Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

Thủ tục khởi kiện và thụ lý vụ án dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1 MB, 100 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT

NGUYỄN LÊ XUÂN UYÊN

THỦ TỤC KHỞI KIỆN VÀ THỤ LÝ VỤ ÁN DÂN SỰ

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2019


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT

NGUYỄN LÊ XUÂN UYÊN

THỦ TỤC KHỞI KIỆN VÀ THỤ LÝ VỤ ÁN DÂN SỰ

Ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số: 60.38.01.03

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS NGUYỄN THỊ HỒNG NHUNG

TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi và được sự


hướng dẫn khoa học của PGS.TS Nguyễn Thị Hồng Nhung. Các nội dung nghiên
cứu, kết quả trong đề tài này là trung thực và chưa cơng bố dưới bất kỳ hình thức
nào trước đây.
Ngồi ra, trong Luận văn cịn sử dụng một số nhận xét, đánh giá cũng như số
liệu của tác giả khác, cơ quan tổ chức khác đều có trích dẫn và chú thích nguồn gốc.
Nếu phát hiện bất kỳ sự gian lận nào tơi xin hồn tồn chịu trách nhiệm về nội dung
luận văn của mình. Trường đại học Kinh tế - Luật không liên quan đến những vi
phạm tác quyền, bản quyền do tơi gây ra trong q trình thực hiện (nếu có).
TÁC GIẢ

NGUYỄN LÊ XUÂN UYÊN


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC

Trang

PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu .................................................................................... 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu................................................................. 3
4. Mục đích nghiên cứu ..................................................................................... 4
5. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 4
6. Ý nghĩa lý luận và giá trị thực tiễn của đề tài ............................................... 5
7. Bố cục luận văn ............................................................................................. 5
CHƯƠNG 1. THỦ TỤC KHỞI KIỆN VỤ ÁN DÂN SỰ TRONG PHÁP
LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH .............................. 7
1.1. Khái quát chung về thủ tục khởi kiện vụ án dân sự ................................... 7

1.1.1. Khái niệm khởi kiện vụ án dân sự .......................................................... 7
1.1.2. Ý nghĩa của khởi kiện vụ án dân sự ...................................................... 10
1.1.3. So sánh thủ tục khởi kiện trong pháp luật tố tụng dân sự với các lĩnh
vực khác

.......................................................................................................... 12

1.1.3.1. So sánh thủ tục khởi kiện trong tố tụng dân sự với thủ tục khởi kiện
trong tố tụng hành chính ................................................................................. 12
1.1.3.2. So sánh thủ tục khởi kiện trong tố tụng dân sự với thủ tục khởi kiện
tại trọng tài thương mại ................................................................................... 14
1.2. Chủ thể khởi kiện vụ án dân sự ................................................................ 16


1.2.1. Quy định pháp luật hiện hành ............................................................... 17
1.2.1.1. Quyền khởi kiện vụ án dân sự............................................................ 17
1.2.1.2. Năng lực hành vi tố tụng dân sự của chủ thể ..................................... 20
1.2.2. Thực trạng giải quyết của Tòa án nhân dân tại Thành phố Hồ Chí Minh
và một số bất cập trong việc áp dụng quy định pháp luật. .............................. 23
1.2.3. Kiến nghị hồn thiện pháp luật ............................................................. 27
1.3. Hình thức và phương thức nộp đơn khởi kiện vụ án dân sự .................... 28
1.3.1. Quy định pháp luật hiện hành ............................................................... 28
1.3.1.1. Hình thức đơn khởi kiện .................................................................... 28
1.3.1.2. Phương thức nộp đơn khởi kiện ......................................................... 30
1.3.2. Thực trạng giải quyết của Tịa án nhân dân tại Thành phố Hồ Chí Minh
và một số bất cập trong việc áp dụng quy định pháp luật ............................... 33
1.3.2.1. Hình thức đơn khởi kiện .................................................................... 33
1.3.2.2. Phương thức nộp đơn khởi kiện ......................................................... 37
1.3.3. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật ............................................................. 40
1.4. Tài liệu, chứng cứ chứng minh quyền khởi kiện ..................................... 41

1.4.1. Quy định pháp luật hiện hành ............................................................... 41
1.4.2. Thực trạng giải quyết của Tịa án nhân dân tại Thành phố Hồ Chí Minh
và một số bất cập trong việc áp dụng quy định pháp luật ............................... 44
1.4.3. Kiến nghị hoàn thiện ............................................................................. 47
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 .............................................................................. 49
CHƯƠNG 2. THỦ TỤC THỤ LÝ VỤ ÁN DÂN SỰ TRONG PHÁP
LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH ............................ 50


