các tiêu chí
gia đình văn hóa, bản văn hóa, một mặt cần
dựa trên đặc điểm thiết chế xã hội truyền
thống của người Mông, song mặt khác, cũng
cần đưa ra những tiêu chí nhằm hạn chế ở mức
độ vừa phải những mặt tiêu cực của đời sống
tộc người như: thực hiện định canh định cư; kế
hoạch hóa gia đình (mức sinh của người Mông
từ 3 đến 4 con là có thể chấp nhận được);
khơng có hiện tượng tảo hơn; khơng có trẻ em
thất học; khơng có hiện tượng mê tín dị đoan,
tổ chức cưới xin, ma chay tốn kém; khơng có tệ
nạn hút thuốc phiện.


Việc biên soạn, điều chỉnh các tiêu chí gia
đình văn hóa, bản văn hóa, ngồi đội ngũ am
hiểu luật pháp, am tường về phong tục tập
quán, cần huy động sự hỗ trợ của các đoàn
thể quần chúng, những người có uy tín trong


bản, trong dịng họ. Người dân phải được thảo
luận, đưa ý kiến nói “khơng” hay “đồng ý” với
các tiêu chí, quy ước để họ có ý thức thực hiện,
thấy được lợi ích đối với cá nhân, gia đình và


cộng đồng.


Đặc biệt, các cán bộ lãnh đạo địa phương
cần phối hợp với cộng đồng, các đoàn thể,
người quản lý bản, dòng họ để điều chỉnh tập
quán pháp thành quy ước làng văn hóa. Có
chỉnh sửa, tập quán pháp mới phù hợp với thời
đại mới, không lệch hoặc không đối kháng với
luật pháp chung. Do trình độ dân trí thấp, hầu
hết đồng bào người Mông vẫn chưa xây dựng
được lối sống theo pháp luật. Họ không coi
trọng pháp luật mà chỉ coi trọng tập quán
pháp cùng các quy ước do bản/dịng họ xây
dựng. Vì vậy, việc điều chỉnh tập quán pháp sẽ
tạo hiệu quả cao cho quá trình thực thi các quy
định, chính sách và pháp luật của Nhà nước.


Tuy nhiên, để thực hiện được những điều
nêu trên, cần phải làm từng bước và trước hết
là làm tốt cơng tác tun truyền, vận động. Vai
trị của các trưởng bản, già làng, trưởng họ, thầy
cúng... cần được hết sức coi trọng vì tiếng nói
của họ tác động rất mạnh đến người dân. Bởi
vậy, cần tạo nên sự hài hòa giữa các thiết chế xã
hội truyền thống với các tổ chức chính quyền,
đồn thể, lấy cách thức quản lý dòng họ, làng
bản làm nòng cốt để dễ dàng tập hợp và vận
động quần chúng, triển khai các hoạt động
chung, giải quyết các mâu thuẫn, tạo mối quan
hệ xã hội ổn định. Phương thức tuyên truyền tốt


nhất là tuyên truyền trực tiếp, thông qua chính
các trưởng bản, già làng, trưởng họ; thơng qua
các thanh, thiếu niên người Mông được đi học
ở trình độ phổ thơng trung học. Các đối tượng
này cần biết trước và hiểu rõ mục đích, nội
dung, ý nghĩa các chương trình xây dựng đời
sống văn hóa.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

NHÂN HỌC VĂN HĨA


bào Mơng nhiều hơn văn hóa mới. Điều này rất
cần thiết cho mục tiêu bảo tồn và phát huy vốn
văn hóa dân gian truyền thống theo định hướng
chiến lược phát triển văn hóa đất nước.


Hằng ngày, cuộc sống người Mơng rất bận
rộn và vất vả do điều kiện sống và phương
thức sản xuất. Họ làm việc từ sáng đến tối với
các công việc: nương rẫy, chăn nuôi, se lanh,
dệt vải… Trừ khi có phiên chợ, ít khi họ có thời
gian rỗi hàng ngày. Do đó, các loại hình văn
hóa mới như xem phim, hoạt động nhà văn
hóa, thư viện, câu lạc bộ phù hợp với nhu cầu
thời gian rỗi không thu hút được họ. Ngược lại,
họ có thời gian nghỉ ngơi theo mùa vụ (thời
điểm nông nhàn sau khi thu hoạch, trong
khoảng từ 2 đến 3 tháng). Thời gian này họ tổ
chức nhiều loại hình sinh hoạt văn hóa dân
gian như các lễ thức, lễ hội, hát giao duyên…
Mặt khác, việc tổ chức các hoạt động văn hóa


dân gian cũng đơn giản và ít tốt kém hơn so
với tổ chức các hoạt động văn hóa mới. Khi văn
hóa dân gian được khơi nguồn, gìn giữ và phát
huy thì sẽ nhận được sự tham gia chủ động, tự
giác, tích cực của cộng đồng.


