Tải bản đầy đủ (.pdf) (72 trang)

Bảo vệ môi trường trong nhập khẩu phế liệu theo pháp luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (834.69 KB, 72 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT
----o0o----

TRẦN THỊ HÀN NI

BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG TRONG NHẬP KHẨU PHẾ LIỆU
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2019


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT
----o0o----

TRẦN THỊ HÀN NI

BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG TRONG NHẬP KHẨU PHẾ LIỆU
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM

Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60.38.01.07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. PHẠM VĂN VÕ

TP. HỒ CHÍ MINH –NĂM 2019




LỜI CAM ĐOAN
Tôi tên là Trần Thị Hàn Ni – Học viên cao học Luật kinh tế khóa 16, Trường
Đại học Kinh tế - Luật, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. Tơi xin cam
đoan luận văn này là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi dưới sự hướng dẫn khoa
học của Tiến sĩ Phạm Văn Võ. Các trích dẫn trong luận văn là trung thực và có
nguồn gốc rõ ràng.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

TRẦN THỊ HÀN NI


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
MỞ ĐẦU ................................................................................................................. 1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG TRONG NHẬP
KHẨU PHẾ LIỆU .................................................................................................. 8
1.1. Khái niệm phế liệu và nhập khẩu phế liệu.................................................... 8
1.1.1. Khái niệm phế liệu.......................................................................................... 8
1.1.2. Khái niệm nhập khẩu phế liệu ...................................................................... 11
1.2. Tác động của nhập khẩu phế liệu ................................................................ 12
1.2.1. Tác động tích cực ......................................................................................... 12
1.2.2. Tác động tiêu cực ......................................................................................... 15
1.3. Khái niệm về bảo vệ môi trường trong nhập khẩu phế liệu ..................... 17
1.4. Pháp luật về bảo vệ môi trường trong nhập khẩu phế liệu ....................... 18
1.4.1. Điều kiện đối với phế liệu nhập khẩu .......................................................... 18
1.4.2. Điều kiện đối với chủ thể nhập khẩu phế liệu .............................................. 22
1.4.3. Thủ tục nhập khẩu phế liệu .......................................................................... 24
1.4.4. Thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm ............................................................... 29

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
TRONG NHẬP KHẨU PHẾ LIỆU VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN ............ 35
2.1. Điều kiện đối với phế liệu nhập khẩu ............................................................. 35
2.2. Điều kiện đối với chủ thể nhập khẩu phế liệu ................................................. 43
2.3. Thủ tục nhập khẩu phế liệu ............................................................................. 45
2.4. Thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm .................................................................. 55
KẾT LUẬN ........................................................................................................... 61
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Xuất phát từ thực tiễn có những mặt hàng, những ngun vật liệu cịn thiếu
mà trong nước chưa sản xuất được hoặc sản xuất không đủ để đáp ứng nhu cầu,
những năm qua Nhà nước ta đã chủ trương cho phép các chủ thể kinh doanh nhập
khẩu phế liệu vào Việt Nam để làm nguyên liệu sản xuất. Từ chủ trương phát triển
kinh tế đó, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật để điều
chỉnh chặt chẽ hoạt động nhập khẩu phế liệu làm nguyên liệu sản xuất, như Luật
Bảo vệ môi trường năm 2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành quy định chỉ được
phép nhập khẩu phế liệu thuộc Danh mục phế liệu được phép nhập khẩu do Thủ
tướng Chính phủ ban hành làm nguyên liệu sản xuất mà không được mua bán, kinh
doanh phế liệu nhập khẩu, đồng thời các chủ thể kinh doanh cũng phải ký quỹ bảo
đảm đối với phế liệu nhập khẩu; Quyết định số 73/2014/QĐ-TTg về danh mục phế
liệu được phép nhập khẩu từ nước ngoài làm nguyên liệu sản xuất do Thủ tướng
Chính phủ ban hành ngày 19/12/2014 (Viết tắt là Quyết định số 73/2014/QĐ-TTg)
quy định Danh mục phế liệu được phép nhập khẩu từ nước ngoài làm nguyên liệu
sản xuất bao gồm 36 loại phế liệu được phép nhập khẩu, chia thành các nhóm như:
thạch cao, sắt, thép, nhựa, giấy, thủy tinh, tơ tằm,….

Qua thực tiễn những năm gần đây cho thấy các văn bản quy phạm pháp luật
điều chỉnh nhập khẩu phế liệu vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế như quy định chưa rõ
ràng, chồng chéo, mâu thuẫn, còn nhiều loại phế liệu được phép nhập khẩu nhưng
vẫn chưa có những Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về mơi trường...Do đó, một số chủ
thể kinh doanh đã lợi dụng kẽ hở của pháp luật, dùng những thủ đoạn tinh vi nhằm
lợi dụng nhập khẩu phế liệu để nhập khẩu rác thải vào Việt Nam gây tác động
không nhỏ đến môi trường và sức khỏe người dân.
Đồng thời hiện nay tình hình thế giới đang có sự chuyển biến lớn, khi trong
nhiều thập kỷ, Trung Quốc được xem là trung tâm tái chế rác thải của thế giới
nhưng từ cuối năm 2017 Chính phủ Trung Quốc đã cấm nhập khẩu 24 loại rác thải


2

rắn và tiếp tục bổ sung thêm 8 chủng loại phế liệu vào danh sách cấm nhập khẩu từ
ngày 01/01/2019; chưa kể Malaysia - nước đứng đầu danh sách nhập khẩu phế liệu
nhựa trên thế giới, từ năm 2019 cũng gần như cắt giảm hầu hết danh mục phế liệu
được phép nhập khẩu vào quốc gia này nhằm bảo vệ mơi trường trong nước. Do đó,
các nước trước đây vẫn xuất khẩu chất thải rắn, phế liệu sang Trung Quốc, Malaysia
như Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Canada và các nước Bắc Âu phải tìm đối tác khác,
thị trường khác như Việt Nam, Thái Lan1. Chính vì vậy mà từ cuối năm 2017 đến
nay, khối lượng nhập khẩu phế liệu vào Việt Nam tăng mạnh và có nhiều diễn biến
phức tạp, chỉ riêng 6 tháng đầu năm 2018, Việt Nam đã nhập khẩu 274,7 nghìn tấn
phế liệu nhựa, tăng gấp đơi so với cả năm 2017, 2 sắt thép phế liệu là 2,7 triệu tấn,
tăng 50,7% so với cả năm 20173, …theo đó tình trạng ứ đọng phế liệu nhập khẩu
ngày cũng gia tăng tại các cảng biển. Tính đến ngày 01/08/2018, tại khu vực cảng
Cát Lát đã tăng lên tới 4.500 container phế liệu giấy và nhựa, chiếm gần 20% sức
chứa tại cảng này. Cảng Hải Phịng có 1.000 container phế liệu tồn đọng (quá hạn
làm thủ tục 90 ngày), trong đó, có đến 956 container là phế liệu nhựa, sắt phế liệu
33 container, phế liệu giấy 8 container, nhôm phế liệu 3 container 4,… tiềm ẩn nguy

cơ ô nhiễm môi trường tại khu vực cảng biển.
Trước khi Việt Nam trở thành bãi rác công nghiệp của các nước phát triển,
việc nghiên cứu thực trạng pháp luật về bảo vệ mơi trường trong nhập khẩu phế liệu
để từ đó đề xuất những kiến nghị hoàn thiện pháp luật trong thời gian tới là hết sức