2.1. Khái quát chung về thủ tục thụ lý vụ án dân sự ....................................... 50
2.1.1. Khái niệm về thụ lý vụ án dân sự.......................................................... 50
2.1.2. Ý nghĩa thụ lý vụ án dân sự .................................................................. 51
2.1.3. Mối quan hệ giữa thủ tục khởi kiện và thủ tục thụ lý vụ án dân sự trong
pháp luật tố tụng dân sự hiện hành.................................................................. 53
2.2. Thụ lý đơn khởi kiện ................................................................................ 54
2.2.1. Quy định pháp luật hiện hành ............................................................... 54
2.2.1.1. Thẩm quyền giải quyết của Tòa án đối với vụ án dân sự .................. 54
2.2.1.2. Yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện ............................................ 59
2.2.1.3. Thụ lý vụ án ....................................................................................... 61
2.2.2. Thực trạng giải quyết của Tòa án nhân dân tại Thành phố Hồ Chí Minh
và một số bất cập trong việc áp dụng quy định pháp luật ............................... 63
2.2.3. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật.............................................................. 72
2.3. Chuyển đơn khởi kiện .............................................................................. 73
2.3.1. Quy định pháp luật hiện hành ............................................................... 73
2.3.2. Thực trạng giải quyết của Tòa án nhân dân tại Thành phố Hồ Chí Minh
và một số bất cập trong việc áp dụng pháp luật .............................................. 74
2.3.3. Kiến nghị hoàn thiện ............................................................................. 75
2.4. Trả đơn khởi kiện ..................................................................................... 76
2.4.1. Quy định pháp luật hiện hành ............................................................... 76
2.4.2. Thực trạng giải quyết của Tịa án nhân dân tại Thành phố Hồ Chí Minh

và một số bất cập trong việc áp dụng quy định pháp luật ............................... 80
2.4.3. Kiến nghị hoàn thiện ............................................................................. 84


KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 .............................................................................. 86
KẾT LUẬN .................................................................................................... 87
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Quan hệ dân sự giữ vai trò quan trọng trong đời sống hằng ngày, là mối quan
hệ phát sinh chủ yếu giữa các chủ thể, góp phần phát triển kinh tế - xã hội. Do đó,
quyền dân sự là một quyền cơ bản của công dân, được pháp luật Việt Nam thừa
nhận và bảo vệ. Trong quá trình tham gia vào quan hệ dân sự thì quyền dân sự
thường bị xâm phạm, gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể.
Để bảo vệ quyền dân sự của các chủ thể, pháp luật có quy định những biện pháp
bảo đảm quyền dân sự như hòa giải, trọng tài, hành chính... Nhưng quan trọng và
ưu biệt hơn cả trong các biện pháp bảo vệ đó là biện pháp khởi kiện vụ án theo trình
tự thủ tục tố tụng dân sự, là biện pháp bảo vệ với sự can thiệp, giải quyết của Tòa án
đối với tranh chấp phát sinh nhằm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ
thể khi bị xâm phạm. Đây là biện pháp hữu hiệu và có tính khả thi cao để giải quyết
các tranh chấp dân sự phát sinh nhằm đảm bảo quyền và lợi ích của các chủ thể
trong quan hệ dân sự.
Thủ tục khởi kiện và thụ lý vụ án là giai đoạn ban đầu trong tố tụng, mở đầu
thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm. Đây chính là điều kiện để Tịa án
xác định các nội dung về quyền khởi kiện của các chủ thể; thẩm quyền giải quyết

của Tịa án; hình thức, nội dung đơn khởi kiện và các tài liệu chứng cứ nộp kèm
theo đơn với mục đích nhằm để quyết định trả đơn, chuyển đơn hay thụ lý vụ án và
tiến hành các thủ tục tố tụng để giải quyết các tranh chấp phát sinh theo quy định
của pháp luật.
Xuất phát từ vai trò quan trọng của giai đoạn khởi kiện và thụ lý vụ án trong
thủ tục tố tụng tại Tòa án cùng với những bất cập, thiếu sót của quy định pháp luật
hiện hành khi áp dụng vào thực tiễn nên đòi hỏi phải nghiên cứu các quy định về
thủ tục khởi kiện và thụ lý vụ án dân sự trong pháp luật Việt Nam một cách toàn
diện, sâu sắc và đầy đủ nhằm góp phần hồn thiện pháp luật tố tụng dân sự Việt


2

Nam. Với những lý do đó, việc nghiên cứu đề tài “thủ tục khởi kiện và thụ lý vụ án
dân sự” mang ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn sâu sắc.

