Tải bản đầy đủ (.pdf) (65 trang)

Bảo vệ quyền của bên nhận quyền trong hợp đồng nhượng quyền thương mại – thực trạng và hướng đề xuất hoàn thiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (583.86 KB, 65 trang )

1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT

NGUYỄN ĐỨC HẢI

BẢO VỆ QUYỀN CỦA BÊN NHẬN QUYỀN
TRONG HỢP ĐỒNG NHƢỢNG QUYỀN THƢƠNG MẠI THỰC TRẠNG VÀ HƢỚNG ĐỀ XUẤT HOÀN THIỆN

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

TP.HỒ CHÍ MINH – 2013


2

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
NQTM là một khái niệm và hình thức kinh doanh được coi là non trẻ
trên thế giới và ở Việt Nam. Trong lịch sử phát triển của mình, NQTM xuất hiện
ở Hoa Kỳ vào những năm 50 của thế kỷ XX. Tuy nhiên, trong một thời gian dài,
nó chỉ phát triển trong nội bộ nước Mỹ. Chỉ đến những năm 80 của thế kỷ XX,
NQTM, với tư cách là một hình thức thương mại mới, bắt đầu thực sự phát triển
bùng nổ trên toàn thế giới. Tuy nhiên, tùy theo từng vùng địa lý khác nhau, quan
điểm kinh tế-chính trị-xã hội của từng quốc gia, khu vực mà cách hiểu và áp
dụng cách thức nhượng quyền trong thương mại có nhiều điểm dị biệt.
Mặc dù NQTM đã trở nên phổ biến trên thế giới, nhưng chỉ mới xuất
hiện ở Việt Nam gần đây. Những trường hợp NQTM đầu tiên ở Việt Nam được
ghi nhận vào giữa những năm 90 của thế kỷ XX và phát triển không mấy ấn
tượng trong 10 năm tiếp theo. Vì vậy, vấn đề NQTM chỉ chính thức được đưa


vào Luật Thương mại 2005 (từ Điều 284-291) cùng các quy định dưới luật như
Nghị định 35/2006/NĐ-CP của chính phủ và Thơng tư số 09/2006/TT-BTM của
Bộ Thương mại.
Việc luật hóa hoạt động NQTM ở Việt Nam đã tạo ra hành lang pháp lý
hiệu quả thúc đẩy hoạt động NQTM phát triển nhanh hơn. Mặc dù, thực tế ở Việt
Nam chưa xảy ra các vụ việc kiện tụng, tranh chấp nào liên quan đến NQTM.
Tuy nhiên những quy định pháp luật của Việt Nam về NQTM còn sơ sài, đặc
biệt là những quy định về bảo vệ quyền lợi của bên nhận quyền – bên “yếu thế”
hơn trong hợp đồng NQTM. Các quy định này một mặt chưa bảo vệ hiệu quả
quyền của của bên nhận quyền, mặt khác còn chồng chéo và mâu thuẫn. Điều đó
dẫn đến việc hiểu và áp dụng không hiệu quả, tạo ra những sơ hở về pháp luật
mà bên nhượng quyền có thể lợi dụng để từ chối trách nhiệm và nghĩa vụ đối với
bên nhận quyền.


3

Vì vậy, tác giả mạnh dạn chọn đề tài “Bảo vệ quyền của bên nhận quyền
trong hợp đồng NQTM - Thực trạng và hướng đề xuất hoàn thiện” làm luận
văn tốt nghiệp.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu các vấn đề lý luận cơ bản về NQTM, thực trạng pháp luật
bảo vệ quyền của bên nhận quyền trong hợp đồng NQTM, từ đó đề xuất một số
giải pháp nhằm hồn thiện các quy định pháp luật về NQTM nhằm bảo vệ hiệu
quả quyền của bên nhận quyền.
3. Đối tượng nghiên cứu
- Lý thuyết về NQTM;
- Pháp luật Việt Nam bảo vệ quyền của bên nhận quyền trong hợp đồng
NQTM.
4. Phạm vi nghiên cứu

- Hệ thống văn bản pháp luật Việt Nam và một số văn bản pháp luật nước
ngoài quy định về NQTM;
- Thực trạng hoạt động NQTM ở Việt Nam từ năm 1995 đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài dựa trên phương pháp luận nghiên cứu của chủ nghĩa Mác – Lênin
về duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Đề tài sử dụng các phương pháp
nghiên cứu cụ thể như: Phương pháp phân tích – so sánh luật, phương pháp tổng
hợp, thống kê, phương pháp nghiên cứu tài liệu...
6. Tình hình nghiên cứu
NQTM là một hoạt động thương mại phức tạp và có tính đặc thù cao.
Xung quanh hoạt động NQTM có rất nhiều khía cạnh pháp lý cần quan tâm làm
sáng tỏ. Vì vậy, từ khi hoạt động này xuất hiện ở Việt Nam, đã có một số học


4

giả, nhà nghiên cứu quan tâm tìm hiểu và viết bài về nó. Tuy nhiên, nghiên cứu
một cách có hệ thống về khía cạnh bảo vệ quyền của bên nhận quyền trong hợp
đồng NQTM thì chưa có nhiều cơng trình đề cập. Thời gian qua, đã có một số
tác giả nghiên cứu các luận văn thạc sỹ, cơng trình nghiên cứu và một số bài viết
đăng trên các tạp chí liên quan đến hoạt động NQTM ở các khía cạnh, cấp độ
khác nhau như:
- Bản giới thiệu NQTM theo quy định của pháp luật Việt Nam, Nguyễn Bá
Bình, Nghiên cứu lập pháp, Văn phòng quốc hội, Số 2/2010, tr. 15 – 21.
- Cạnh tranh và các dạng thức thoả thuận hạn chế cạnh tranh, Nguyễn Thị
Hồng Vân, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Văn phòng Quốc hội, Số 11/2011, tr.
51 – 54.
- Điều khoản bảo mật thông tin và điều khoản cấm cạnh tranh trong hợp
đồng NQTM, Hoàng Thị Thanh Thuý, Tạp chí Luật học, Trường Đại học Luật
Hà Nội, Số 2/2011, tr. 43 – 50.

- Mối quan hệ giữa hoạt động NQTM và các thoả thuận hạn chế cạnh
tranh, Vũ Đặng Hải Yến, Tạp chí Luật học, Trường đại học Luật Hà Nội, Số 2
/2008, tr.58 – 64.
- Một số vấn đề pháp lý về chủ thể của hợp đồng NQTM, Vũ Đặng Hải
Yến, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Văn phòng Quốc hội, Số 4/2008, tr. 41-45,
62.
- NQTM dưới góc độ pháp luật cạnh tranh, Nguyễn Thanh Tú, Tạp chí
Nghiên cứu lập pháp. Văn phịng Quốc hội, Số 03/2007, tr. 41 – 50.
- NQTM ở Việt Nam - những vấn đề lý luận và thực tiễn, ThS. Vũ Đặng Hải
Yến, Tạp chí Luật học. Trường Đại học Luật Hà Nội, Số 03/2005, tr. 46 – 52.
- Những vấn đề cơ bản về NQTM, ThS. Điêu Ngọc Tuấn, Tạp chí Tồ án.
Tồ án nhân dân tối cao, Số 9/2005, tr. 4 – 12.
- Hoạt động kinh doanh nhượng quyền thương mại ứng dụng trong ngành
thực phẩm ở Tp. Hồ Chí Minh – Thực trạng và giải pháp hồn thiện, Phan
Thanh Hải Tú, Luận văn thạc sỹ kinh tế, Đại học Kinh tế Tp. Hồ Chí Minh, 2007