1

Chí Tuệ (2018) , ‘Trung Quốc cấm nhập, phế liệu ầm ầm vào Việt Nam’, Cổng thông tin tiện tử Tổng Cục
Môi Trường – Bộ Tài nguyên và Môi trường, truy cập lần cuối ngày 02 tháng 10 năm 2018, từ //vea.gov.vn/vn/quanlymt/Quanlychatthai-caithien/qlchatthai/Pages/Trung-Qu%E1%BB%91c-c%E1%BA%
A5m-nh%E1%BA%ADp,-ph%E1%BA%BF-li%E1%BB%87u-%E1%BA%A7m-%E1%BA%A7m-v%C3%
A0o-Vi%E1%BB%87t-Nam.aspx>.
2
KH (2018), ‘Các cảng Việt Nam căng mình “hứng” hơn 4 triệu tấn phế liệu nhập khẩu trong 6 tháng’, Báo
Lao động, truy cập lần cuối ngày 02 tháng 10 năm 2018, từ < phe-lieu-nhap-khau-trong-6-thang-622642.ldo>.
3
Thế Hoàng (2018), ‘8 tháng, Việt Nam chi 1,22 tỷ USD nhập khẩu phế liệu sắt thép’, Báo Đầu tư, truy cập
lần cuối ngày 02 tháng 10 năm 2018, từ < />4
An Nhiên (2018), ‘Nhân rộng việc phát hiện 3 container phế liệu, tình trạng ứ đọng tại các cảng biển sẽ
khác’, Báo Mới, truy cập lần cuối ngày 02 tháng 10 năm 2018, từ < />

3

cấp bách. Do đó, tác giả đã chọn đề tài “Bảo vệ môi trường trong nhập khẩu phế
liệu theo pháp luật Việt Nam” làm luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Hiện nay, ở Việt Nam liên quan đến pháp luật về bảo vệ môi trường trong
nhập khẩu phế liệu đã có nhiều cơng trình nghiên cứu như:
- Luận án Tiến sĩ “Pháp luật môi trường về hoạt động nhập khẩu phế liệu ở
Việt Nam” của tác giả Nguyễn Văn Phương – Trường Đại học Luật Hà Nội năm

2007. Cơng trình nghiên cứu đã phát hiện một số bất cập về điều kiện về chủ thể
nhập khẩu phế liệu, điều kiện về loại phế liệu được phép nhập khẩu, các thủ tục cần
phải thực hiện khi nhập khẩu phế liệu, kiểm tra và xử lý hành vi vi phạm pháp luật
trong hoạt động nhập khẩu phế liệu, từ đó tác giả đã đưa ra các giải pháp chi tiết, cụ
thể hoàn thiện các quy định trong Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 cũng như các
văn bản hướng dẫn thi hành về hoạt động nhập khẩu phế liệu.
- Luận văn Thạc sĩ “Pháp luật về nhập khẩu phế liệu” của tác giả Lê Thị
Thủy, Trường Đại học Luật Hồ Chí minh năm 2011. Cơng trình nghiên cứu đã làm
rõ thực trạng pháp luật điều chỉnh hoạt động nhập khẩu phế liệu như điều kiện được
nhập khẩu phế liệu (điều kiện về chủ thể nhập khẩu phế liệu, điều kiện về phế liệu
nhập khẩu), kiểm soát hoạt động nhập khẩu phế liệu (trước khi nhập khẩu, trong
quá trình nhập khẩu và sau khi nhập khẩu), xử lý hành vi vi phạm pháp luật trong
hoạt động nhập khẩu phế liệu (xử lý vi phạm hành chính, truy cứu trách nhiệm hình
sự) để rút ra những hạn chế cịn tồn tại trong Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 và
các văn bản hướng dẫn thi hành về hoạt động nhập khẩu phế liệu. Tác giả cũng đã
đưa ra các giải pháp cụ thể hồn thiện Luật Bảo vệ mơi trường năm 2005 và các văn
bản hướng dẫn thi hành về hoạt động nhập khẩu phế liệu.
Ngồi ra cịn có một số bài viết đăng trên các tạp chí chuyên ngành như
“Việt Nam với việc thực thi Công ước Basel về kiểm soát chất thải xuyên biên giới
và việc tiêu huỷ chúng” của TS Nguyễn Văn Phương đăng trên Tạp chí khoa học
pháp lý số 2/2006, trang 33, “Khái niệm phế liệu và bản chất pháp lý của phế liệu”


4

của TS Nguyễn Văn Phương đăng trên Tạp chí khoa học pháp lý số 1/2007, trang
38,…
Các cơng trình nghiên cứu trên đã góp phần tạo cơ sở lý luận và thực tiễn
cho việc hoàn thiện pháp luật về bảo vệ môi trường trong nhập khẩu phế liệu. Tuy
nhiên, những công trình nghiên cứu này được thực hiện trước khi Luật Bảo vệ môi

trường năm 2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Bảo vệ môi trường năm
2014 được ban hành. Trong khi các quy định mới chỉ cho nhập khẩu phế liệu làm
nguyên liệu sản xuất, không cho phép mua bán phế liệu nhập khẩu; mở rộng từ 20
mặt hàng lên 36 mặt hàng phế liệu được phép nhập khẩu; giảm chỉ còn 02 đối tượng
được phép nhập khẩu phế liệu là tổ chức, cá nhân trực tiếp sử dụng phế liệu nhập
khẩu làm nguyên liệu sản xuất và tổ chức, cá nhân được tổ chức, cá nhân trực tiếp
sử dụng phế liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất ủy thác nhập khẩu; tổ chức, cá
nhân nhập khẩu phế liệu phải ký quỹ bảo đảm phế liệu nhập khẩu theo quy định của
Chính phủ; nhiều Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường đối với phế liệu nhập
khẩu làm nguyên liệu sản xuất đã được ban hành,….nhưng vẫn còn nhiều bất cập
chưa phù hợp với thực tiễn tại Việt Nam và tình hình thế giới có nhiều chuyển biến
lớn khi Trung Quốc đã cấm nhập khẩu 32 loại phế liệu và Malaysia đã cắt giảm hầu
hết danh mục phế liệu được phép nhập khẩu vào quốc gia này. Vì vậy, việc nghiên
cứu thực trạng pháp luật, rút ra được những hạn chế của pháp luật hiện hành về
nhập khẩu phế liệu, qua đó kiến nghị các giải pháp hồn thiện vẫn cịn cần thiết.
Thơng qua đề tài này, tác giả mong muốn góp phần làm rõ hơn thực trạng
các quy định của pháp luật hiện hành về nhập khẩu phế liệu, phát hiện những hạn
chế còn tồn tại cần được sửa đổi, bổ sung trong các quy định của pháp luật điều
chỉnh hoạt động nhập khẩu phế liệu, từ đó đưa ra các giải pháp chi tiết, cụ thể hoàn
thiện các quy định trong Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 cũng như các văn bản
hướng dẫn thi hành trong thời gian tới trước khi chúng ta khiến Việt Nam trở thành
bãi rác thải của các nước phát triển và chịu những tác hại nguy hiểm từ ô nhiễm môi
trường.