2. Tình hình nghiên cứu
Trong khoa học pháp lý từ trước đến nay, nội dung pháp luật về thủ tục khởi
kiện và thụ lý vụ án dân sự khơng phải là một vấn đề mới, đã có nhiều cơng trình
nghiên cứu liên quan đến chế định về nội dung này nhưng phạm vi nghiên cứu
thường tập trung chủ yếu vào quyền khởi kiện của công dân và thẩm quyền giải
quyết của Tòa án đối với các tranh chấp về dân sự như “Thủ tục khởi kiện và giải
quyết tranh chấp tại Tòa án, trọng tài cơ chế hiện hữu bảo vệ quyền dân sự” của
tác giả Nguyễn Thị Hồi Phương, năm 2011, có nội dung nghiên cứu về nguyên tắc
bảo vệ quyền dân sự tại Tòa án, trọng tài, quyền khởi kiện tại Tòa án, thời hiệu khởi
kiện tại Tòa án, thủ tục tranh chấp tại Tòa án, thủ tục khởi kiện và giải quyết tranh
chấp tại trọng tài thương mại. Bên cạnh đó, một số bài viết khoa học pháp lý thể
hiện quan điểm của tác giả về một nội dung hay bất cập trong thực hiện các quy
định thuộc chế định thủ tục khởi kiện và thụ lý vụ án dân sự. Tuy nhiên, các cơng
trình nghiên cứu chủ yếu được thực hiện trước khi Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015

ra đời.
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 được Quốc hội Khóa XII, kỳ họp thứ 10
thơng qua ngày 25/11/2015, có hiệu lực từ ngày 01/7/2016. Như vậy, đến thời điểm
hiện tại thì Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 đã gần ba năm được áp dụng vào thực
tiễn giải quyết vụ án dân sự tại Tịa án. Có một số cơng trình nghiên cứu đã được
thực hiện như:
“Giáo trình luật tố tụng dân sự Việt Nam” của trường Đại học Kinh tế - Luật
Thành phố Hồ Chí Minh, Nguyễn Thị Hồng Nhung chủ biên có nội dung nghiên
cứu lý luận và các quy định pháp luật tố tụng dân sự năm 2015, trong đó có các
chương cụ thể về thẩm quyền giải quyết của Tòa án, thủ tục nhận đơn và thụ lý vụ
việc dân sự.


3

“Bình luận những điểm mới trong Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015” của
Nguyễn Thị Hoài Phương và tập thể tác giả, năm 2015 có nội dung so sánh và đánh giá
những điểm mới của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 trên cơ sở quy định pháp luật;
“Bình luận khoa học bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 : Dành cho thẩm
phán, hội thẩm, thẩm tra viên, kiểm sát viên, luật sư và các học viên tư pháp” của
tác giả Đoàn Tấn Minh, Nguyễn Ngọc Điệp, năm 2016, cơng trình nghiên cứu dựa
trên việc tổng kết kinh nghiệm xét xử của cá nhân, các tác giả đã kiến giải nhiều vấn
đề phức tạp, giải thích chi tiết và sát với thực tế từng điều luật nhưng nội dung
nghiên cứu liên quan đến thủ tục nhận đơn khởi kiện và thụ lý vụ án cũng chiếm
một phần nhỏ trong nội dung nghiên cứu.
Tuy vậy, các cơng trình đã đề cập như trên chỉ mới dừng lại ở việc nghiên
cứu một cách khái quát về những điểm mới của thủ tục khởi kiện và thụ lý vụ án
dân sự và tiếp cận một cách riêng lẻ mà chưa có sự liên kết giữa hai chế định khởi
kiện và thụ lý trong một đề tài nghiên cứu khoa học thống nhất. Đồng thời, các tác
giả chủ yếu dựa trên cơ sở lý luận để phân tích và so sánh các quy định pháp luật,

chưa đề cập đến việc vận dụng các quy định pháp luật vào thực tiễn tại Tịa án. Với
thực tiễn tình hình nghiên cứu như trên, đề tài "Thủ tục khởi kiện và thụ lý vụ án
dân sự", lần đầu tiên được nghiên cứu những quy định về thủ tục khởi kiện và thụ lý
vụ án trong Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 trên phương diện chuyên sâu, bao
quát và đảm bảo tính hệ thống, khơng có sự trùng lặp với các cơng trình nghiên cứu
khoa học đã được công bố.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Nghiên cứu các quy định chung về thủ tục
khởi kiện và thụ lý vụ án dân sự được ghi nhận trong pháp luật tố tụng dân sự Việt
Nam hiện hành.
Phạm vi nghiên cứu: Trong phạm vi cơng trình nghiên cứu, tác giả chủ yếu
tập trung các quy định chung và đặc thù về thủ tục khởi kiện và thụ lý vụ án dân sự
theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành. Đồng thời, luận


4

văn cũng có nội dung đề cập đến pháp luật giải quyết tranh chấp tại trọng tài và
pháp luật tố tụng hành chính hiện hành. Tuy nhiên, mục đích tiếp cận về các vấn đề
này chỉ làm cơ sở để so sánh, nghiên cứu chuyên sâu, làm rõ những điểm mới phù
hợp và những bất cập chưa được khắc phục về thủ tục khởi kiện và thụ lý vụ án dân
sự theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự Việt Nam.
Do điều kiện tiếp cận thực tiễn và thu thập tài liệu có liên quan đến đề tài còn hạn
chế nên tác giả chỉ đề cập đến thực tiễn áp dụng pháp luật tại Thành phố Hồ Chí Minh.
4. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ cơ sở lý luận về thủ tục khởi kiện và thụ lý vụ án dân sự trong tố tụng
dân sự Việt Nam, tìm hiểu thực tiễn áp dụng các quy định này trong hoạt động giải
quyết các vụ án dân sự của Tòa án nhân dân tại Thành phố Hồ Chí Minh thơng qua
quy trình nhận và xử lý đơn khởi kiện vụ án dân sự.
Phân tích, đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật tố tụng dân sự hiện hành