5

- Pháp luật nhượng quyền thương mại ở Việt Nam - thực trạng và định
hướng hoàn thiện, Vũ Hương Giang, Luận văn thạc sĩ luật học, Đại học Luật
TP.Hồ Chí Minh, 2006.
- Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong hợp đồng nhượng quyền thương
mại, Bùi Thị Hằng Nga, Luận văn thạc sĩ luật học, Đại học Luật TP. Hồ Chí
Minh, 2008.
- Hợp đồng nhượng quyền thương mại theo pháp luật Việt nam, Hồ Vĩnh
Long, Luận văn thạc sĩ luật học, Đại học Luật TP.Hồ Chí Minh, 2006…
7. Ý nghĩa của đề tài
Thông qua việc nghiên cứu đề tài “Bảo vệ quyền của bên nhận quyền
trong hợp đồng NQTM - Thực trạng và hướng đề xuất hồn thiện” tác giả có

điều kiện nghiên cứu sâu hơn về lý luận NQTM và những quy định pháp luật bảo
vệ quyền của bên nhận quyền trong hợp đồng NQTM của Việt Nam cũng như
của một số nước trên thế giới. Từ việc nghiên cứu này sẽ có cơ sở đánh giá tính
hiệu quả, chặt chẽ và hoàn thiện của các quy định pháp luật này, so sánh quy
định của pháp luật Việt Nam so với pháp luật của các nước. Đồng thời tác giả
cũng có điều kiện đánh giá mối quan hệ giữa các quy định bảo vệ bên nhận
quyền với thực tiễn hoạt động NQTM đang diễn ra ở Việt Nam để đề xuất những
giải pháp hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền của bên nhận quyền trong hợp đồng
NQTM.
8. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, đề tài
được chia thành 3 chương.


6

CHƢƠNG 1:
NHẬN THỨC CHUNG VỀ QUYỀN VÀ PHƢƠNG THỨC BẢO VỆ
QUYỀN CỦA BÊN NHẬN QUYỀN TRONG HỢP ĐỒNG NHƢỢNG
QUYỀN THƢƠNG MẠI
1.1. Hợp đồng NQTM
Hợp đồng kinh doanh thương mại nói chung là sự thỏa thuận giữa các bên
về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ thương mại. Hợp
đồng kinh doanh thương mại có nhiều loại như: hợp đồng mua bán hàng hóa,
hợp đồng cung ứng dịch vụ, hợp đồng chuyển giao công nghệ, hợp đồng
NQTM…. Hợp đồng NQTM là một hình thức rất đặc thù vì nó chứa đựng những
điều khoản thỏa thuận về mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, li-xăng và
chuyển giao công nghệ.
Theo Hiệp hội NQTM quốc tế (IFA), hợp đồng NQTM là thoả thuận giữa
bên giao và bên nhận quyền.Theo đó bên nhận quyền được thực hiện đặc quyền

thương mại được cấp phép bởi bên nhượng quyền để tiến hành hoạt động kinh
doanh dưới cùng một thương hiệu với bên nhượng quyền, đồng thời với việc
nhận được sự hỗ trợ liên tục trong quá trình kinh doanh. Đổi lại, bên nhận quyền
phải trả một khoản phí được xem như là sự trao đổi ngang giá với đặc quyền
được hưởng cho bên nhượng quyền1.
Một định nghĩa khá phổ biến khác về hợp đồng NQTM là định nghĩa của
liên minh châu Âu (EU). Theo EU (được nêu trong Nghị quyết 4087/88) thì hợp
đồng NQTM là “một thỏa thuận theo đó bên nhượng quyền cho phép bên nhận
quyền khai thác quyền thương mại được chuyển giao nhằm thực hiện hoạt động
kinh doanh các loại hàng hóa hoặc dịch vụ nhất định để đổi lại một khoản phí
trực tiếp hoặc gián tiếp từ bên nhận quyền”2.
1

Nguyễn Thị Hồng Vân: Hợp đồng nhượng quyền thương mại và các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, Tập bài
đọc hợp đồng thương mại quốc tế, Khoa Quan hệ quốc tế, Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc
gia Tp. HCM, 2010, tr.97.
2
Article 1(3)(b) Regulation 4087/88 [1988] OJ L359/46 (Block exemption for Franchise Agreements).


7

EU không liệt kê các nhân tố cấu thành nên một quyền thương mại trong
định nghĩa của mình về hợp đồng NQTM. Tuy nhiên, để các bên áp dụng pháp
luật có một cách hiểu thống nhất về “quyền thương mại” thì trong một quy định
khác của Nghị quyết 4087/88, EU đã giải thích thế nào là quyền thương mại.
Theo đó “quyền thương mại” là một “tập hợp những quyền sở hữu cơng nghiệp
và sở hữu trí tuệ liên quan tới nhãn hiệu hàng hóa, tên thương mại, biển hiệu cửa
hàng, giải pháp hữu ích, kiểu dáng, bản quyền tác giả, bí quyết, hoặc sáng chế sẽ
được khai thác để bán sản phẩm, hoặc cung cấp dịch vụ tới người sử dụng cuối

cùng”.
Theo Điều 4 Nghị định 35/2006/NĐ-CP cụ thể các quy định của Luật
Thương mại 2005 về NQTM, hợp đồng NQTM là hợp đồng trong đó bên
nhượng quyền có nghĩa vụ trao quyền thương mại và cung cấp các hỗ trợ kỹ
thuật đối với việc kinh doanh quyền thương mại cho bên nhận quyền, và bên
nhận quyền có nghĩa vụ thanh tốn cho bên nhượng quyền. Bên nhận quyền có
thể tiếp tục chuyển quyền thương mại cho người khác nếu hợp đồng NQTM đã
có thỏa thuận, hoặc người đã chuyển quyền thương mại đồng ý cho chuyển tiếp.1
Để hiểu rõ tính chất đặc thù của hợp đồng NQTM, chúng ta có thể xem xét
một số yếu tố quan trọng tạo nên loại hợp đồng này, đó là chủ thể của hợp đồng,
đối tượng của hợp đồng, quyền và nghĩa vụ của các bên chủ thể.
- Chủ thể của hợp đồng NQTM: Trong quan hệ hợp đồng NQTM, tồn tại
hai loại chủ thể cơ bản: bên nhượng quyền và bên nhận quyền. Hợp đồng là sự
thỏa thuận về quyền và nghĩa vụ của bên nhận quyền và bên nhượng quyền.
Ngoài ra, khi chúng ta đi sâu vào nội hàm hai loại chủ thể này, chúng ta thấy
trong quy định của pháp luật xuất hiện các chủ thể như: bên nhượng quyền sơ
cấp, bên nhượng quyền thứ cấp, bên nhận quyền sơ cấp và bên nhận quyền thứ

1

Lê Nết, Vũ Thanh Minh: Hợp đồng nhượng quyền thương mại, www.lctlawyers.com, tr2.