5

3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Mục đích nghiên cứu của tác giả là làm rõ thực trạng của pháp luật về nhập
khẩu phế liệu, rút ra được những hạn chế của pháp luật hiện hành về nhập khẩu phế

liệu, qua đó kiến nghị các giải pháp hồn thiện pháp luật bảo vệ môi trường trong
nhập khẩu phế liệu trong thời gian tới.
Để đạt được mục đích trên, đề tài có những nhiệm vụ sau đây:
- Nghiên cứu khái niệm phế liệu, phân biệt phế liệu và chất thải, phân tích
sự cần thiết phải nhập khẩu phế liệu làm nguyên liệu sản xuất và tác động của nhập
khẩu phế liệu đối với Việt Nam.
- Nêu, phân tích, bình luận và đánh giá thực trạng pháp luật về bảo vệ mơi
trường trong nhập khẩu phế liệu. Từ đó rút ra được những hạn chế của pháp luật
hiện hành về nhập khẩu phế liệu.
- Trên cơ sở những hạn chế còn tồn tại, đề xuất các giải pháp hoàn thiện
pháp luật về bảo vệ môi trường trong nhập khẩu phế liệu.
4. Câu hỏi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu nhằm trả lời cho các câu hỏi:
- Nhập khẩu phế liệu có tác động như thế nào đến phát triển kinh tế và bảo
vệ môi trường?
- Pháp luật về bảo vệ môi trường quy định như thế nào về nhập khẩu phế
liệu? còn những vướng mắc, hạn chế nào?
- Pháp luật về bảo vệ môi trường trong nhập khẩu phế liệu cần phải sửa đổi,
bổ sung như thế nào để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường?
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật Việt Nam như
- Quy định của pháp luật về khái niệm phế liệu, nhập khẩu phế liệu;


6

- Các quan điểm khoa học về nhập khẩu phế liệu;
- Quy định của pháp luật về điều kiện nhập khẩu phế liệu;
- Quy định của pháp luật về kiểm soát hoạt động nhập khẩu phế liệu;

- Quy định các chế tài hành chính cũng như hình sự đối với hoạt động nhập
khẩu phế liệu;
- Thực tiễn áp dụng pháp luật về nhập khẩu phế liệu.
5.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nội dung: hoạt động nhập khẩu phế liệu tương đối rộng cho nên
trong luận văn tác giả chỉ đi sâu và nghiên cứu pháp luật về bảo vệ môi trường trong
nhập khẩu phế liệu làm nguyên liệu sản xuất tại Việt Nam như điều kiện nhập khẩu
phế liệu, kiểm soát hoạt động nhập khẩu phế liệu cũng như là các chế tài khi có
hành vi vi phạm hoạt động nhập khẩu phế liệu, không đi sâu vào nghiên cứu các
hoạt động tạm nhập tái xuất, chuyển khẩu hoặc quá cảnh phế liệu nhập khẩu.
- Phạm vi không gian: Tác giả chỉ tập trung nghiên cứu thực trạng tại các
địa phương có cơ sở nhập khẩu phế liệu lớn như: TP. Hồ Chí Minh, Hải Dương, Hải
Phịng, Bắc Ninh, Bà Rịa - Vũng Tàu.
- Phạm vi thời gian: Đề tài tập trung nghiên cứu thực trạng pháp luật về bảo
vệ môi trường trong nhập khẩu phế liệu trong khoảng thời gian từ năm 2014 đến
2018. Trên cơ sở phạm vi nghiên cứu, tác giả sẽ đề xuất các giải pháp hồn thiện
pháp luật về bảo vệ mơi trường đối với nhập khẩu phế liệu trong thời gian tới.
6. Phương pháp nghiên cứu
Tác giả đã vận dụng linh hoạt nhiều phương pháp nghiên cứu, trong đó tác
giả chủ yếu sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp tổng hợp: tác giả đã tập hợp lại các các văn bản pháp luật
cũng như các tài liệu, số liệu nghiên cứu để có cái nhìn tổng qt và nhận thức đúng


7

đắn, đầy đủ các quy định của pháp luật môi trường hiện hành cũng như thực trạng
về nhập khẩu phế liệu tại Việt Nam.
- Phương pháp phân tích, đánh giá: trên cơ sở các văn bản pháp luật và các
tài liệu, số liệu có được, tác giả phân chia đề tài thành từng vấn đề nhỏ để phân tích,

sau đó đánh giá ưu điểm, hạn chế của từng vấn đề đó.
- Phương pháp so sánh: căn cứ vào quy định trong các văn bản pháp luật
hiện hành liên quan đến nhập khẩu phế liệu, tác giả tiến hành so sánh giữa các quy
định trong cùng một văn bản pháp luật hoặc nhiều văn bản pháp luật hoặc văn bản
pháp luật từ các Cơ quan quản lý khác nhau về nhập khẩu phế liệu để xem xét các
quy định hiện hành có thống nhất hay mâu thuẫn nhau hay khơng, từ đó đề xuất
những giải pháp hồn thiện pháp luật trong nhập khẩu phế liệu.
Ngoài những phương pháp trên, đề tài còn sử dụng một số phương pháp khác
như: phương pháp thống kê, bình luận,... để nghiên cứu làm rõ thực trạng các quy
định của pháp luật hiện hành về hoạt động nhập khẩu phế liệu cũng như những bất
cập, hạn chế còn tồn tại cần được sửa đổi, bổ sung.
7. Ý nghĩa khoa học và giá trị thực tiễn của đề tài
Nội dung và kết quả nghiên cứu của Luận văn đã làm rõ thực trạng các quy định
của pháp luật hiện hành về nhập khẩu phế liệu, chỉ ra những hạn chế còn tồn tại và đã
đưa ra các giải pháp cụ thể nhằm giúp các Cơ quan có thẩm quyền hoàn thiện pháp luật
hiện hành điều chỉnh về nhập khẩu phế liệu phù hợp với thực tiễn và hợp lý hơn.
Ngoài ra, Luận văn là tài liệu tham khảo bổ ích cho những người quan tâm
tìm hiểu về hoạt động nhập khẩu phế liệu.
8. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, nội dung luận văn gồm 02 chương như sau:
Chương 1: Tổng quan về bảo vệ môi trường trong nhập khẩu phế liệu.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về bảo vệ môi trường trong nhập khẩu phế
liệu và giải pháp hoàn thiện.


8

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
TRONG NHẬP KHẨU PHẾ LIỆU

1.1. Khái niệm phế liệu và nhập khẩu phế liệu

1.1.1. Khái niệm phế liệu
Phế liệu theo định nghĩa thông thường “là vật (nguyên liệu, sản phẩm) bỏ đi
sau khi đã qua chế biến hay đã sử dụng” 5, nghĩa là tất cả những vật chất bị loại ra
trong quá trình sản xuất hoặc sau quá trình sử dụng đều trở thành phế liệu. Theo
định nghĩa này thì phế liệu có đặc điểm giống với chất thải vì chất thải được định
nghĩa là “rác và các vật bỏ đi sau một q trình sử dụng” 6. Do đó, theo cách hiểu
thông thường phế liệu là một dạng chất thải.
Trong lĩnh vực khoa học pháp lý, cụm từ “phế liệu” xuất hiện lần đầu tiên tại
khoản 2 Điều 28 Nghị định 175/CP ngày 18/10/1994 hướng dẫn thi hành Luật Bảo
vệ môi trường năm 1993 “Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường hướng dẫn các
ngành, các địa phương lập danh mục các nguyên liệu thứ phẩm, các phế liệu bảo
đảm tiêu chuẩn vệ sinh môi trường được phép nhập từ nước ngồi vào làm ngun
liệu sản xuất để trình Thủ tướng Chính phủ quyết định”, nhưng thời điểm này
khơng có bất kỳ văn bản pháp luật nào định nghĩa thế nào là phế liệu. Ngày
11/12/2001, Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường ban hành Quyết định số
65/2001/QĐ-BKHCNMT về việc ban hành Danh mục các loại phế liệu đã được
phép xử lý đảm bảo yêu cầu về môi trường được phép nhập khẩu để làm ngun
liệu sản xuất, cũng khơng có định nghĩa về phế liệu mà chỉ đưa ra danh mục các loại
phế liệu đã được xử lý đảm bảo yêu cầu về môi trường được phép nhập khẩu để làm
nguyên liệu sản xuất.
Khái niệm phế liệu mới bắt đầu có định nghĩa vào năm 2004, cụ thể tại
Khoản 1 Điều 3 Quy định về bảo vệ môi trường đối với phế liệu nhập khẩu làm
5
6