của các Tòa án nhân dân hai cấp tại Thành phố Hồ Chí Minh, để nêu ra những quy
định tiến bộ và những thiếu sót hay chưa phù hợp thực tế về thủ tục khởi kiện và thụ
lý vụ án dân sự, từ đó đề xuất một số kiến nghị góp phần hồn thiện chế định này
trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu
Quá trình thực hiện đề tài này, tác giả đã sử dụng một số phương pháp
nghiên cứu như sau: phương pháp phân tích được xem là phương pháp chủ yếu
trong suốt quá trình nghiên cứu đề tài; bên cạnh đó luận văn cịn kết hợp một số
phương pháp nghiên cứu khác gồm: liệt kê các quy định pháp luật, so sánh thủ tục
tố tụng dân sự với các thủ tục tố tụng khác, đối chiếu trong đó phương pháp so sánh
được sử dụng nhằm mục đích tìm ra những ưu khuyết điểm những quy định trong
pháp luật tố tụng dân sự hiện hành; đối chiếu được sử dụng trong phần phân tích,
đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về thủ tục khởi kiện và thụ lý vụ
án dân sự.


5

6. Ý nghĩa lý luận và giá trị thực tiễn của đề tài
Luận văn là một cơng trình nghiên cứu một cách tồn diện và có hệ thống về
cơ sở lý luận và thực tiễn của thủ tục khởi kiện và thụ lý vụ án dân sự trong tố tụng
dân sự Việt Nam. Luận văn có ý nghĩa lý luận và giá trị thực tiễn sau đây:
Thủ tục khởi kiện vụ án dân sự theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự
Việt Nam được nghiên cứu một cách có hệ thống, bao quát cả trên cả phương diện
lý luận và thực tiễn. Những vấn đề đặc thù của việc khởi kiện và thụ lý vụ án dân sự
so với thủ tục khởi kiện, thụ lý các vụ án khác cũng được nghiên cứu và đề cập một
cách khái qt nhất.
Đề tài tìm ra những tồn tại trong cơng tác xây dựng và thi hành pháp luật về
thủ tục khởi kiện và thụ lý vụ án dân sự trong tố tụng dân sự Việt Nam. Từ những
đánh giá toàn diện, kết quả nghiên cứu của đề tài đề xuất các kiến nghị để góp phần

hồn thiện các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam. Đồng thời giúp cho
những người tìm hiểu về pháp luật có thể hiểu biết một cách sâu sắc, đầy đủ và thực
hiện quyền khởi kiện trong vụ án dân sự theo quy định pháp luật tố tụng dân sự Việt
Nam, để đảm bảo quyền và lợi ích của các chủ thể khi phát sinh tranh chấp dân sự
và yêu cầu Tòa án giải quyết.
7. Bố cục luận văn
Luận văn có bố cục gồm hai phần như sau:
Chương 1. Thủ tục khởi kiện vụ án dân sự trong pháp luật tố tụng dân sự
Việt Nam hiện hành. Gồm khái quát chung về khởi kiện vụ án dân sự và quy định
pháp luật liên quan đến chủ thể khởi kiện; hình thức và phương thức nộp đơn khởi
kiện; tài liệu, chứng cứ chứng minh quyền khởi kiện. Thực trạng áp dụng pháp luật
tại Thành phố Hồ Chí Minh và kiến nghị hồn thiện pháp luật.
Chương 2. Thụ lý vụ án dân sự trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện
hành. Gồm khái quát chung về thụ lý vụ án dân sự, mối liên hệ giữa thủ tục khởi
kiện và thủ tục thụ lý vụ án dân sự. Các quy định pháp luật về thủ tục thụ lý đơn


6

khởi kiện; chuyển đơn khởi kiện; trả đơn khởi kiện và thực trạng áp dụng pháp luật
tại Thành phố Hồ Chí Minh, kiến nghị hồn thiện pháp luật.