8

cấp1. Theo quy định của hầu hết pháp luật các nước, để có thể trở thành chủ thể
của hợp đồng NQTM thì phải đáp ứng những điều kiện nhất định. Trong mối
quan hệ nhượng quyền, có nhiều ý kiến đánh giá bên nhượng quyền là bên mạnh
thế hơn và nắm giữ đối tượng của hoạt động nhượng quyền; có ý nghĩa quyết
định về bản chất, nội dung và sự thành cơng, thất bại của hoạt động nhượng

quyền. Vì vậy, các hệ thống pháp luật đều đưa ra những tiêu chí về chủ thể
nhượng quyền khắt khe hơn so với điều kiện chủ thể của các hoạt động kinh
doanh thương mại khác.
Điều kiện thứ nhất đối với bên nhượng quyền phải là thương nhân, tồn tại
một cách hợp pháp, có thẩm quyền kinh doanh và hoạt động thương mại phù hợp
với đối tượng dự kiến nhượng quyền. Tất nhiên, tiêu chuẩn để trở thành một
thương nhân ở các hệ thống pháp luật khác nhau thì có sự khác nhau nhất định,
vì vậy có những trường hợp một cá nhân, tổ chức được xem là thương nhân và
tham gia hoạt động NQTM ở quốc gia này nhưng không được xem là thương
nhân để hoạt động NQTM ở quốc gia khác.
Điều kiện thứ hai đối với bên nhượng quyền là phải trực tiếp hoạt động
kinh doanh hệ thống dự định nhượng quyền hiệu quả trong một thời gian nhất
định. Các quốc gia như Việt Nam, Trung Quốc, Malaixia đưa ra tiêu chí định
lượng về thời gian. Một số quốc gia khác đưa ra tiêu chí định tính, đánh giá tính
hiệu quả của hoạt động kinh doanh dự tính nhượng quyền của bên nhượng quyền
2
. Trường hợp thương nhân nhận quyền sơ cấp và nhượng quyền lại, pháp luật
cũng quy định những điều kiện về mặt thời gian và hiệu quả kinh doanh phải đáp
ứng để có thể thực hiện nhượng quyền thứ cấp. Mỗi quốc gia, tùy vào quan điểm
pháp lý của mình mà xác định khoảng thời gian và điều kiện hiệu quả kinh
doanh như thế nào đối với chủ thể NQTM.

1

Điều 3 Nghị định 35/2006/NĐ-CP ngày 31/3/2006 quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động nhượng
quyền thương mại.
2
Xem thêm Nguyễn Bá Bình: Bản giới thiệu nhượng quyền thương mại theo quy định của pháp luật Việt Nam,
Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số tháng 1/2010, tr15.



9

Điều kiện thứ ba về chủ thể NQTM là phải đăng ký hoạt động NQTM với cơ
quan có thẩm quyền. Đa số các luật tiểu bang ở Hoa Kỳ đều quy định điều kiện này
của chủ thể nhượng quyền. Tương tự, chúng ta cũng có thể tìm thấy điều kiện phải
đăng ký hoạt động nhượng quyền với cơ quan có thẩm quyền trong luật của Trung
Quốc-quốc gia có hoạt động nhượng quyền sôi động và phát triển nhanh nhất hiện
nay, Malaixia, Australia, Việt Nam…
Điều kiện chủ thể của bên nhận quyền trong hợp đồng NQTM thì đơn giản
hơn. Đa số pháp luật các nước quy định bên nhận quyền phải là thương nhân, có
đăng ký kinh doanh phù hợp với quy định của pháp luật. Cá biệt, có một số quốc
gia không đưa ra bất kỳ một điều kiện nào về chủ thể của bên nhận quyền1.
- Đối tượng nhượng quyền trong hoạt động NQTM là quyền thương mại.
Theo Điều 284 Luật thương mại 2005, thì quyền thương mại bao gồm quyền sở
hữu trí tuệ và những trợ giúp kỹ thuật có liên quan. Quy định của pháp luật Việt
Nam về đối tượng nhượng quyền có sự tương đồng cơ bản với quy định của liên
minh châu Âu (EU), trong đó quyền thương mại được liệt kê gồm các yếu tố
như: nhãn hiệu, tên thương mại, quyền tác giả, giải pháp hữu ích, bí mật kinh
doanh hay sáng chế…
Quyền thương mại trong hợp đồng NQTM được hiểu là một tổng thể các
quyền sở hữu trí tuệ và những trợ giúp kỹ thuật có liên quan. Nó có thể thiếu một
hoặc một vài quyền sử dụng quyền sở hữu trí tuệ hoặc một vài trợ giúp kỹ thuật
mà pháp luật về NQTM liệt kê. Điều đó phụ thuộc vào loại hình NQTM, ý chí
của các bên, đặc trưng lĩnh vực, mơ hình kinh doanh mà bên nhượng quyền dự
kiến nhượng lại cho bên nhận quyền. Chúng ta phải xem xét và đánh giá quyền
thương mại – đối tượng trong hợp đồng NQTM là một thực thể thống nhất
1

Hoa Kỳ là một quốc gia có hoạt động NQTM phát triển cao và là một quốc gia dẫn đầu trong việc đưa ra các

quy định pháp luật rất thơng thống cho hoạt động NQTM, trong đó, các quy định pháp luật của Hoa Kỳ không
yêu cầu bên nhận quyền phải đáp ứng bất kỳ tiêu chuẩn cần thiết nào. Xem quy định của Hoa Kỳ về nhượng
quyền thương mại tại Chương 436 quy định về các vấn đề liên quan đến NQTM của Ủy ban thương mại liên
bang Hoa Kỳ (Part 436 – Disclosure requirements and prohibitions concerning franchising of Federal Trade
Commission).


10

những yếu tố trên. Khi phân tích quyền thương mại, chúng ta không thể tách các
yếu tố tạo nên quyền thương mại và xem xét chúng riêng lẽ, như những thực thể
độc lập vì sẽ khơng đúng bản chất của quyền thương mại trong hợp đồng
NQTM.
Quyền thương mại là một loại “hàng hóa” đặc biệt trong một loại hợp
đồng đặc thù. Giá trị của quyền thương mại là cơ sở chính yếu, là cái mà hai bên
tham gia hợp đồng hướng tới. Nó có ý nghĩa đảm bảo mang lại những lợi ích
nhất định theo mong muốn của bên nhận quyền. Quyền thương mại là một tài
sản vơ hình, có giá trị lớn hơn nhiều so với những giá trị vật chất, vật thể khách
quan thể hiện nó. Quyền thương mại, mà hạt nhân của nó là các tài sản trí tuệ
được bên nhượng quyền tạo ra, xây dựng trong nhiều năm, tốn nhiều cơng sức.
Vì vậy, trong hợp đồng NQTM, bên nhượng quyền thường đưa vào những điều
khoản nhằm bảo vệ thương hiệu và các quyền sở hữu tài sản trí tuệ khác của
mình. Đây là nguồn gốc dẫn đến những thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong hợp
đồng NQTM cũng như những quy định của pháp luật thừa nhận tính hợp pháp
một số thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong loại hợp đồng này.
- Quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng: Trong quy định pháp
luật các nước, một số quyền và nghĩa vụ quan trọng của các bên trong hợp đồng
NQTM được pháp quy làm cơ sở soạn thảo những hợp đồng cụ thể. Đa số các
quốc gia có điều kiện kinh tế xã hội tương tự Việt Nam như Trung Quốc,
Mailaixia… đều có luật riêng về NQTM, quy định rất chi tiết quyền và nghĩa vụ

của các bên tham gia hợp đồng nhượng quyền1. Trong khi đó, pháp luật Việt
Nam quy định khá ngắn gọn quyền và nghĩa vụ của bên nhượng quyền và bên
nhận quyền, mới chỉ đưa ra các khung pháp lý định hướng để các bên thỏa thuận
hợp đồng.