Hoàng Phê (biên soạn, 2018), Từ điển Tiếng Việt, Nhà xuất bản Hồng Đức, Thành phố Hồ Chí Minh
Hồng Phê (biên soạn, 2018), Từ điển Tiếng Việt, Nhà xuất bản Hồng Đức, Thành phố Hồ Chí Minh



9

nguyên liệu sản xuất ban hành kèm theo Quyết định số 03/2004/QĐ-BTNMT do Bộ
Tài nguyên và Môi trường ban hành ngày 02/04/2004 “Phế liệu là sản phẩm, vật
liệu được loại ra trong sản xuất hoặc tiêu dùng nhưng đáp ứng yêu cầu làm nguyên
liệu sản xuất”. Khi Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 ra đời, khái niệm về phế liệu
tiếp tục được đề cập tại Khoản 3 Điều 13 “Phế liệu là sản phẩm, vật liệu bị loại ra
từ quá trình sản xuất hoặc tiêu dùng được thu hồi để dùng làm nguyên liệu sản
xuất”. Tuy có sự khác nhau về một số từ ngữ nhưng về cơ bản định nghĩa phế liệu
trong hai văn bản quy phạm pháp luật nêu trên có nội hàm giống nhau.
Định nghĩa về phế liệu chỉ có sự thay đổi khi Luật Bảo vệ môi trường năm
2014 ra đời thay thế Luật Bảo vệ mơi trường năm 2005, theo đó tại khoản 16 Điều 3
quy định “Phế liệu là vật liệu được thu hồi, phân loại, lựa chọn từ những vật liệu,
sản phẩm đã bị loại bỏ từ quá trình sản xuất hoặc tiêu dùng để sử dụng làm nguyên
liệu cho một quá trình sản xuất khác”.
Theo định nghĩa được nêu trong Luật Bảo vệ môi trường năm 2014, phế liệu
là những vật liệu đáp ứng các tiêu chí sau:
Thứ nhất, có nguồn gốc từ vật liệu hoặc sản phẩm. Vật liệu được hiểu là nói
chung những vật chất để làm việc gì theo mục đích của con người. Sản phẩm là
những gì do lao động của con người tạo ra 7, các sản phẩm mà con người tạo ra có
thể tồn tại dưới dạng vật chất hoặc phi vật chất, nhưng chỉ có những sản phẩm tồn
tại dưới dạng vật chất mới được xem xét là phế liệu.
Thứ hai, là những vật liệu, sản phẩm đã bị loại bỏ từ quá trình sản xuất hoặc
tiêu dùng. Việc loại bỏ các vật liệu, sản phẩm trong quá trình sản xuất được hiểu là
hành vi của chủ thể bất kỳ chủ động loại bỏ sản phẩm hoặc vật liệu đó do khơng cịn
cơng dụng trong quá trình sản xuất. Những vật liệu, sản phẩm được xác định là bị
loại bỏ trong quá trình tiêu dùng khi chủ thể bất kỳ không tiếp tục khai thác giá trị,
cơng dụng của vật liệu, sản phẩm đó nữa.


7

Hoàng Phê (biên soạn, 2018), Từ điển Tiếng Việt, Nhà xuất bản Hồng Đức, Thành phố Hồ Chí Minh


10

Thứ ba, những vật liệu, sản phẩm đã bị loại bỏ nói trên có thể được sử dụng
làm nguyên liệu cho một quá trình sản xuất khác, được hiểu là mặc dù trong quá
trình sản xuất hoặc tiêu dùng trước những vật liệu, sản phẩm này đã bị loại bỏ do
khơng cịn cơng dụng hoặc do khơng được các chủ thể tiếp tục khai thác giá trị,
công dụng nhưng ta cịn có thể khai thác cơng dụng của những vật liệu, sản phẩm bị
loại bỏ này để sản xuất ra những sản phẩm khác. Đây là tiêu chí cơ bản và quan
trọng nhất để phân biệt giữa phế liệu và chất thải.8
Theo Khoản 12 Điều 3 Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 thì chất thải được
định nghĩa là vật chất được thải ra từ sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, sinh hoạt hoặc
hoạt động khác.
Từ định nghĩa về phế liệu và chất thải nêu trên cho thấy phế liệu có nhiều
đặc điểm giống chất thải nhưng giữa chúng vẫn có sự khác biệt9.
Thứ nhất, những yếu tố trở thành chất thải và phế liệu đều là những vật chất
hữu hình nhưng những yếu tố trở thành chất thải rộng hơn phế liệu. Tất cả các vật
chất được thải ra đều có thể trở thành chất thải, nhưng chỉ có những vật liệu, sản
phẩm bị thải ra được phân loại, lựa chọn mới có thể trở thành phế liệu.
Thứ hai, những vật chất trở thành chất thải và phế liệu đều là những vật chất
bị loại bỏ trong quá trình sản xuất, tiêu dùng,….nhưng ý chí loại bỏ của chủ sở hữu
vật chất để trở thành chất thải và phế liệu khác nhau. Đối với chất thải, việc từ bỏ
giá trị công dụng của chủ sở hữu vật chất bao gồm cả trường hợp chủ động và bị
động (ví dụ buộc phải từ bỏ do vật hết giá trị sử dụng), còn với trường hợp trở thành
phế liệu, việc từ bỏ giá trị, công dụng của chủ sở hữu vật chất chỉ mang tính chủ
động.

Thứ ba, chất thải và phế liệu khác nhau về mục đích sau khi bị thải ra. Đối
với chất thải thì pháp luật về mơi trường hiện hành khơng đề cập tới mục đích sau
8

Nguyễn Văn Phương (2007), ‘Khái niệm phế liệu và bản chất pháp lý của phế liệu’, Tạp chí Khoa học pháp
lý, 01, 38;
9
Nguyễn Văn Phương (2007), ‘Khái niệm phế liệu và bản chất pháp lý của phế liệu’, Tạp chí Khoa học pháp
lý, 01, 39;


11

khi vật chất bị thải ra mà quy định phải có biện pháp xử lý, tiêu hủy phù hợp với
từng loại chất thải. Đối với phế liệu thì sau khi vật liệu, sản phẩm bị thải ra có thể
được thu hồi và tái sử dụng làm nguyên liệu cho quá trình sản xuất khác.
Qua những phân tích trên cho thấy phế liệu là một dạng của chất thải. Luật
Bảo vệ môi trường năm 2014 cấm nhập khẩu chất thải dưới mọi hình thức nhưng lại
cho phép nhập khẩu phế liệu nếu đảm bảo điều kiện về môi trường để làm ngun
liệu phục vụ cho q trình sản xuất, do đó việc phân định giữa phế liệu và chất thải
là rất quan trọng. Tuy nhiên, trên thực tế có khơng ít trường hợp không thể xác định
được vật chất bị loại bỏ ra đó là phế liệu hay chất thải dẫn đến những khó khăn và
bất cập trong cơng tác quản lý hoạt động nhập khẩu phế liệu.