7

CHƯƠNG 1.
THỦ TỤC KHỞI KIỆN VỤ ÁN DÂN SỰ TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN
SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH
1.1. Khái quát chung về thủ tục khởi kiện vụ án dân sự
1.1.1. Khái niệm khởi kiện vụ án dân sự

Trong điều kiện phát triển của xã hội loài người, sự ra đời của Nhà nước và
pháp luật đã giải quyết phần lớn các mâu thuẫn giữa các chủ thể trong tất cả các mối
quan hệ, việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân được ghi nhận bằng
pháp luật của Nhà nước và đảm bảo thực hiện thông qua các thiết chế do Nhà nước
thiết lập. Một trong các quyền cơ bản của con người được pháp luật thừa nhận và
giữ vai trò quan trọng trong việc bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp khác của mình
đó là quyền khởi kiện. Nội dung pháp luật quy định khái quát về việc chủ thể cho
rằng quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm có quyền khởi kiện yêu cầu cơ
quan có thẩm quyền do Nhà nước quy định bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp đó của
mình.
Để giải quyết các tranh chấp, mâu thuẫn phát sinh giữa các chủ thể, chúng ta
có các phương pháp chính được áp dụng thường xuyên gồm thương lượng, hòa giải,
trọng tài và Tịa án. Trong đó, Tịa án là phương thức giải quyết tranh chấp truyền
thống nhất và cũng hiệu quả nhất. Phương thức có sự tham gia giải quyết của đại
diện quyền lực nhà nước đó là Tịa án nhân dân. Do đó, quy trình giải quyết tranh
chấp phải tuân thủ theo quy định chặt chẽ của pháp luật tố tụng. Đồng thời, bản án,
quyết định của Tòa án luôn được đảm bảo thi hành bằng hệ thống cơ quan thi hành
án của nhà nước.
Bên cạnh đó, Nhà nước đã có nhiều biện pháp, cách thức khác nhau để bảo
hộ quyền dân sự giữa các chủ thể khi phát sinh tranh chấp, mâu thuẫn như bảo vệ
bằng biện pháp hình sự, bảo vệ bằng biện pháp hành chính, bảo vệ bằng biện pháp
trọng tài … Đặc biệt và hiệu quả hơn hết trong các biện pháp bảo hộ quyền dân sự
là biện pháp khởi kiện vụ án dân sự theo thủ tục tố tụng dân sự. Đây là phương pháp


8

cá nhân, tổ chức và cơ quan có quyền khởi kiện u cầu Tịa án có thẩm quyền giải
quyết theo thủ tục tố tụng để buộc người có hành vi xâm phạm quyền, lợi ích của
mình phải chấm dứt hành vi vi phạm pháp luật; thực hiện các nghĩa vụ theo thỏa

thuận trong phạm vi pháp luật quy định; bồi thường thiệt hại đã làm phát sinh dựa
trên các chứng cứ chứng minh hợp pháp.
Trong Tiếng Việt, thuật ngữ “khởi” có nghĩa là bắt đầu, mở đầu một việc gì
đó1 và thuật ngữ “kiện” có nghĩa là yêu cầu xét xử việc người khác đã làm thiệt hại
đến mình2. Theo đó, thuật ngữ “khởi kiện” được hiểu là bắt đầu, mở đầu việc yêu
cầu xét xử đối với người có hành vi xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của
mình.
Theo thuật ngữ pháp lý, tác giả Nguyễn Mạnh Hùng đã khái niệm khởi kiện,
thuật ngữ dùng trong tố tụng dân sự, là việc đương sự nộp đơn yêu cầu Tịa án bảo
vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị vi phạm. Việc nộp đơn khởi kiện tại Tòa
án và việc Tòa án nhận đơn là việc mở đầu hoạt động tố tụng dân sự đối với một vụ
án, đồng thời là sự kiện pháp lý làm phát sinh trách nhiệm xem xét, giải quyết việc
tranh chấp dân sự của Tịa án.3
Như vậy, trong lĩnh vực ngơn ngữ học “khởi kiện” được khái niệm là việc
một cá nhân hay tổ chức nào đó gửi yêu cầu đến cơ quan có thẩm quyền để bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị chủ thể khác xâm phạm theo một thủ tục chung
được pháp luật quy định.
Trong lĩnh vực pháp lý, khởi kiện là việc cá nhân, pháp nhân hoặc các chủ
thể khác theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự nộp đơn yêu cầu Tòa án có
thẩm quyền bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình hay của người khác.4

1

Viện Ngơn ngữ học (2006), Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, trang 512.

2

Viện Ngôn ngữ học (2006), Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, trang 525.

3


Nguyễn Mạnh Hùng (2011), Thuật ngữ pháp lý, NXB Chính trị quốc gia – Sự thật .

4

Trường Đại học Kinh tế - Luật Thành phố Hồ Chí Minh, Nguyễn Thị Hồng Nhung (chủ biên),
Giáo trình Luật Tố tụng dân sự, NXB Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2017, trang 188.