1

Xem thêm Luật NQTM Trung Quốc 2005: “Measures for the Administration of Commercial Franchise”; Luật
NQTM Malaixia 1998: “Act 590: Franchise Act 1998” bổ sung, sửa đổi năm 2006.


11

Trong các quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của các bên trong
hợp đồng NQTM, những quy định về nghĩa vụ của bên nhượng quyền là khá chi
tiết và khắt khe nhằm bảo vệ quyền lợi của bên nhận quyền. Điều này xuất phát
từ việc sự thành công của bên nhận quyền phụ thuộc rất nhiều vào quyền thương
mại nhận được từ bên nhượng quyền, sự trợ giúp, hỗ trợ nhiệt tình, hiệu quả hay
khơng từ bên nhượng quyền. Trong mối quan hệ hợp đồng, với những lợi thế của
mình, bên nhượng quyền thường là bên “mạnh thế” hơn, bên nhận quyền thường
là bên “yếu thế” hơn.
Những yếu tố đặc trưng về chủ thể của hợp đồng, đối tượng của hợp đồng,
quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng giúp cho hợp đồng nhượng quyền
trở thành một loại hợp đồng kinh doanh thương mại đặc biệt. Xuất phát từ tính
đặc biệt đấy, quyền lợi của các bên trong hợp đồng cũng biểu hiện riêng biệt so
với những loại hợp đồng kinh doanh thương mại khác. Đề tài sẽ phân tích khía
cạnh bảo vệ quyền lợi bên nhận quyền trong hợp đồng NQTM ở Việt Nam khi
phân tích những đặc điểm pháp lý cụ thể của loại hợp đồng này ở Việt Nam
trong những nội dung sau.
1.2. Quyền của bên nhận quyền trong hợp đồng nhƣợng quyền

thƣơng mại
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của bên nhận quyền trong hợp đồng
NQTM
Theo Nghị định 35/2006/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết Luật
Thương mại về hoạt động NQTM (Nghị định 35) thì “Bên nhận quyền là thương
nhân được nhận quyền thương mại, bao gồm cả bên nhượng quyền thứ cấp trong
mối quan hệ với bên nhận quyền thứ cấp”. Như vậy, theo quy định của pháp luật
Việt Nam, khái niệm “bên nhận quyền” bao hàm bên nhận quyền sơ cấp và bên
nhận quyền thứ cấp. Nghị định cũng đưa ra khái niệm “bên nhận quyền sơ cấp”
và “bên nhận quyền thứ cấp”.


12

Khoản 4 Điều 3 Nghị định 35 quy định “bên nhận quyền sơ cấp” là
“thương nhân nhận quyền thương mại từ bên nhượng quyền ban đầu”. Đồng
thời, Bên nhận quyền sơ cấp cũng có thể là bên nhượng quyền thứ cấp khi xét
trong mối quan hệ với “bên nhận quyền thứ cấp” (Theo khoản 3 Điều 3 Nghị
định 35). Như vậy, theo quy định này, chủ thể được đề cập trong Khoản 4 Điều 3
Nghị định 35 là bên nhận quyền xét trong mối quan hệ với bên nhượng quyền
ban đầu; nhưng nếu xét trong mối quan hệ với bên nhận quyền thứ cấp thì họ lại
đóng vai trị là bên nhượng quyền.
Khoản 5 Điều 3 Nghị định 35 quy định “bên nhận quyền thứ cấp” là
“thương nhân nhận lại quyền thương mại từ bên nhượng quyền thứ cấp”.
Quy định của pháp luật Việt Nam về bên nhận quyền thương mại có sự
tương đồng với quy định của các hệ thống pháp luật phổ biến trên thế giới.
Chẳng hạn, theo quy định tại Điều 2 Chương 436 về NQTM của Ủy ban thương
mại Liên Bang Hoa Kỳ, bên nhận quyền bao gồm bên nhận quyền sơ cấp và bên
nhận quyền thứ cấp (trong mối quan hệ của nó với bên nhượng quyền thứ cấp).
Tương tự như vậy, Điều 4, phần I, Luật NQTM Malaixia 1998 quy định “Bên

nhận quyền bao gồm: (a) bên nhận quyền sơ cấp (a master franchisee) trong mối
quan hệ với bên nhượng quyền, và (b) bên nhận quyền thứ cấp (a subfranchisee)
trong mối quan hệ với bên nhận quyền sơ cấp (master franchisee)”.
Xét về mặt chủ thể của quan hệ NQTM, bên nhận quyền phải có những
đặc điểm và đạt được những tiêu chuẩn nhất định để tham gia vào loại hợp đồng
đặc biệt này. Tùy theo quy định của từng hệ thống pháp luật mà tiêu chuẩn để trở
thành bên nhận quyền cũng có sự khác nhau đáng kể. Luật NQTM của Trung
Quốc năm 2005, tại Điều 8 quy định tiêu chuẩn của bên nhận quyền phải là: (1)
doanh nghiệp hoặc thực thể kinh tế được thành lập và hoạt động hợp pháp theo
pháp luật Trung Quốc; và (2) có đủ năng lực tài chính, trụ sở, nhân lực và các
tiêu chuẩn khác đáp ứng được điều kiện để thực hiện một hợp đồng NQTM. Bên
cạnh đấy, các hệ thống pháp luật của Mỹ, Châu Âu, Úc…lại có quan điểm


13

thoáng hơn về điều kiện trở thành bên nhận quyền khi không bắt buộc bên nhận
quyền phải là doanh nghiệp và không yêu cầu chứng minh về năng lực tài chính,
nhân sự… đảm bảo thực hiện thành cơng hợp đồng.
Việt Nam cũng đưa ra các điều kiện nhất định để một chủ thể trở thành
bên nhận quyền thương mại. Điều 6 nghị định 35 quy định điều kiện đối với Bên
nhận quyền: “là thương nhân được phép nhận quyền thương mại khi có đăng ký
kinh doanh ngành nghề phù hợp với đối tượng của quyền thương mại”.
Như vậy, bên nhận quyền theo pháp luật Việt Nam phải có tư cách thương
nhân. Điều 6 Luật Thương mại 2005 quy định thương nhân “bao gồm tổ chức
kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc
lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh”. So với pháp luật Trung Quốc, chỉ
các doanh nghiệp có đăng ký kinh doanh mới có thể trở thành bên nhận quyền,
thì pháp luật Việt Nam đã mở rộng diện đối tượng hơn- chủ thể có thể trở thành
bên nhận quyền khi có tư cách thương nhân.

Điều kiện thứ hai để trở thành bên nhận quyền là việc thương nhân phải
đăng ký kinh doanh ngành nghề phù hợp với đối tượng của quyền thương mại.
Điều này xuất phát từ quan điểm xây dựng pháp luật dân sự nói chung và luật
kinh tế nói riêng của Việt Nam hiện nay. Điều 86 Bộ luật Dân sự 2005 quy định
“năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân là khả năng của pháp nhân có các
quyền, nghĩa vụ dân sự phù hợp với mục đích hoạt động của mình”. Cụ thể hóa
dưới góc độ kinh doanh thương mại, khoản 1 Điều 9 Luật Doanh nghiệp 2005
quy định nghĩa vụ của doanh nghiệp phải “hoạt động kinh doanh theo đúng
ngành, nghề đã ghi trong Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; đảm bảo điều
kiện kinh doanh theo quy định của pháp luật khi kinh doanh nghành, nghề kinh
doanh có điều kiện”. Vì vậy, thương nhân muốn ký kết hợp đồng NQTM thì phải
đăng ký kinh doanh ngành, nghề phù hợp với đối tượng của hợp đồng nhượng
quyền đó. Ngược lại, hợp đồng nhượng quyền có thể vơ hiệu vì thương nhân
nhận quyền khơng có chức năng kinh doanh lĩnh vực mình nhận quyền.