1.1.2. Khái niệm nhập khẩu phế liệu
Theo giải thích từ ngữ tại khoản 2 Điều 3 Luật Thương mại năm 2005 thì
hàng hóa là tất cả các loại động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai hoặc
những vật gắn liền với đất đai. Do đó, phế liệu được xem là một loại hàng hóa và
nhập khẩu phế liệu chính là nhập khẩu hàng hóa.
Xét về góc độ ngữ nghĩa, nhập khẩu hàng hóa được hiểu là hoạt động đưa

hàng hóa từ nước ngồi qua cửa khẩu vào nước mình. Trong khoa học pháp lý, nhập
khẩu hàng hóa được định nghĩa là việc hàng hoá được đưa vào lãnh thổ Việt Nam từ
nước ngoài hoặc từ khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu
vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật.10
Khu vực hải quan riêng là khu vực địa lý xác định trên lãnh thổ Việt Nam
được thành lập theo quy định của pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên; có quan hệ mua bán, trao đổi
hàng hóa với phần lãnh thổ cịn lại và nước ngồi là quan hệ xuất khẩu, nhập
khẩu.11

10
11

Khoản 2 Điều 28 Luật Thương mại năm 2005
Khoản 4 Điều 3 Luật Quản lý ngoại thương năm 2017


12

Như vậy, nhập khẩu phế liệu được hiểu là hoạt động đưa phế liệu từ khu vực
hải quan riêng nằm trên lãnh thổ Việt Nam hoặc từ nước ngoài vào lãnh thổ Việt
Nam.
Nhập khẩu phế liệu là một bộ phận của hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế
và việc mua bán hàng hóa này có những đặc điểm riêng, phức tạp hơn mua bán
trong nước như giao dịch với những cá nhân, tổ chức có quốc tịch khác nhau; đồng
tiền thanh toán là ngoại tệ; thị trường rộng lớn khó kiểm sốt; mua bán qua trung
gian chiếm tỷ trọng lớn; hàng hoá phải vận chuyển qua biên giới, cửa khẩu các quốc
gia khác nhau phải tuân thủ các tập quán, thông lệ quốc tế cũng như của địa phương
khác nhau.
Phế liệu là một dạng chất thải theo pháp luật Việt Nam, là chất thải theo pháp

luật quốc tế về môi trường và pháp luật các quốc gia khác – do họ không phân biệt
phế liệu và chất thải mà chỉ sử dụng khái niệm duy nhất là chất thải (tiếng Anh:
waste, tiếng Đức: Abfall), theo họ thì tất cả những vật chất được thải ra từ hoạt
động của con người, cho dù nó có thể được tái chế hay không đều được định nghĩa
là chất thải; nguy cơ gây ô nhiễm môi trường và ảnh hưởng sức khỏe cộng đồng nếu
khơng có biện pháp phịng ngừa thích hợp nên có nhiều quốc gia cấm nhập khẩu
phế liệu (chất thải), nhưng cũng có một số quốc gia vẫn cho nhập khẩu phế liệu kèm
theo nhiều rào cản kỹ thuật để hạn chế việc nhập khẩu ồ ạt chất thải khiến quốc gia
của họ trở thành bãi rác phế thải của thế giới vào quốc gia của họ.
1.2. Tác động của nhập khẩu phế liệu
Đất nước ta đang trong quá trình hội nhập, xây dựng, phát triển nền kinh tế
thị trường và từng bước tiến hành cơng nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Trong
điều kiện đó, hoạt động nhập khẩu phế liệu không thể thiếu để phát triển kinh tế đất
nước cũng như bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên trong nước với những ảnh
hưởng tích cực của nó.
1.2.1. Tác động tích cực


13

Thứ nhất, việc sử dụng phế liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất giúp
giảm chi phí sản xuất, từ đó giúp giảm giá thành sản phẩm.
Q trình khai thác, sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên để tạo ra nguyên
liệu nguyên sinh phục vụ cho sản xuất phải mất rất nhiều thời gian và chi phí, trong
khi đó giá phế liệu rẻ và chỉ tốn thêm chi phí xử lý trước khi đưa vào làm nguyên
liệu sản xuất. Do đó trong q trình sản xuất, nếu tận dụng phế liệu làm nguyên liệu
thay thế một phần hoặc toàn bộ ngun liệu ngun sinh thì chi phí sản xuất ra sản
phẩm đó sẽ giảm xuống đáng kể, từ đó giúp giảm giá thành của sản phẩm khi đưa ra
lưu thông trên thị trường hoặc xuất khẩu sang các nước khác, tăng khả năng cạnh
tranh trên thị trường mua bán hàng hóa quốc tế. Chẳng hạn trong lĩnh vực sản xuất

nhựa, chi phí nguyên liệu chiếm khoảng 70-80% giá thành sản phẩm12, nếu khơng
có nguồn ngun liệu từ nhựa phế liệu pha trộn với hạt nhựa nguyên sinh để giảm
giá thành sản phẩm thì khơng thể cạnh tranh được với các nước có sản phẩm xuất
khẩu tương tự.
Thứ hai, nhập khẩu phế liệu giúp giải quyết bài toán cân đối giữa nhu cầu
sản xuất sản phẩm của các chủ thể kinh doanh và khả năng cung ứng nguyên liệu
trong nước.
Việc tận dụng phế liệu để sản xuất giúp giảm chi phí do giá thành phế liệu rẻ,
giảm thiểu chi phí để xử lý so với việc phát thải phế liệu ra mơi trường. Vì vậy, rất
nhiều ngành sản xuất cơng nghiệp đã và đang sử dụng phế liệu làm nguyên liệu cho
sản xuất như ngành nhựa, ngành giấy, ngành thủy tinh, ngành thép…
Tuy nhiên, nguồn nguyên liệu trong nước nói chung và nguồn phế liệu nói
riêng khơng thể đủ cung ứng cho nhu cầu sản xuất trong nước trong khi đó nguồn
nguyên liệu từ phế liệu nhập khẩu lại có tiềm năng khai thác rất cao với nguồn cung
lớn, đa dạng cộng thêm sự hợp lý về chi phí, nguyên nhân là do nguồn cung cấp phế

12

Trần Vũ Nghi (2018), ‘Ngành nhựa hụt nguyên liệu nghiêm trọng’, Báo Tuổi trẻ, truy cập lần cuối ngày 15
tháng 11 năm 2018, từ < />.htm>.


14

liệu trong nước ngày càng khan hiếm hoặc nguyên liệu đó Việt Nam chưa sản xuất
được, nếu có sản xuất được thì cũng rất hạn chế về chất lượng lẫn số lượng nguồn
nguyên liệu phục vụ sản xuất sản phẩm. Ví dụ trong ngành giấy, Hiệp hội Giấy và
Bột giấy Việt Nam ước tính sơ bộ, tỷ lệ thu gom giấy tại Việt Nam chỉ đạt dưới
ngưỡng trung bình thế giới, khoảng dưới 40% trước khi đưa vào phân loại và xử
lý13.

