Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN KẾ TOÁN NGHIỆP VỤ NHẬP KHẨU TẠI CÔNG TY TNHH TIẾN HƯNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (103.96 KB, 11 trang )

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN KẾ TOÁN NGHIỆP VỤ
NHẬP KHẨU TẠI CÔNG TY TNHH TIẾN HƯNG
1. Nhận xét chung về công tác kế toán nghiệp vụ nhập nhập khẩu hàng hoá
tại Công ty TNHH Tiến Hưng.
Qua thời gian thực tập tại công ty, trên cơ sở những kiến thức đã được
trang bị tại trường, yêu cầu của công tác quản lý hoạt động kinh doanh xuất
nhập khẩu hiện nay và tình hình thực tế của công tác kế toán tại công ty, em xin
mạnh dạn đưa ra một số nhận xét đánh giá về công tác tổ chức kế toán nhập
khẩu hàng hoá ở công ty như sau:
1.1 Ưu điểm :
Thứ nhất: Mặc dù là một doanh nghiệp mới được thành lập, hệ thống kế
toán của công ty được tổ chức tương đối gọn và hoàn chỉnh, phù hợp với đặc
thù sản xuất kinh doanh, có kế hoạch sắp xếp và chỉ đạo từ trên xuống. Mô hình
kế toán tập trung tạo điều kiện thuận lợi cho việc kiểm tra, giám sát, cung cấp
thông tin kịp thời, chính xác cho quản lý doanh nghiệp đồng thời phát huy tính
chủ động sáng tạo trong kinh doanh.
Thứ hai: Các công việc kế toán được phân công tương đối rõ ràng cho kế
toán viên trong phòng kế toán, có sự phối hợp chặt chẽ và đồng bộ giữa các bộ
phận với nhau, đảm bảo tính thống nhất về phạm vi, phương pháp tính toán, ghi
chép. Từ đó tạo điều kiện cho việc kiểm tra, đối chiếu được dễ dàng và phát
hiện những sai sót để sửa chữa kịp thời, đảm bảo cung cấp trung thực thông tin
giúp ban lãnh đạo, các ngành có chức năng đánh giá được hiệu quả kinh doanh
trong kỳ, qua đó xây dựng được kế hoạch kinh doanh phù hợp với yêu cầu của
thị trường. Đội ngũ cán bộ kế toán của công ty có trình độ cao, thành thạo, có
kinh nghiệm trong công tác. Bên cạnh đó, công ty luôn tạo điều kiện và tổ chức
bồi dưỡng đào tạo các nghiệp vụ cho cán bộ kế toán. Hơn nữa, phòng kế toán
còn được trang bị một hệ thống máy tính tương đối đồng bộ với phần mềm kế
toán được thiết kế riêng giúp việc xử lý thông tin một cách nhanh chóng, giảm
nhẹ công việc ghi chép, tính toán cho các kế toán viên.
Thứ ba: Về chứng từ và luân chuyển chứng từ: công ty chấp hành
nghiêm chỉnh mọi hoá đơn chứng từ theo đúng mẫu và quy định của Bộ tài