14

Tóm lại, bên nhận quyền là một chủ thể có tư cách độc lập về mặt tài
chính, pháp lý và đầu tư. Họ phải đáp ứng được các yêu cầu về ngành nghề kinh
doanh, giấy phép kinh doanh các ngành nghề kinh doanh có điều kiện, chứng chỉ
hành nghề nhất định khi tham gia vào một quan hệ NQTM. Bên nhận quyền trở
thành một mắt xích trong chuỗi nhượng quyền nhưng tồn tại dưới một tên
thương mại riêng, một tư cách pháp lý hoàn toàn độc lập và chịu chấp nhận rủi
ro đối với số vốn bỏ ra để đầu tư của mình.
1.2.2. Quyền của bên nhận quyền
Liên quan đến hợp đồng NQTM gồm có nhiều chủ thể như bên nhượng
quyền, bên nhận quyền, bên thứ ba có liên quan. Về cơ bản, hợp đồng NQTM là
thỏa thuận giữa bên nhượng quyền và bên nhận quyền về quyền và nghĩa vụ của
mỗi bên, liên quan đến một đối tượng nhượng quyền nhất định. Pháp luật đa số

các quốc gia khi soạn thảo quy định pháp lý điều chỉnh hoạt động NQTM thường
ghi nhận những quyền sau của bên nhận quyền:
Thứ nhất, quyền được tiếp cận thông tin về bên nhượng quyền và hệ thống
nhượng quyền. Trong hoạt động kinh doanh thương mại, thơng tin có vai trị
quan trọng trong việc đưa ra quyết định đầu tư, kinh doanh, xây dựng chiến lược
và chiến thuật kinh doanh của doanh nghiệp. Vì vậy, để có thể đưa ra quyết định
trong kinh doanh đúng đắn thì bên nhận quyền phải có thơng tin về hệ thống
nhượng quyền, về bên nhượng quyền, đối tượng nhượng quyền và biết được
quyền cũng như nghĩa vụ các bên trong hợp đồng. Do vậy, đây là quyền đầu tiên
của bên nhận quyền được các quốc gia công nhận trong những văn bản pháp lý
chính thức điều chỉnh hoạt động NQTM. Tương ứng với quyền của bên nhận
quyền là nghĩa vụ cung cấp thông tin của bên nhượng quyền. Đa số pháp luật các
quốc gia đều yêu cầu bên nhượng quyền phải cung cấp cho bên nhận quyền rất
nhiều thơng tin trước, trong q trình thực hiện hợp đồng, trong đó có những


15

thông tin rất chi tiết về hệ thống nhượng quyền, tao ra “cửa sổ” để bên nhận
quyền nhìn vào và đánh giá bên nhượng quyền.
Thứ hai, bên nhận quyền có quyền yêu cầu bên nhượng quyền cung cấp
các đầy đủ trợ giúp kỹ thuật có liên quan đến hệ thống NQTM. Tham gia một hệ
thống nhượng quyền, bên nhận quyền mong muốn được kinh doanh theo cách
bên nhượng quyền kinh doanh và đã thành cơng. Hay nói cách khác, bên nhận
quyền muốn “sao in” phương thức kinh doanh của bên nhượng quyền. Đó là mục
đích chính đáng mà bên nhận quyền hướng tới trong hợp đồng. Hiện nay, đa số
pháp luật NQTM trên thế giới đều thừa nhận và ghi nhận quyền này của bên
nhận quyền trong các văn bản pháp quy.
Quyền yêu cầu bên nhượng quyền cung cấp đầy đủ các trợ giúp kỹ thuật
có liên quan đến hệ thống NQTM bao gồm quyền yêu cầu bên nhượng quyền

cung cấp dịch vụ tư vấn lựa chọn địa điểm kinh doanh, tư vấn thiết kế, trang trí;
quyền yêu cầu bên nhượng quyền cung cấp tài liệu hướng dẫn hoạt động của hệ
thống; quyền yêu cầu bên nhượng quyền cung cấp dịch vụ đào tạo cho bên nhận
quyền cách thức tổ chức hoạt động kinh doanh.
Thứ ba, bên nhận quyền có quyền yêu cầu bên nhượng quyền cam kết đảm
bảo quyền sử dụng hợp pháp các đối tượng sở hữu trí tuệ trong quyền thương
mại. Các đối tượng sở hữu trí tuệ như thương hiệu, nhãn hiệu hàng hoá là hạt
nhân trong quyền thương mại, là cái bên nhận quyền hướng tới đầu tiên khi mua
quyền thương mại, cũng là bộ phận quan trọng nhất quyết định giá cả của phí gia
nhập hệ thống nhượng quyền vì nó là tài sản quý giá nhất của bên nhượng quyền
được mang ra để kinh doanh. Vì vậy, bên nhận quyền bỏ một số tiền lớn để mua
quyền sử dụng các đối tượng sở hữu trí tuệ này nên họ có quyền u cầu bên
nhượng quyền phải chứng minh quyền sở hữu hợp pháp hoặc quyền định đoạt
hợp pháp những đối tượng sở hữu trí tuệ trên. Bên nhận quyền có quyền u cầu
bên nhượng quyền cung cấp các giấy tờ chứng minh tài sản trí tuệ đó là của bên
nhượng quyền, u cầu bên nhượng quyền xác nhận vấn đề này trong hợp đồng,


16

yêu cầu bên nhượng quyền cam kết sẽ thay mặt bên nhận quyền giải quyết khi có
tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ mà khơng để liên luỵ đến bên nhận quyền cũng
như đền bù thiệt hại cho bên nhận quyền khi bán cho bên nhận quyền các tài sản
sở hữu trí tuệ khơng phải của mình.
Thứ tư, bên nhận quyền có quyền yêu cầu bên nhượng quyền đối xử cơng
bằng, bình đẳng giống như với các thương nhân nhận quyền khác trong hệ thống.
Một bên nhượng quyền nhượng lại quyền thương mại cho nhiều bên nhận quyền
khác nhau. Mối quan hệ mật thiết, vừa giám sát vừa hỗ trợ chặt chẽ của bên
nhượng quyền cho bên dự kiến nhận quyền là đặc trưng của hoạt động nhượng
quyền để đảm bảo các bên nhận quyền đều kinh doanh đúng như cách kinh

doanh của bên nhượng quyền. Vì mục tiêu chung của bên nhượng quyền đối với
các bên nhận quyền là như nhau nên việc đối xử của bên nhượng quyền đối với
các bên nhượng quyền phải như nhau về khía cạnh kiểm soát cũng như hỗ trợ.
Thứ năm, bên nhận quyền có quyền yêu cầu bên nhượng quyền bồi
thường thiệt hại khi vi phạm các nghĩa vụ của hợp đồng, có quyền phạt hợp đồng
theo quy định của pháp luật thương mại khi bên nhượng quyền không thực hiện
đúng và đủ nghĩa vụ của mình.
Thứ sáu, bên nhận quyền có quyền căn cứ vào quy định về các trường hợp
bên nhận quyền có quyền chấm dứt hợp đồng trước thời hạn theo quy định của
pháp luật, hay theo thoả thuận trong hợp đồng.
Thứ bảy, bên nhận quyền có quyền đề nghị gia hạn hợp đồng trong thời
gian hợp lý trước khi hợp đồng kết thúc, yêu cầu cơ quan nhà nước có chế tài đối
với bên nhượng quyền khi khơng gia hạn mà khơng có lý do chính đáng hoặc đòi
hỏi những điều kiện hợp đồng mới bất hợp lý.
Thứ tám, bên nhận quyền có quyền căn cứ vào các điều khoản xử lý vi
phạm trong hợp đồng nhượng quyền để thực hiện các biện pháp tố tụng kiện bên