9

Khởi kiện là hành vi tố tụng đầu tiên của người khởi kiện làm phát sinh các
quan hệ pháp luật tố tụng. Khi cá nhân, cơ quan, tổ chức yêu cầu Tòa án giải quyết
vụ án để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm thơng qua việc nộp đơn khởi
kiện cũng đồng nghĩa với việc đã khởi động q trình tố tụng dân sự. Tịa án chỉ
xem xét, giải quyết vụ án dân sự trong phạm vi yêu cầu của người khởi kiện nên
một trong những nội dung quan trọng của việc khởi kiện là người khởi kiện phải
xác định cụ thể, rõ ràng các yêu cầu đề nghị Tịa án giải quyết, u cầu đó chính là
quyền, lợi ích trong quan hệ pháp luật nội dung mà họ muốn được Tịa án bảo vệ,
cơng nhận.
Quyền khởi kiện và khởi kiện là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau. Nếu
như quyền khởi kiện khơng có sự phân biệt về chủ thể thì khởi kiện được xác định
điều kiện cho cá nhân, cơ quan, tổ chức rất rõ ràng, khi họ không đáp ứng được
những điều kiện luật định thì họ khơng thể khởi kiện. Sự khác nhau này xuất phát từ
bản chất pháp lý của hai khái niệm. Khởi kiện là hành vi tố tụng thể hiện ý chí
hưởng quyền khởi kiện của cá nhân, cơ quan, tổ chức. Đó là sự chủ động hưởng
quyền khởi kiện của họ thông qua việc quyết định thực hiện hành vi nộp đơn khởi
kiện nhằm u cầu Tịa án có thẩm quyền bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình, của
người khác, lợi ích nhà nước, lợi ích cơng cộng khi cho rằng các quyền và lợi ích đó
bị vi phạm hoặc có tranh chấp. Do đó, khơng phải mọi chủ thể có quyền khởi kiện

đều có thể thực hiện hành vi khởi kiện vụ án dân sự.5 Nói một cách khác, khởi kiện
vụ án dân sự là cách các chủ thể thực hiện quyền khởi kiện của mình đã được pháp
luật thừa nhận.
Trong quan hệ pháp luật tố tụng dân sự, Tòa án tiếp nhận và giải quyết các
vụ việc dân sự theo quy định của pháp luật. Theo đó, vụ việc dân sự gồm có: Vụ án
dân sự, là những tranh chấp, mâu thuẫn về quyền, nghĩa vụ dân sự giữa các chủ thể
mà họ không thể tự giải quyết được nên phải khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết và

5

Nguyễn Thị Hoài Phương, Thủ tục khởi kiện và giải quyết tranh chấp tại Tòa án, trọng tài cơ chế
hiện hữu bảo vệ quyền dân sự, NXB Lao Động, 2011, trang 66 – 67.


10

từ đó dẫn đến hình thành hai bên đối lập quyền, lợi ích với nhau là người khởi kiện
và người bị kiện. Việc dân sự, là một sự kiện pháp lý làm phát sinh, thay đổi hoặc
chấm dút quan hệ pháp luật giữa các bên, khơng có yếu tố tranh chấp nên khơng
hình thành hai bên đối lập lợi ích như vụ án dân sự. Vì vậy, tranh chấp về quyền,
nghĩa vụ chỉ có trong vụ án dân sự mà khơng có trong việc dân sự nên thuật ngữ
pháp lý quy định chỉ có “khởi kiện vụ án dân sự” và không tồn tại thuật ngữ “khởi
kiện việc dân sự”.
Như vậy, khởi kiện vụ án dân sự là giai đoạn bắt đầu tố tụng khi cá nhân, cơ
quan, tổ chức trong phạm vi pháp luật quy định chủ động thực hiện quyền khởi kiện
thông qua việc nộp đơn khởi kiện u cầu Tịa án có thẩm quyền bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp của mình hay của người khác.
1.1.2. Ý nghĩa của khởi kiện vụ án dân sự
Khởi kiện là cơ sở phát sinh quan hệ pháp luật tố tụng dân sự: khởi kiện là
hành vi đầu tiên của cá nhân, cơ quan, tổ chức tham gia vào quan hệ pháp luật tố

tụng dân sự, là cơ sở tạo tiền đề cho quan hệ tố tụng dân sự được hình thành và phát
triển. Khi người khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp phát sinh nhằm để
bảo vệ quyền và lợi ích hợp phát của mình bằng việc gửi đơn khởi kiện đồng nghĩa
với việc đã bắt đầu khởi động mối quan hệ tố tụng dân sự. Nếu khơng có hoạt động
khởi kiện thì khơng có quan hệ tố tụng dân sự phát sinh, vì Tịa án chỉ thụ lý vụ án
dân sự và giải quyết theo thủ tục tố tụng khi có cá nhân, cơ quan, tổ chức nộp đơn
khởi kiện theo quy định pháp luật.
Khởi kiện là phương thức bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cơng dân:
Quyền khởi kiện có ý nghĩa rất quan trọng. Nó là một quyền pháp lý cơ bản được
ghi nhận trong các văn bản có giá trị pháp lý cao và trong những ngành luật khác
nhau. Quyền khởi kiện là quyền tố tụng do pháp luật quy định nhưng quyền quyết
định có thực hiện hay khơng việc khởi kiện là do các cá nhân, cơ quan, tổ chức lựa
chọn và khơng ai có quyền ép buộc họ việc có khởi kiện hay không và khởi kiện
như thế nào. Như vậy, quyền khởi kiện là quyền tố tụng quan trọng, có vai trị quyết