Thứ ba, nhập khẩu phế liệu là cơ sở để bảo vệ một cách hiệu quả nguồn tài
nguyên thiên nhiên, giảm khai thác tài nguyên thiên nhiên, giảm thiểu việc chặt phá
rừng, giúp bảo vệ các loài động vật hoang dã. Để sản xuất ra 1 tấn bột giấy (giấy
thành phẩm) phải dùng đến 2,2-4,4 tấn gỗ trong khi chỉ cần 1,4 tấn giấy phế liệu.
Như vậy, với cùng 1 tấn bột giấy, nếu sử dụng giấy phế liệu nhập khẩu sẽ giúp tiết
kiệm 24 cây rừng tự nhiên (tương đương 2,2-4,4 tấn gỗ). Ngoài ra phương pháp sử
dụng giấy phế liệu cịn có thể tiết kiệm được lượng oxy đủ cho 12 người thở và
lượng điện đủ dùng cho một căn nhà với 3 phòng ngủ trong 1 năm, cộng với 40.000
lít nước, 600 lít dầu thơ và giảm 95% lượng khí thải ơ nhiễm so với sản xuất bột
giấy từ gỗ. 14
Nhập khẩu nhựa phế liệu giúp bảo tồn tài nguyên không thể tái tạo. Nhựa
được sản xuất từ dầu mỏ, giảm sản xuất hạt nhựa giúp tiết kiệm tài nguyên không
thể tái tạo là dầu mỏ. Ví dụ tái chế 1 tấn nhựa có thể tiết kiệm năng lượng sử dụng
cho 2 người trong 1 năm, tương đương với 2000 pound dầu (tương đương khoảng
90kg) (WRAP, 2008), như vậy nếu tái chế 250.000 tấn nhựa sẽ tiết kiệm được
khoảng 23 ngàn tấn dầu mỗi năm.15

13

Nguyễn Hường - Hoàng Lan (2018), ‘Bàn giải pháp phát triển bền vững ngành sản xuất giấy Việt Nam’,
Báo Công Thương Điện Tử, truy cập lần cuối ngày 18 tháng 10 năm 2018, từ < />14
Khi nhà máy phân loại rác 10 triệu USD đắp chiếu (2018), Trang tin điện tử của Công ty trách nhiệm hữu
hạn xử lý Chất thải Việt Nam, truy cập lần cuối ngày 01 tháng 11 năm 2018, từ
< News/News/Khi-nha-may-phan-loai-rac-10-trieu-USD--ap-chieu.aspx>.
15
Tái chế tiết kiệm năng lượng (2018), Trang tin điển tử của Vinaplast, truy cập lần cuối ngày 01 tháng 11
năm 2018, từ < 90%E1%BB%81_t%C3%A0i_vinaplast>.


15


Mỗi tấn thép mới được làm từ thép phế liệu tiết kiệm được 1,115 kg quặng
sắt, 625 kg than và 53 kg đá vôi.16
1.2.2. Tác động tiêu cực
Bất kỳ sự vật hoặc hiện tượng nào cũng có hai mặt, nhập khẩu phế liệu cũng
khơng nằm ngồi quy luật đó. Phế liệu là một mặt hàng nhạy cảm, bản chất của nó
là một dạng của chất thải, tiềm ẩn nhiều rủi ro đối với mơi trường nên bên cạnh
những
tác động tích cực, nhập khẩu phế liệu cũng gây ra những ảnh hưởng tiêu cực như:
Thứ nhất, nếu chúng ta cho phép nhập khẩu phế liệu nhưng khơng quản lý,
kiểm sốt tốt sẽ tồn tại nguy cơ biến quốc gia mình thành bãi rác phế thải của thế
giới, chưa kể quốc gia phải tốn nhiều chi phí để xử lý những chất thải nguy hại làm
vì khi nhập khẩu phế liệu thì ngồi phế liệu ra chúng ta cịn nhập khẩu ln cả
những tạp chất đi kèm cịn bám dính, gắn chặt với phế liệu, trong đó bao gồm cả
những tạp chất khơng thể tái sử dụng, khó phân hủy, thậm chí là nguy hại nghiêm
trọng đến mơi trường. Bên cạnh đó cịn có trường hợp một số cá nhân, tổ chức trong
nước vì lợi nhuận đã “bắt tay” với các tổ chức, cá nhân ngoài nước để đưa chất thải
vào Việt Nam bằng những thủ đoạn khác nhau.17 Khi nhập khẩu những loại phế liệu
không đúng quy chuẩn kỹ thuật hoặc là chất thải thì tiềm ẩn những nguy cơ về dịch
bệnh, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường, thậm chí với những chất thải
độc hại nhập khẩu, khó phân hủy trong mơi trường tự nhiên, có khả năng di chuyển
và phát tán rộng, hấp thụ dễ dàng trong các cơ thể sống dẫn đến ảnh hưởng lâu dài
đối với sức khỏe con người.
Thứ hai, một số tổ chức, cá nhân nhập khẩu phế liệu về Việt Nam nhưng
không đủ điều kiện được nhập khẩu phế liệu hoặc phế liệu nhập khẩu không đạt quy
chuẩn chất lượng, khi Cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiểm tra phát hiện thì
khơng được thông quan, khiến những lô hàng phế liệu này tồn đọng tại các cảng,
16

Lợi ích|Kim loại phế liệu (2017), Trang tin điện tử của Công ty tái chế Norstar, truy cập lần cuối ngày 01

tháng 11 năm 2018, từ < Recycling/Processing/Benefits.aspx>.
17
Nguyễn Hoài (2018), ‘Phế liệu ồ ạt vào Việt Nam, lỗ hổng nào?’, Báo điện tử Tiền Phong, truy cập lần
cuối ngày 07 tháng 10 năm 2018, từ < 1306969.tpo>


16

gây ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh bình thường của các cảng biển, hoạt động
xuất nhập khẩu hàng hóa của các các chủ thể xuất nhập khẩu khác như làm chậm
tốc độ thơng quan hàng hóa, giảm dung lượng bãi chứa container, ảnh hưởng đến
hoạt động của các hãng tàu, làm gia tăng chi phí cho các doanh nghiệp, cá nhân, tổ
chức khác và quan trọng là nguy cơ gây ô nhiễm môi trường cao.
Thứ ba, việc xử lý các lô hàng phế liệu tồn đọng không đủ điều kiện thông
quan như bắt buộc tái xuất, thanh lý, tiêu hủy khơng hề dễ dàng bởi vì chi phí xử lý
thông thường cao hơn nhiều so với tiền phế liệu nên khi bị truy cứu, buộc phải tái
xuất, khắc phục hậu quả thì những cá nhân, tổ chức đã đưa phế liệu về cảng này bỏ
trốn hoặc lấy lý do bên xuất khẩu gửi nhầm hàng chứ lô hàng phế liệu đó khơng
phải của họ,18….Theo quy định nếu hàng hóa là chất thải hoặc phế liệu không được
phép nhập khẩu vào Việt Nam có nguy cơ gây ơ nhiễm mơi trường thì Nhà nước
yêu cầu hãng tàu phải vận chuyển những hàng hóa này ra khỏi Việt Nam, tuy nhiên
cũng rất khó vì hãng tàu cũng khơng biết phải đưa hàng đi đâu, chưa kể khi các cá
nhân, tổ chức nước ngoài đã đẩy được phế thải độc hại ra khỏi đất nước họ, thì
khơng dễ gì họ đồng ý tái nhập những lơ hàng này trở lại, vì vậy những lô hàng phế
liệu tồn đọng này lại phải xử lý tại Việt Nam gây tốn kém cho ngân sách Nhà nước.
Tóm lại, trong giai đoạn hiện nay việc nhập khẩu phế liệu vẫn còn cần thiết
cho sự phát triển kinh tế của Việt Nam khi mà nguồn nguyên liệu trong nước nói
chung và nguồn phế liệu nói riêng khơng thể cung ứng đủ cho nhu cầu sản xuất
trong nước trong khi đó nguồn nguyên liệu từ phế liệu nhập khẩu lại có tiềm năng
khai thác rất cao với nguồn cung lớn, đa dạng cộng thêm giá phế liệu rẻ và chỉ tốn

thêm chi phí xử lý trước khi đưa vào làm nguyên liệu sản xuất, từ đó giúp giảm giá
thành của sản phẩm khi đưa ra lưu thông trên thị trường hoặc xuất khẩu sang các
nước khác, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường mua bán hàng hóa quốc tế.
Chưa kể nhập khẩu phế liệu còn giúp giảm tình trạng chặt phá rừng, giảm thiểu khai

18

Trang Trần (2018), ‘Để thoát khỏi nguy cơ trở thành “bãi rác” của thế giới’, Báo Kinh tế và dự báo, truy
cập lần cuối ngày 07 tháng 11 năm 2018, từ <http://kinhteva dubao.vn/chi-tiet/100-11967-de-thoat-khoinguy-co-tro-thanh-bai-rac-cua-the-gioi. html>.