chính. Mỗi nghiệp vụ kinh tế phát sinh đều được phản ánh trên các hoá đơn,
chứng từ phù hợp cả về số lượng và nguyên tắc ghi chép cũng như yêu cầu của
công tác quản lý chứng từ. Chứng từ là những cơ sở ban đầu để thực hiện công
việc hạch toán, do đó các chứng từ đều được đánh theo thứ tự thời gian và được
kiểm tra thường xuyên về nội dung nghiệp vụ kinh tế phát sinh, kiểm tra các
chứng từ gốc kèm theo, kiểm tra các con số, các chữ ký, kiểm tra các định
khoản....Việc kiểm tra này giúp cho việc tổng hợp, phân loại thông tin kinh tế
để ghi sổ tổng hợp và sổ chi tiết. Do đặc điểm của hoạt động nhập khẩu là thực
hiện theo từng hợp đồng nên công ty quản lý chứng từ, hoá đơn theo từng hợp
đồng , từng khoản mục, từng khách hàng, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tìm
kiếm, kiểm tra khi cần thiết.
Quy trình luân chuyển chứng từ cũng được thực hiện theo đúng quy định
của chế độ hiện hành trong nước cũng như phù hợp với thông lệ quốc tế. Bên
cạnh việc tổ chức, kiểm tra chứng từ thường xuyên, kế toán không ngừng hợp
lý hoá các thủ tục lập và xử lý chứng từ như: Giảm các thủ tục xét duyệt, ký
chứng từ đến mức tối đa, đồng thời thực hiện chương trình luân chuyển chứng
từ theo đúng quy định và phù hợp với yêu cầu của nghiệp vụ kinh doanh.
Thứ tư: Về hệ thống tài khoản sử dụng: Hệ thống tài khoản của công ty
đang sử dụng về cơ bản được dựa trên hệ thống tài khoản chung do Bộ Tài
Chính ban hành theo quyết định . Để phù hợp với tình hình và đặc điểm kinh
doanh của công ty, kế toán mở ra các tài khoản cấp hai, cấp ba nhằm phản ánh
cụ thể hơn tình hình biến động của các loại tài sản của đơn vị và giúp cho kế
toán thuận tiện trong việc ghi chép đơn giản, rõ ràng và mang tính thuyết phục
hơn, giảm nhẹ được phần nào công việc kế toán góp phần tăng năng suất lao
động của nhân viên kế toán. Việc trang bị máy vi tính cho công tác kế toán nên
công nợ quản lý ngoại tệ và công nợ của từng khách hàng, từng nhà cung cấp
rất đơn giản và thuận tiện, có thể cung cấp thông tin một cách nhanh chóng khi
cần thiết, nâng cao hiệu quả công tác kế toán.
Thứ năm : Về phương pháp hạch toán tổng hợp hàng tồn kho: công ty áp
dụng phương pháp kê khai thường xuyên để tiến hành hạch toán hàng tồn kho.

Phương pháp này đảm bảo việc kiểm tra, thông tin thường xuyên một cách
chính xác về sự biến động của tài sản, hàng hoá của công ty tạo điều kiện tốt
cho công tác quản lý cả về mặt hiện vật lẫn giá trị. Để xác định giá vốn hàng
bán Công ty áp dụng phương pháp tính giá bình quân gia quyền, điều này rất
phù hợp với đặc thù sản xuất kinh doanh của công ty.
Thứ sáu : Công tác quản lý và tổ chức hoạt động nhập khẩu tại công ty
tương đối chặt chẽ, một hợp đồng nhập khẩu được phòng kế hoạch cung ứng
thực hiện, chuyển kế toán kiểm tra, xem xét tình hình tài chính, sau đó trình
Tổng giám đốc xét duyệt.
Cuối cùng đội ngũ cán bộ và nhân viên kế toán trong công ty có trình độ
nghiệp vụ, nắm vững và am hiểu các kỹ thuật nghiệp vụ trong kinh doanh xuất
nhập khẩu, các chế độ tài chính và thanh toán, có trình độ ngoại ngữ và sử dụng
thành thạo phần mềm kế toán. Đặc biệt, các cán bộ kế toán là những người
nhiệt tình và có trách nhiệm trong công việc.
1.2. Những tồn tại cần khắc phục.
Thứ nhất: Trong chế độ kế toán mới, theo quy định của Bộ Tài Chính
trong nghiệp vụ nhập khẩu trực tiếp thì những khoản chi phí liên quan đến việc
thu mua hàng hoá, trừ tiền hàng và thuế nhập khẩu, phát sinh thì phải hạch toán
vào tài khoản 1562 - "Chi phí thu mua hàng hoá", đến cuối kỳ tiến hành phân
bổ cho hàng hoá bán ra.
Trên thực tế, những khoản chi phí liên quan đến việc thu mua hàng nhập
khẩu lại được phản ánh vào tài khoản 642 chứ không được phản ánh vào tài
khoản 1562.
Ví dụ chi phí giao dịch qua ngân hàng trong quá trình nhập hàng như: phí
mở L/C, phí sửa L/C, điện phí, phí chuyển tiền, phí telex,.... được phản ánh vào
tài khoản 642. Cuối kỳ các chi phí này được kết chuyển toàn bộ để xác định kết
quả kinh doanh, chứ không phân biệt chi phí cho hàng đã tiêu thụ hay hàng tồn
kho. Do hạch toán chi phí như vậy nên khó có thể xác định được chính xác trị
giá vốn hàng hoá tiêu thụ, dẫn đến kết quả kinh doanh từng mặt hàng không
chính xác. Đồng thời sẽ gặp khó khăn trong việc tìm ra biện pháp giảm thiểu