17

nhượng quyền lên các cơ quan tố tụng dân sự nhằm bảo vệ quyền lợi của mình
trước các vi phạm của bên nhượng quyền.
Mối quan hệ giữa bên nhượng quyền và bên nhận quyền là rất chặt chẽ,
xuất phát từ đặc thù của hình thức kinh doanh theo dạng chuỗi. Năng lực và vai
trị của bên nhận quyền có ý nghĩa quan trọng để đảm bảo cho sự hợp tác được
hiệu quả, đảm bảo sự đồng nhất của một chuỗi nhượng quyền – yếu tố quyết
định đến sự thành công cũng như lợi nhuận của cả hai bên.
1.3. Các phƣơng thức bảo vệ quyền của bên nhận quyền
Quyền của bên nhận quyền là một trong các quyền dân sự cơ bản của một
bên trong hợp đồng NQTM luôn được pháp luật tôn trọng và bảo vệ, được thể

hiện trên hai phương diện: Ở phương diện thứ nhất, nhằm đảm bảo cho một hợp
đồng đạt được những tiêu chuẩn nhất định về chủ thể, đối tượng, nội dung … thì
pháp luật chủ yếu sử dụng các quy định có tính chất hành chính nhằm quy định
những điều kiện, điều khoản bắt buộc phải được ghi nhận và ghi nhận như thế
nào cho hợp lý, bảo vệ được quyền lợi chính đáng của hai bên, trong đó có bên
nhận quyền trong hợp đồng. Trên phương diện thứ hai, để điều chỉnh các vấn đề
pháp lý phát sinh từ hợp đồng thì phương tiện quan trọng để bảo vệ quyền của
bên nhận quyền chủ yếu thơng qua vai trị của hệ thống tố tụng dân sự và hình
sự.
Trên thực tế có nhiều khả năng bên nhận quyền sẽ bị xâm phạm quyền của
mình. Chính vì lẽ đó mà Nhà nước đã có những quy định về việc bảo vệ quyền
của bên nhận quyền thông qua các phương thức bảo vệ quyền khác nhau.
Phương thức bảo vệ quyền của bên nhận quyền chính là các biện pháp tác động
bằng pháp luật đối với các hành vi xử sự của con người, ngăn ngừa những hành
vi xâm hại đến bên nhận quyền khi người này hành xử quyền của mình. Việc bảo
vệ quyền của bên nhận quyền được pháp luật được quy định thông qua nhiều
biện pháp được quy định trong các văn bản pháp luật về nhượng quyền thương


18

mại như Luật Thương mại 2005, Nghị định 35, Thông tư 09… trong đó tập trung
sử dụng ba biện pháp là biện pháp hành chính, hình sự và dân sự.
Các quy định quản lý có tính chất hành chính bảo vệ quyền của bên nhận
quyền thông qua việc quy định những tiêu chuẩn đối với một thương nhân có ý
định nhượng quyền thương mại. Khi đạt được những tiêu chuẩn theo luật định
thì mới được phép kinh doanh theo hình thức nhượng quyền. Đồng thời biện
pháp hành chính cịn được thể hiện rõ qua hoạt động đăng ký hoạt động nhượng
quyền với cơ quan nhà nước có thẩm quyền của bên nhượng quyền. Các biện
pháp quản lý hành chính này vừa thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với

hoạt động nhượng quyền vừa gián tiếp bảo vệ quyền được nhận một quyền
thương mại thật và hợp pháp khi mà thơng qua các biện pháp hành chính, cơ
quan nhà nước sẽ tiến hành xác minh tính trung thực của thương hiệu và thông
tin mà bên nhượng quyền đăng ký.
Đồng thời quy định hành chính cũng được sử dụng để bảo vệ quyền nhận
được thông tin của bên nhận quyền khi quy định bên nhượng quyền phải có
nghĩa vụ cung cấp những thông tin nhất định cho bên nhận quyền. Pháp luật đã
hành chính hố nghĩa vụ cung cấp thơng tin của bên nhượng quyền bằng cách
yêu cầu bên nhượng quyền phải cung cấp những cơ sở dữ liệu như Bản giới thiệu
nhượng quyền thương mại và Hợp đồng mẫu cho bên nhận quyền xem xét. Pháp
luật cũng ban hành một Phụ lục trong Thông tư 09 để quy định rõ những thơng
tin nào sẽ phải có trong Bản giới thiệu nhượng quyền thương mại mà bên
nhượng quyền biên soạn để gửi cho cơ quan quản lý nhà nước cũng như cho bên
nhận quyền. Thông qua quy định này sẽ bảo vệ quyền được nhận thông tin của
bên nhận quyền.
Luật hành chính cũng quy định về các biện pháp hành chính mà Nhà nước
được sử dụng để thực hiện việc bảo vệ quyền của bên nhận quyền khi có hành vi
xâm phạm quyền này như các biện pháp xử phạt hành chính. Chủ thể thực hiện


19

quyền bảo vệ này chính là các cơ quan Nhà nước và trong một số trường hợp
nhất định thì Tồ án cũng là chủ thể sử dụng các biện pháp hành chính nhằm bảo
vệ quyền của bên nhận quyền.
Một khía cạnh khác của biện pháp hành chính được sử dụng trong bảo vệ
quyền lợi của bên nhận quyền là việc nhà nước quy định những quyền và nghĩa
vụ bắt buộc của hai bên tham gia nhượng quyền phải được ghi nhận trong hợp
đồng. Hay nói cách khác, luật mặc định bên nhận quyền có những quyền và bên
nhượng quyền có những nghĩa vụ nhằm đảm bảo quyền cho bên nhận quyền

trong quy định của pháp luật và được bảo vệ đương nhiên trước pháp luật mặc
cho bên nhượng quyền muốn hay khơng.
Nhiều hệ thống pháp luật bảo vệ quyền có được một hợp đồng đủ dài cho
bên nhận quyền bằng cách quy định thời hạn tối thiểu cho một hợp đồng NQTM,
bảo vệ quyền được ưu tiên gia hạn hợp đồng của bên nhận quyền bằng các quy
định ưu tiên gia hạn hợp đồng và chế tài đối với bên nhượng quyền từ chối gia
hạn khơng có lý do chính đáng, bảo vệ quyền chuyển nhượng hợp đồng NQTM
khi quy định những trường hợp nhất định mà bên nhượng quyền có quyền từ
chối đề nghị này của bên nhận quyền, ngồi các trường hợp này thì khơng được
ngăn cản bên nhận quyền thực hiện quyền của mình.
Khác với các biện pháp bảo vệ quyền của bên nhận quyền do luật hành
chính, chủ thể thực hiện hành vi bảo vệ quyền của bên nhận quyền do Nhà nước
thực hiện thì thơng qua biện pháp dân sự, bên nhận quyền có thể dùng các
phương thức dân sự để tự bảo vệ quyền hoặc yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm
quyền bảo vệ quyền cho mình.
Luật Thương mại 2005 quy định bên nhận quyền có quyền yêu cầu bên
nhượng quyền cung cấp cho mình thơng tin về hệ thống nhượng quyền để xem
xét; quyền yêu cầu bên nhượng quyền chuyển giao quyền thương mại và các trợ
giúp kỹ thuật liên quan như bản hướng dẫn hoạt động, dịch vụ đào tạo, dịch vụ