17

thác tài nguyên thiên nhiên.
Tuy nhiên, một số cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp với động cơ vụ lợi lợi
dụng chính sách nhập khẩu phế liệu của Nhà nước đã nhập khẩu những loại phế liệu
không đúng quy định tiềm ẩn những nguy cơ về dịch bệnh, gây ảnh hưởng nghiêm
trọng đến mơi trường, thậm chí nhập khẩu những chất thải độc hại ảnh hưởng đến
sức khỏe lâu dài đối với sức khỏe con người, chưa kể nhập khẩu phế liệu còn gây
tốn kém cho ngân sách Nhà nước khi phải xử lý những lô hàng chất thải, phế liệu
không đáp ứng yêu cầu thông quan theo quy định của pháp luật về nhập khẩu phế
liệu.
Do đó, chúng ta cần thống nhất về nhận thức là nhập khẩu phế liệu khơng
phải là hoạt động cần khuyến khích. Cùng với sự phát triển của kinh tế, xã hội, việc
nhập khẩu phế liệu phải từng bước thu hẹp và có sự kiểm soát ngày càng chặt chẽ
hơn.
1.3. Khái niệm về bảo vệ môi trường trong nhập khẩu phế liệu
Hoạt động bảo vệ mơi trường là hoạt động giữ gìn, phịng ngừa, hạn chế các
tác động xấu đến mơi trường; ứng phó sự cố mơi trường; khắc phục ơ nhiễm, suy
thối, cải thiện, phục hồi môi trường; khai thác, sử dụng hợp lý tài nguyên thiên

nhiên nhằm giữ môi trường trong lành.19
Môi trường bị hủy hoại chủ yếu là do sự phá hoại của con người, chính con
người trong q trình khai thác các yếu tố của môi trường đã mất sự cân bằng sinh
thái, gây ơ nhiễm. Vì vậy, muốn bảo vệ môi trường trước hết phải tác động đến con
người. Pháp luật với tư cách là hệ thống các quy phạm điều chỉnh hành vi xử sự của
con người sẽ có tác dụng rất lớn trong việc bảo vệ môi trường.
Hoạt động nhập khẩu phế liệu không chỉ gây ảnh hưởng trực tiếp tới mơi
trường trong q trình thực hiện các công đoạn của hoạt động nhập khẩu (vận
chuyển, lưu kho bến bãi,…) mà còn gây ảnh hưởng rất lớn tới môi trường trong quá

19

Khoản 3 Điều 3 Luật Bảo vệ môi trường năm 2014


18

trình sử dụng các phế liệu nhập khẩu đó.
Chính vì vậy, một vấn đề hết sức quan trọng đặt ra là Nhà nước phải kiểm
soát chặt chẽ vấn đề bảo vệ môi trường trong hoạt động nhập khẩu phế liệu. Trong
điều kiện hiện nay các nước phát triển đang tìm mọi cách để xuất khẩu các loại chất
thải có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường sang các nước chậm phát triển nhằm né
tránh trách nhiệm xử lý các chất thải này thì Nhà nước ta phải có những biện pháp
thích hợp để bảo vệ mơi trường trong hoạt động nhập khẩu phế liệu được hiệu quả
nhất.
Do đó, chúng ta có thể hiểu bảo vệ mơi trường trong nhập khẩu phế liệu là
các điều kiện, biện pháp nhằm ngăn chặn, giảm, loại trừ, khắc phục nhũng tác động
xấu đến môi trường của hoạt động nhập khẩu phế liệu.
1.4. Pháp luật về bảo vệ môi trường trong nhập khẩu phế liệu
1.4.1. Điều kiện đối với phế liệu nhập khẩu

Theo quy định tại Khoản 1 Điều 76 Luật Bảo vệ môi trường năm 2014, phế
liệu muốn được nhập khẩu về Việt Nam làm nguyên liệu sản xuất phải thỏa mãn hai
điều kiện sau:
Thứ nhất, phế liệu phải nằm trong danh mục 36 loại phế liệu được phép
nhập khẩu ban hành kèm theo Quyết định số 73/2014/QĐ-TTg ngày 19/12/2014 của
Thủ tướng Chính phủ. Bao gồm: thạch cao; xỉ hạt nhỏ (xỉ cát) từ cơng nghiệp luyện
sắt hoặc thép; các ngun tố hóa học đã được kích tạp dùng trong điện tử, ở dạng
đĩa, tấm mỏng, hoặc các dạng tương tự; phế liệu và mẩu vụn của plastic (nhựa) từ
polyme etylen (PE): Dạng xốp, không cứng, từ polyme etylen (PE): Loại khác, từ
polyme styren (PS): Dạng xốp, không cứng, từ polyme styren (PS): Loại khác, từ
polyme vinyl clorua (PVC): Dạng xốp, không cứng, từ polyme vinyl clorua (PVC):
Loại khác, phế liệu và mẩu vụn từ plastic (nhựa) khác; giấy loại hoặc bìa loại thu
hồi (phế liệu và vụn thừa): Giấy kraft hoặc bìa kraft hoặc giấy hoặc bìa sóng, chưa
tẩy trắng, giấy hoặc bìa khác được làm chủ yếu bằng bột giấy thu được từ q trình
hóa học đã tẩy trắng, chưa nhuộm màu tồn bộ, giấy hoặc bìa được làm chủ yếu


19

bằng bột giấy thu được từ quá trình cơ học (ví dụ, giấy in báo, tạp chí và các ấn
phẩm tương tự), giấy loại hoặc bìa loại thu hồi (phế liệu và vụn thừa): Loại khác, kể
cả phế liệu và vụn thừa chưa phân loại; tơ tằm phế liệu (kể cả kén khơng thích hợp
để quay tơ, xơ sợi phế liệu và xơ sợi tái chế); thủy tinh vụn và thủy tinh phế liệu và
mảnh vụn khác; thủy tinh ở dạng khối; phế liệu và mảnh vụn của gang; phế liệu và
mảnh vụn của thép hợp kim: bằng thép không gỉ; phế liệu và mảnh vụn của thép
hợp kim: Loại khác (khác với loại bằng thép không gỉ); phế liệu và mảnh vụn của
sắt hoặc thép tráng thiếc; phế liệu và mảnh vụn khác của sắt hoặc thép: Phoi tiện,
phoi bào, mảnh vỡ, vảy cán, phoi cắt và bavia, chưa được ép thành khối hay đóng
thành kiện, bánh, bó; phế liệu và mảnh vụn khác của sắt hoặc thép: Loại khác; thỏi
đúc phế liệu (bằng sắt, thép, gang) nấu lại; phế liệu và mảnh vụn của Đồng, nhôm,