Như vậy, cơ chế vận hành của đời sống văn
hóa người Mơng ở miền núi phía Bắc là cơ chế
dân gian trong một thiết chế xã hội tương đối
chặt chẽ. Với cơ chế này, người dân khơng chỉ
có nhu cầu hưởng thụ văn hóa mà cịn ln
trực tiếp tham gia vào việc tạo ra và giới thiệu
các sản phẩm văn hóa… Cơ chế vận hành này
cần được vận dụng trong việc tổ chức các hoạt


gian…) vốn diễn ra một cách tự nhiên bên
bếp lửa gia đình.


Bên cạnh việc phát huy những yếu tố tích
cực của thiết chế xã hội truyền thống, chính
quyền địa phương cũng cần đẩy mạnh quá
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở vùng người
Mơng, xóa bỏ phương thức canh tác“chặt, đốt”
(phá) rừng làm nương rẫy, chuyển sang cơ cấu
kinh tế trang trại, dịch vụ với những phương
thức kỹ thuật mới như phát triển vùng trồng
cây nông sản, trồng thảo quả, chè, cây ăn quả,
cây dược liệu; hình thành mơ hình trang trại
du lịch, các điểm du lịch cộng đồng, phát triển
các dịch vụ du lịch; khôi phục và phát triển các


nghề thủ công truyền thống, hướng tới sản
xuất hàng xuất khẩu, hàng lưu niệm phục vụ
du lịch. Đây là giải pháp quan trọng, gốc rễ,
giúp giải quyết được các vấn đề gia đình như
kết hôn sớm, sinh đẻ nhiều, thất học; vai trị
người phụ nữ trong gia đình và vấn đề bình
đẳng giới trong xã hội người Mơng.


Tóm lại, việc kế thừa các yếu tố tích cực,
hạn chế những yếu tố lạc hậu trong thiết chế
xã hội truyền thống nhằm nâng cao hiệu quả
hoạt động xây dựng đời sống văn hóa cơ sở là
vấn đề quan trọng, cấp bách đối với các vùng,
địa phương có đồng bào người Mơng cư trú
hiện nay.


B.T.T
<i>(TS, Trưởng khoa Gia đình và Cơng tác Xã hội, </i>


<i>Trường Đại học Văn hóa Hà Nội)</i>


động văn hóa ở cơ sở cho phù hợp.
Các nhà quản lý muốn tổ chức các hoạt
động, sự kiện văn hóa nơi đồng bào người
Mông sinh sống, cần chú ý đến thời gian rỗi
của bà con, lựa chọn loại hình nghệ thuật dân
gian mà bà con yêu thích để thu hút được
đông đảo người dân đến tham dự. Việc đầu
tư xây dựng các thiết chế văn hóa cũng phải
được tính tốn kỹ, bởi dù đưa các thiết chế như


thư viện, nhà văn hóa; các trang thiết bị như
đầu máy video, loa, đài… cũng chưa thể làm
cho người dân có được một đời sống văn hóa
đích thực nếu như ở đó thiếu những sinh hoạt
văn hóa văn nghệ tự thân của họ (những buổi
sinh hoạt cộng đồng, sinh hoạt hội lễ, những
buổi trình diễn các loại hình nghệ thuật dân


<b>Tài liệu tham khảo</b>


<i>1. Trần Văn Bính (chủ biên, 2004), Văn hóa các </i>


<i>dân tộc Tây Bắc: Thực trạng và những vấn đề đặt ra, </i>


Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.


<i>2. Cư Hịa Vần, Hồng Nam (1994), Dân tộc </i>


<i>H’mông ở Việt Nam, Nxb. Văn hóa Dân tộc, Hà Nội.</i>


<i>3. Viện Dân tộc học (1978), Các dân tộc ít </i>


<i>người ở Việt Nam, Tập 1 (các tỉnh phía Bắc), Nxb. </i>


Khoa học Xã hội, Hà Nội.
4. http://www.đtcp.org.vn
Ngày nhận bài: 13 - 1- 2017


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

NHÂN HỌC VĂN HÓA



<b>V</b>

NGHIÊN CỨU

<b>A</b>



ĂN HÓ



</div>

<!--links-->
<a href='http://www.đtcp.org.vn/'> http://www.đtcp.org.vn </a>

×