20

tư vấn thiết kế… và thực hiện đúng, đủ các nghĩa vụ của mình theo quy định của
pháp luật để đảm bảo quyền của mình.
Luật Thương mại 2005 cũng quy định bên nhận quyền có quyền sử dụng
các biện pháp dân sự để yêu cầu bên nhượng quyền đảm bảo quyền sở hữu các
đối tượng sở hữu trí tuệ bằng các bằng chứng, văn bản, cam kết và chịu trách
nhiệm giải quyết tranh chấp về sở hữu trí tuệ khi nó phát sinh.
Biện pháp dân sự cịn cho phép bên nhận quyền bảo vệ quyền của mình

bằng việc đề nghị bên nhượng quyền gia hạn hợp đồng, bồi thường thiệt hại khi
thực hiện những thay đổi trong hệ thống nhượng quyền ảnh hưởng tiêu cực tới
hoạt động kinh doanh của mình.
Quy định của pháp luật dân sự cho phép bên nhận quyền yêu cầu bên
nhượng quyền bồi thường thiệt hại, phạt hợp đồng, đơn phương chấm dứt hợp
đồng nếu bên nhượng quyền vi phạm các nghĩa vụ mà mình đã cam kết và vi
phạm pháp luật trong hoạt động NQTM theo điều 24 Nghị định 35.
Bên cạnh quyền tự bảo vệ, pháp luật dân sự còn quy định cho bên nhận
quyền có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền khác buộc người có
hành vi xâm phạm quyền của mình phải khơi phục quyền, đền bù thiệt hại hoặc
chịu các chế tài khác của pháp luật. Những phương thức này gọi chung là
phương thức kiện dân sự- phương thức được áp dụng khi bên nhận quyền không
thể tự mình bảo vệ được quyền của mình trước hành vi xâm hại của chủ thể khác
gây ảnh hưởng tới việc thực hiện quyền của mình. Bên nhận quyền có quyền
kiện dân sự bên nhượng quyền khi họ thực hiện không đúng, đủ nghĩa vụ của
mình, vi phạm các quy định về sở hữu trí tuệ, “ép” bên nhận quyền ký các thỏa
thuận hạn chế cạnh tranh…
Quy định hình sự bảo vệ quyền của bên nhận quyền thông qua việc quy
định những hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm phạm quyền của bên nhận quyền


21

đến một mức độ nhất định bị coi là tội phạm và quy định các mức hình phạt
tương đương. Quy định hình sự thơng thường bảo vệ quyền lợi của bên nhận
quyền trước các thương nhân có hoạt động lừa đảo sử dụng phương thức NQTM,
hoặc vi phạm các quy định về sở hữu trí tuệ đến mức phải truy cứu trách nhiệm
hình sự.



22

CHƢƠNG 2:
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT BẢO VỆ QUYỀN CỦA BÊN NHẬN QUYỀN
TRONG HỢP ĐỒNG NHƢỢNG QUYỀN THƢƠNG MẠI Ở VIỆT NAM
NQTM phát triển rất nhanh trên thế giới trong những thập niên gần đây,
mang lại lợi ích to lớn về mặt kinh tế và hội nhập quốc tế cho các cường quốc về
NQTM như Mỹ, Trung Quốc, Úc…Ở Việt Nam, mặc dù chỉ mới xuất hiện từ
những năm 90 của thế kỷ XX, nhưng hoạt động nhượng quyền đã có những bước
phát triển mạnh mẽ vượt bậc. Các doanh nghiệp Việt Nam nhanh chóng nhận
thức được lợi ích to lớn cũng như một hướng phát triển mới từ hình thức thương
mại này. Vì vậy, thời gian qua có hai xu hướng lớn của NQTM phát triển mạnh ở
Việt Nam: nhận quyền thương mại từ các thương hiệu nổi tiếng trên thế giới và
tự xây dựng thành thương hiệu mạnh để nhượng quyền trong nước, chiếm lĩnh
thị trường. Một xu hướng khác cũng đã manh nha xuất hiện và hứa hẹn có bước
đột phá trong tương lai: NQTM từ Việt Nam ra nước ngoài.
Những doanh nghiệp Việt Nam tiên phong trong việc phát hiện và áp dụng
hình thức kinh doanh NQTM có thể kể đến Trung Nguyên, Phở 24, AQ silk,
Kinh Đô... Trung Nguyên là nhãn hiệu Việt đã thu được những kết quả kinh
doanh to lớn từ việc áp dụng mơ hình NQTM để mở rộng quy mơ kinh doanh,
phát triển thương hiệu, chiếm lĩnh thị trường nội địa. Trung Nguyên cũng là
doanh nghiệp đầu tiên xây dựng một quy trình kinh doanh rõ ràng với những quy
chuẩn về kỹ thuật để đảm bảo hệ thống nhượng quyền đạt được sự đồng nhất
cao. Thương hiệu Việt tiếp theo áp dụng mơ hình NQTM làm chiến lược phát
triển kinh doanh chính là Phở 24 của tiến sĩ Lý Quý Trung. Trên cơ sở rút kinh
nghiệm từ thành công và hạn chế của thương hiệu Trung Nguyên khi tiến hành
nhượng quyền cộng với việc nghiên cứu tài liệu, kinh nghiệm quốc tế, Phở 24 đã
xây dựng được cho mình một lộ trình kinh doanh nhượng quyền hiệu quả. Vì
vậy, hiện nay, Phở 24 đã gặt hái được những thành quả to lớn với một chuổi các
cửa hàng nhượng quyền trong và ngoài nước. Tiến sĩ Lý Quý Trung cũng là một