các khoản chi phí cụ thể phát sinh trong quá trình mua hàng.
Thứ hai : Phần sổ kế toán có phát sinh ngoại tệ như : Sổ chi tiết tài khoản
112, 144, 311, 331... công ty sử dụng tỷ giá thực tế tại thời điểm phát sinh
nghiệp vụ để hạch toán, tuy nhiên trên sổ chỉ thể hiện số phát sinh theo tiền
VNĐ nên khó theo dõi được lượng ngoại tệ cụ thể một cách nhanh chóng mà
thường phải nhìn vào nội dung ghi trên phần hạch toán để tính chênh lệch tỷ
giá. Đồng thời trên cả hai sổ không có cột tỷ giá. Do vậy khi phát sinh các
nghiệp vụ có liên quan đến ngoại tệ ta lại phải tính tỷ giá lại. Đồng thời công ty
không mở tài khoản 007 để theo dõi sự tăng giảm của ngoại tệ, dẫn tới khó
khăn trong việc theo dõi số ngoại tệ phát sinh.
Thứ ba : Phòng Kế hoạch cung ứng và phòng Kế toán chưa kết hợp chặt
chẽ với nhau trong việc ký kết hợp đồng mua bán nguyên vật liệu. Các hợp
đồng mua bán lúa mỳ giá trị rất lớn, tuy nhiên phòng Kế hoạch cung ứng
thường chỉ căn cứ vào lượng hàng tồn và kế hoạch sản xuất để ký kết hợp đồng,
không kết hợp với phòng kế toán về vấn đề tài chính. Thường ký kết hợp đồng,
sau đó chuyển sang phòng kế toán để thực hiện, không làm theo quy trình mua
bán của công ty, gây khó khăn về quản lý tài chính.
Thứ tư: Với quy mô công ty lớn, nhân viên phòng kế toán ít nên khối
lượng công việc nhiều nên khó kiểm soát được chi phí. Phòng kế toán thực hiện
quá nhiều công đoạn không cần thiết như : viết phiếu nhập, xuất, hoá đơn, mở
L/C, theo dõi, thanh toán L/C.
Thứ năm:Các nhân viên trong phòng có chuyên ngành kế toán, không
được đào tạo về nghiệp vụ xuất nhập khẩu nên chưa được thành thạo, ít kinh
nghiệm trong quá trình thanh toán quốc tế. Đôi khi dẫn đến nhiều sai sót trong
quá trình thanh toán. Ví dụ như : Khi ngân hàng thông báo bộ chứng từ về
nhưng có sai sót về chất lượng hàng hoá so với L/C. Nhân viên thực hiện do
không có kinh nghiệm đã trình Tổng giám đốc duyệt chấp nhận thanh toán.
Điều này gây thiệt hại rất lớn cho công ty. Nếu bộ chứng từ sai sót như vậy,
công ty có thể đàm phán yêu cầu giảm giá hoặc không nhận lô hàng trên. Tuy
nhiên khi đã chấp nhận thanh toán thì công ty không thể đòi giảm giá lô hàng

trên mà bắt buộc phải chấp nhận lô hàng có chất lượng xấu, gây ảnh hưởng đến
sản xuất sản phẩm.
2. Sự cần thiết và yêu cầu của việc hoàn thiện kế toán nghiệp vụ nhập khẩu
hàng hoá tại Công ty TNHH Tiến Hưng.
Trong quá trình hội nhập của nền kinh tế nước ta vào nền kinh tế Thế
Giới cũng như bối cảnh chung tình hình kinh tế quốc tế, hiện nay hoạt động
xuất nhập khẩu ngày càng trở nên đa dạng, phức tạp và mang tính cạnh tranh rất
cao. Trong tình hình như vậy, các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu phải
thường xuyên đối mặt với sự thay đổi của chính sách quản lý của Nhà nước, sự
biến động không ngừng của môi trường kinh doanh quốc tế. Chính vì vậy muốn
đạt hiệu quả cao trong kinh doanh đòi hỏi các doanh nghiệp phải không ngừng
hoàn thiện công tác tổ chức quản lý ở đơn vị mình. Để đạt được mục tiêu đó,
công tác kế toán tài chính phải không ngừng được hoàn thiện và nâng cao.
Hoàn thiện công tác kế toán trước hết đó là việc nâng cao trình độ chuyên môn,
đổi mới trang thiết bị phục vụ công tác kế toán, hoàn thiện phương pháp kế toán

×