11

định q trình tố tụng tiếp theo có diễn ra hay không. Khởi kiện là một biện pháp
bảo vệ quyền dân sự hữu hiệu mà các chủ thể thực hiện thơng qua hành vi khởi
kiện. Mục đích nhằm u cầu các cơ quan có thẩm quyền bảo vệ các quyền, lợi ích
hợp pháp được Nhà nước thừa nhận và bảo vệ, tránh được sự xâm phạm, nhanh
chóng khắc phục hậu quả do hành vi vi phạm gây ra và sớm khơi phục lại các mối
quan hệ thiện chí giữa các bên trong đời sống dân sự.
Khởi kiện góp phần đảm bảo tính đúng đắn của pháp luật: Thơng qua việc
thực hiện quyền khởi kiện của các chủ thể, các cơ quan có thẩm quyền xem xét giải
quyết các tranh chấp một cách nhanh chóng nhằm đem lại sự cơng bằng, bảo vệ
quyền, lợi ích của Nhà nước, lợi ích cơng cộng, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ
quan, tổ chức được kịp thời, hiệu quả, đúng đắn. Từ đó, đảm bảo cho các quy định
của pháp luật được tôn trọng, góp phần giáo dục mọi người nghiêm chỉnh chấp

hành pháp luật; tạo sự tin tưởng của nhân dân vào Nhà nước, vào pháp luật, vào các
cơ quan Nhà nước nói dung và cơ quan tư pháp nói riêng. Đặc biệt, quyền khởi kiện
vụ án dân sự tại Tòa án nhân dân được giải quyết theo trình tự thủ tục tố tụng luật
định, hoạt động xét xử kết thúc bằng một bản án của Tòa án nhân danh nước Cộng
hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam nên bản án được mọi người tôn trọng và được tổ
chức thi hành bởi cơ quan thi hành án dân sự, buộc những người liên quan phải
nghiêm chỉnh chấp hành, như vậy kỷ cương phép nước mới được tôn trọng và đề
cao. Đồng thời, theo quy định của pháp luật hiện hành, không chỉ Tịa án xét xử
cơng khai mà bản án cũng phải được mã hóa và cơng khai trên các cổng thơng tin
điện tử theo quy định nên những bản án có căn cứ thuyết phục khơng những có tác
dụng tốt đối với bản thân đương sự mà còn tăng giá trị giáo dục rộng rãi trong xã
hội.


12

1.1.3. So sánh thủ tục khởi kiện trong pháp luật tố tụng dân sự với
các lĩnh vực khác
1.1.3.1. So sánh thủ tục khởi kiện trong tố tụng dân sự với thủ tục
khởi kiện trong tố tụng hành chính
Khởi kiện vụ án hành chính và khởi kiện vụ án dân sự là những vấn đề
thường xảy ra trong cuộc sống hằng ngày. Do đó, khi khởi kiện đến Tịa án, người
khởi kiện phải xác định rõ đối tượng khởi kiện vụ án, tính chất của quan hệ tranh
chấp. Từ đó, người khởi kiện áp dụng những quy định pháp luật cho phù hợp. So
sánh khởi kiện trong tố tụng dân sự và tố tụng hành chính giúp cho cơng dân thực
hiện tốt quyền khởi kiện của mình, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình kịp
thời và Tịa án cũng có nhiều thuận lợi hơn trong việc xác định pháp luật tố tụng và
pháp luật nội dung để áp dụng giải quyết vụ án.
Về nội dung giống nhau, tố tụng hành chính và tố tụng dân sự đều là những
quy định thuộc về pháp luật hình thức, quy định trình tự, thủ tục để giải quyết vụ án

tại Tòa án, nhằm mục đích để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân. Vụ án
dân sự và vụ án hành chính bắt buộc phải phát sinh từ hành vi khởi kiện của chủ thể
theo pháp luật quy định, đây là bước quan trọng để làm căn cứ cho việc thụ lý và
giải quyết vụ án.
Về các nội dung khác nhau, các tranh chấp giữa các cá nhân, cơ quan, tổ
chức trong pháp luật tố tụng dân sự phát sinh từ các quan hệ mang tính tài sản, nhân
thân được hình thành trên cơ sở bình đẳng, tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận
giữa các chủ thể với nhau, ngược lại các tranh chấp giữa các chủ thể trong pháp luật
tố tụng hành chính phát sinh từ quan hệ quản lý hành chính, mệnh lệnh phục tùng
nên vụ án hành chính và vụ án dân sự đều có những đặc thù về chủ thể, đối tượng
nên dẫn đến quy trình tố tụng hành chính và tố tụng dân sự có những điểm khác
nhau cơ bản, cụ thể:
Về đối tượng khởi kiện, trong vụ án hành chính thì đối tượng khởi kiện là các
quyết định hành chính, hành vi hành chính; quyết định kỷ luật buộc thơi việc cơng
chức giữa chức vụ từ Tổng Cục trưởng và tương đương trở xuống; quyết định giải