23

nhà nghiên cứu tiên phong về lý luận NQTM, là tác giả của hai cuốn sách khảo
cứu về NQTM đã được xuất bản ở Việt Nam1.
Song song với quá trình nhận thức ngày càng sâu sắc hơn về giá trị của
thương hiệu và hiệu quả kinh tế từ kinh doanh thương hiệu của doanh nghiệp
Việt Nam, các thương nhân Việt Nam cũng nhận thức được cơ hội tham gia kinh
doanh từ việc trở thành một bên nhận quyền của một thương hiệu nước ngồi.
Hay nói cách khác, ngày nay có nhiều doanh nghiệp Việt Nam muốn khởi
nghiệp kinh doanh bằng cách mua quyền sử dụng các thương hiệu nổi tiếng ở
nước ngoài để kinh doanh ở thị trường nội địa. Trong xu hướng tồn cầu hóa của
nền kinh tế thế giới và xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế, hoạt động nhận quyền
thương mại của doanh nghiệp Việt Nam được chính phủ và xã hội khuyến khích
phát triển. Hoạt động này cũng đáp ứng được nhu cầu đa dạng về các hình thức
kinh doanh trong nền kinh tế để các thương nhân lựa chọn đồng thời đã đóng
góp những thông số to lớn cho sự phát triển kinh tế quốc gia hàng năm2.
Các yếu tố trên là tiền đề quan trọng thúc đẩy hoạt động nhận quyền
thương mại của các thương hiệu lớn trên thế giới ở Việt Nam những năm gần
đây diễn ra rất sôi động. Theo thống kê, hiện nay Việt Nam có hơn 70 hệ thống
NQTM, trong đó hoạt động nhận quyền của thương nhân Việt Nam là chiếm đa
số. Chúng ta có thể kể đến những thương hiệu nổi tiếng thế giới đã được thương
nhân Việt Nam mua quyền sử dụng để kinh doanh như: các thương hiệu trong
ngành công nghiệp thực phẩm KFC, Lotteria, Jollibbe, hệ thống khách sạn
Sheraton, trà Dilmah, Qualitea...3.
Là một hình thức thương mại mới ở Việt Nam, nên đến Luật Thương mại
2005, chúng ta mới luật hóa và hình thành hành lang pháp lý có tính hệ thống
1


Xem thêm Lý Quý Trung: Mua franchise-Cơ hội mới cho các doanh nghiệp Việt Nam và Bí quyết thành cơng
bằng mơ hình nhượng quyền kinh doanh, NXB Trẻ, 2006.
2
Tổng doanh thu của hoạt động NQTM năm 2011 là 642 tỉ, tốc độ tăng trưởng của hoạt động NQTM trung bình
từ 20-30%/năm. Nguồn: Kinh doanh theo chuỗi, đường rộng nhưng không dễ đi, www.vietfranchise.com, 2012.
3
Nguồn: Việt Nam có sức hút lớn về NQTM, www.xaluan.com, 2012.


24

đầu tiên để điều chỉnh các hoạt động NQTM. Trước đó, hoạt động NQTM được
xem là một hình thức cấp phép đặc quyền kinh doanh, được quy định ngắn gọn
trong các văn bản dưới luật do Chính phủ ban hành nhằm giải quyết các vấn đề
có tính chất tức thời, cấp bách, chạy theo các sự kiện thực tế.
Luật Thương mại 2005 quy định về hoạt động NQTM ở mục 8, chương VI
gồm tám điều (từ Điều 284 đến Điều 291) nêu ra những vấn đề có tính chất quan
trọng, cốt yếu nhất. Sau đó Chính phủ ban hành Nghị định 35/2006/NĐ-CP chi
tiết hóa các quy định của Luật Thương mại về hoạt động NQTM, Bộ Thương
mại ban hành Thông tư 09/2006/TT-BTM hướng dẫn đăng ký hoạt động NQTM
đã cơ bản hình thành một hành lang pháp lý khá vững chắc cho hoạt động này.
Xuất phát từ bản chất mối quan hệ giữa bên nhượng quyền và bên nhận
quyền cũng như nhu cầu thực tế bảo vệ quyền lợi số lượng nhà nhận quyền đông
đảo của Việt Nam, pháp luật Việt Nam có những quy định chú trọng đến việc
bảo vệ quyền lợi chính đáng của bên nhận quyền. Điều này cũng phù hợp với ý
chí làm luật của đa số các hệ thống pháp luật khác trên thế giới. Tuy nhiên, do hệ
thống văn bản quy phạm pháp luật về NQTM ở Việt Nam mới hình thành, cịn
nhiều điểm sơ sài, nhiều văn bản pháp luật cùng điều chỉnh nên còn mâu thuẫn
lẫn nhau, một số lỗi trong kỹ thuật lập pháp… mà pháp luật Việt Nam về bảo vệ
quyền lợi của bên nhận quyền còn một số tranh cãi. Những quy định cụ thể của

pháp luật bảo vệ bên nhận quyền thể hiện ở các khía cạnh cụ thể sau:
2.1. Quyền của bên nhận quyền nhận đƣợc thông tin về hệ thống
nhƣợng quyền
Một trong những vấn đề đặt ra gây trở ngại cho một quan hệ hợp đồng
NQTM cụ thể và hoạt động NQTM nói chung là tính mất cân xứng về thông tin
và quyền lực giữa bên nhượng quyền và bên nhận quyền. Bên nhượng quyền
thường có thời gian tham gia thương trường lâu hơn (để có thể hình thành và xây
dựng được một phương thức kinh doanh hiệu quả, một thương hiệu có giá trị
kinh tế cao), nắm giữ đối tượng quan trọng nhất của hợp đồng mà bên nhận


25

quyền hướng đến (quyền thương mại), là người chủ động xây dựng và hướng
thương hiệu của mình đến hoạt động NQTM để phát triển hệ thống. Vì thế, bên
nhượng quyền có quyền lực và thơng tin nhiều hơn bên nhận quyền, tạo nên sự
mất cân xứng trong tương quan giữa hai bên.
Ở một góc độ khác, khi tiến hành mua quyền thương mại, bên nhận quyền
phụ thuộc rất nhiều vào bên nhượng quyền. Sự phụ thuộc này là thường xuyên,
liên tục bởi bên nhượng quyền luôn đặt ra các yêu cầu kiểm soát khắt khe đối với
cơ sở kinh doanh nhượng quyền để đảm bảo tính hệ thống. Đồng thời, khi ký
hợp đồng NQTM, bên nhận quyền phải trả một khoản phí lớn cho bên nhượng
quyền – phí gia nhập hệ thống nhượng quyền cũng như đầu tư một khoản kinh
phí lớn vào cơ sở hạ tầng, thuê mặt bằng, trang trí...cho cửa hàng kinh doanh
nhượng quyền. Chắc chắn đây là “món” đầu tư khơng nhỏ của các nhà nhận
quyền. Vì vậy, yêu cầu cần thiết đối với bên nhận quyền là nắm được nhiều
thông tin, nghiên cứu kỹ các thơng tin về đối tượng mà mình sắp đầu tư để xem
xét, suy tính cẩn thận trước khi quyết định có bỏ ra một số lượng lớn tài chính
đầu tư vào đó hay khơng. Đây là một quyền lợi rất chính đáng mà bên nhận
quyền phải có.

Hơn nữa, trong bất cứ hình thức kinh doanh nào cũng có nhiều đối tượng
lợi dụng để tiến hành các hoạt động phi pháp. NQTM cũng không phải là một
ngoại lệ. Đặc điểm của NQTM là một hình thức kinh doanh mới, dựa vào lòng
tin của bên nhận quyền về giá trị của một thương hiệu (có thể đến từ một quốc
gia xa xơi nào đó), bên nhận quyền phải trả một khoản phí ban đầu khá lớn... là
những điều kiện thuận lợi để thương nhân không đạo đức lừa bịp thương nhân
mong muốn nhận quyền ít kinh nghiệm, thiếu thơng tin và cả tin. Cho nên pháp
luật Việt Nam cũng như đa số các nước khác đều yêu cầu bên nhượng quyền
phải cung cấp rất nhiều tài liệu theo mẫu để bên nhận quyền xem xét. Thông qua
các thông tin này, bên nhận quyền có thể đánh giá đó có phải là bên nhượng
quyền đáng tin cậy khơng, thương hiệu có uy tín khơng, phương thức kinh doanh
có chặt chẽ, hiệu quả khơng.


×