niken, kẽm, thiếc, vonfram, molypden, magie, titan, zircon, antimony, mangan,
crom.
Tuy nhiên, vẫn có trường hợp ngoại lệ được phép nhập khẩu phế liệu khơng
thuộc danh mục này đó là trường hợp nhập khẩu phế liệu để thử nghiệm làm
nguyên liệu sản xuất quy định tại Điều 9 Nghị định số 38/2015/NĐ-CP về quản lý
chất thải và phế liệu do Chính phủ ban hành ngày 24/04/2015 (Sau đây viết tắt là
Nghị định số 38/2015/NĐ-CP), theo đó nếu tổ chức, cá nhân có nhu cầu nhập khẩu
phế liệu không thuộc Danh mục phế liệu được phép nhập khẩu theo quy định của
Cơ quan có thẩm quyền để thử nghiệm làm nguyên liệu sản xuất thì ngoài việc phải
đáp ứng các yêu cầu, điều kiện theo quy định tại Khoản 1 Điều 56 Nghị định số
38/2015/NĐ-CP như phải có kho lưu giữ phế liệu nhập khẩu: có hệ thống thu gom
nước mưa; hệ thống thu gom và biện pháp xử lý các loại nước thải phát sinh trong
quá trình lưu giữ phế liệu đảm bảo đạt Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về mơi trường;
có cao độ nền đảm bảo không bị ngập lụt, mặt sàn trong khu vực lưu giữ phế liệu
được thiết kế để tránh nước mưa chảy tràn từ bên ngoài vào, sàn bảo đảm kín khít,
khơng rạn nứt, bằng vật liệu chống thấm, đủ độ bền chịu được tải trọng của lượng
phế liệu cao nhất theo tính tốn; có tường và vách ngăn bằng vật liệu khơng cháy;
có mái che kín nắng, mưa cho toàn bộ khu vực lưu giữ phế liệu bằng vật liệu không


20

cháy; có biện pháp hoặc thiết kế để hạn chế gió trực tiếp vào bên trong. Phải có bãi
lưu giữ phế liệu nhập khẩu: có hệ thống thu gom và biện pháp xử lý nước mưa đợt
đầu chảy tràn qua bãi phế liệu nhập khẩu và các loại nước thải phát sinh trong quá
trình lưu giữ phế liệu đảm bảo đạt quy chuẩn kỹ thuật mơi trường; có cao độ nền
đảm bảo khơng bị ngập lụt; sàn bảo đảm kín khít, khơng rạn nứt, bằng vật liệu
chống thấm, đủ độ bền chịu được tải trọng của lượng phế liệu cao nhất theo tính
tốn; có biện pháp giảm thiểu bụi phát sinh từ bãi lưu giữ phế liệu. Phải có cơng
nghệ, thiết bị tái chế, tái sử dụng phế liệu phải đáp ứng yêu cầu kỹ thuật và quy

trình quản lý theo quy định. Phải có cơng nghệ, thiết bị xử lý tạp chất đi kèm phế
liệu đạt quy chuẩn kỹ thuật mơi trường, trường hợp khơng có cơng nghệ, thiết bị xử
lý tạp chất đi kèm thì phải chuyển giao cho đơn vị có chức năng phù hợp để xử lý.
còn phải gửi văn bản đề nghị nhập khẩu mẫu phế liệu để phân tích đến Bộ Tài
ngun và Mơi trường để được xem xét, chấp thuận bằng văn bản; văn bản chấp
thuận của Bộ Tài nguyên và Môi trường là cơ sở để Cơ quan Hải quan xem xét, cho
phép mẫu phế liệu được nhập khẩu vào Việt Nam.
Thứ hai, những phế liệu nhập khẩu nằm trong danh mục phải đáp ứng Quy
chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường đối với phế liệu được nhập khẩu làm nguyên
liệu sản xuất như chủng loại phế liệu đã được cụ thể hóa, đã được lựa chọn, phân
loại riêng biệt theo tên phế liệu, mã HS, mô tả phế liệu, dạng phế liệu, cũng như quy
cách đóng kiện hàng phế liệu như ở dạng rời hoặc được buộc thành bó; ép thành
khối, cục hay đóng thành kiện và bánh,….từng khối hàng phế liệu nhập khẩu phải
được sắp xếp tách riêng trong lô hàng hoặc công ten nơ nhập khẩu, trong mỗi khối
hàng phế liệu nhập khẩu được phép lẫn không vượt quá 20% lượng phế liệu cùng
mặt hàng có mã HS khác cũng thuộc Danh mục phế liệu được phép nhập khẩu so
với mã HS khai báo trong hồ sơ nhập khẩu. Bên cạnh đó phế liệu cũng phải được
làm sạch, loại bỏ các chất, vật liệu, hàng hóa cấm nhập khẩu theo quy định của pháp
luật Việt Nam và các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là thành viên như:
+ Hóa chất, chất dễ cháy, chất dễ nổ, chất thải y tế nguy hại.


21

+ Vũ khí, bom, mìn, đạn, bình kín, bình ga mà chưa được cắt phá, tháo dỡ
tại nước ngoài hoặc lãnh thổ xuất khẩu để loại bỏ nguy cơ về an toàn cháy, nổ.
+ Vật liệu chứa hoặc nhiễm chất phóng xạ vượt quá mức miễn trừ quy
định tại QCVN 05:2010/BKHCN - Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về an toàn bức xạ miễn trừ khai báo, cấp giấy phép ban hành kèm theo Thông tư số 15/2010/TTBKHCN ngày 14/09/2010 của Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ.
+ Tạp chất nguy hại.

Khái niệm “làm sạch” ở đây chỉ là làm sạch hồn tồn các chất, vật liệu,
hàng hóa cấm nhập khẩu như đã nêu trên chứ không phải là phế liệu phải được làm
sạch hồn tồn khơng được lẫn bất kỳ tạp chất nào cả bởi vì trong các Quy chuẩn kỹ
thuật quốc gia về môi trường đối với phế liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất
có cho phép một số tạp chất không mong muốn được phép còn lẫn trong phế liệu
nhập khẩu như:
+ Tạp chất bám dính như: gỉ, bụi, đất, cát, dây buộc và vật liệu sử dụng để
đóng kiện phế liệu nhập khẩu;
+ Các vật liệu cịn sót lại sau khi sử dụng, cịn bám dính vào sắt, thép,
kim loại màu như dầu, mỡ, sơn, lớp mạ, vật liệu khác không phải là sắt, thép hoặc
gang và kim loại màu;
+ Tạp chất do in ấn, các loại mác, nhãn cịn bám dính trên phế liệu nhựa
hoặc đã bị rời ra trong quá trình vận chuyển, xếp, dỡ;
+ Dư lượng hóa chất chống nấm, mốc, côn trùng sử dụng để bảo quản phế
liệu giấy trước khi vận chuyển;
+ Lớp sơn phủ trên bề mặt thủy tinh
+ Các tạp chất khác cịn sót lại khơng phải là sắt, thép, gang, nhựa, giấy,
thủy tinh, kim loại màu đăng ký nhập khẩu hoặc hợp kim của kim loại màu đó cịn
bám dính hoặc rời ra từ phế liệu nhập khẩu (không thuộc các loại tạp chất đã nêu
trên) đáp ứng yêu cầu quy định về tạp chất không được lẫn trong phế liệu nhập
khẩu. Trong mỗi lô hàng, tổng khối lượng các loại tạp chất khác cịn sót lại này


×