13

quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh; danh sách cử tri mà cơ quan,
tổ chức, cá nhân khơng đồng ý với quyết định đó hoặc đã khiếu nại với người có
thẩm quyền giải quyết, nhưng hết thời hạn giải quyết theo quy định của pháp luật
mà khiếu nại không được giải quyết hoặc đã được giải quyết nhưng không đồng ý
với việc giải quyết khiếu nại về quyết định, hành vi đó.6 Tuy nhiên, khơng phải tất
cả các quyết định hành chính, hành vi hành chính đều có thể khiếu kiện để giải
quyết theo thủ tục tố tụng hành chính. Quyết định hành chính, hành vi hành chính là
đối tượng khởi kiện vụ án hành chính khi quyết định hành chính, hành vi hành
chính đó làm phát sinh, thay đổi, hạn chế, chấm dứt quyền, lợi ích hợp pháp của cơ
quan, tổ chức, cá nhân hoặc có nơi dung làm phát sinh nghĩa vụ, ảnh hưởng đến
quyền, lợi ích hợp pháp của chủ thể khởi kiện. Đây là những vấn đề liên quan đến

quan hệ pháp luật tố tụng hành chính. Cịn đối tượng khởi kiện trong vụ án dân sự
có phạm vi rộng hơn, đó là các tranh chấp về hơn nhân và gia đình, kinh doanh
thương mại, lao động được quy định cụ thể tại Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về chủ thể tham gia tố tụng, trong vụ án hành chính do xuất phát từ đối
tượng khởi kiện vụ án hành chính mang tính đặc thù liên quan đến hoạt động quản
lý hành chính của các cơ quan tổ chức nên người bị kiện trong vụ án ánh chính ln
là cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức được giao thực hiện việc quản lý
hành chính nhà nước hoặc cá nhân là người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức
đó có quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc,
quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, danh sách cử
tri bị khởi kiện. Ngược lại, đối với vụ án dân sự, chủ thể tham gia tố tụng với tư
cách người bị kiện có thể là bất kỳ tổ chức, cơ quan, cá nhân nào có hành vi xâm
phạm quyền, lợi ích hợp pháp của người khởi kiện.
Về thời hiệu khởi kiện trong vụ án dân sự có nhiều quy định hơn so với vụ án
hành chính. Đối với vụ án hành chính thời hiệu khiếu kiện được quy định thống
nhất, cụ thể, rõ ràng, thời hạn ngắn hơn và mang tính bắt buộc so với thời hiệu trong

6

Điều 30 Luật Tố tụng hành chính năm 2015


14

vụ án dân sự, cụ thể 01 năm kể từ ngày nhận được hoặc biết được quyết định hành
chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thơi việc; 30 ngày kể từ ngày
nhận được quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh;
trước ngày bầu cử 05 ngày kể từ ngày nhận được thông báo kết quả giải quyết khiếu
nại của cơ quan lập danh sách cử tri hoặc kết thúc thời hạn giải quyết khiếu nại mà
không nhận được thông báo kết quả giải quyết khiếu nại của cơ quan lập danh sách

cử tri.7 Đối với vụ án dân sự, thời hiệu khởi kiện được quy định cụ thể đối với từng
loại tranh chấp và việc áp dụng thời hiệu không mang tính bắt buộc như vụ án hành
chính mà Tịa án chỉ áp dụng theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, người được
hưởng lợi từ việc áp dụng thời hiệu có quyền từ chối áp dụng thời hiệu.8 Như vậy,
quy định về thời hiệu trong vụ án dân sự có phần mở rộng và phụ thuộc vào đương
sự nhiều hơn so với vụ án hành chính, điều này xuất phát từ đối tượng khởi kiện và
mục đích của từng loại vụ án, đối với vụ án hành chính đối tượng khởi kiện là các
quyết định, hành vi trong hoạt động quản lý hành chính nhằm mục đích giải quyết
những mâu thuẫn, tranh chấp giữa công dân và cơ quan quản lý hành chính nhà
nước nên cần giải quyết, điều chỉnh nhanh chóng; riêng đối với tranh chấp dân sự
cần có thời gian để các bên thương lượng, hịa giải khi phát sinh mâu thuẫn nên thời
hiệu phụ thuộc chủ yếu vào các bên đương sự, thay đổi quy định về thời hiệu khởi
kiện, trao quyền áp dụng thời hiệu cho các bên đương sự là một tiến bộ đáng được
ghi nhận của các nhà làm luật, góp phần giải quyết triệt để các tranh chấp, mâu
thuẫn giữa các chủ thể, góp phần ổn định đời sống, phát triển kinh tế.
1.1.3.2. So sánh thủ tục khởi kiện trong tố tụng dân sự với thủ tục
khởi kiện tại trọng tài thương mại
Luật Trọng tài thương mại năm 2010 là một trong những văn bản pháp luật
được ban hành nhằm quy định về thủ tục tố tụng giải quyết tranh chấp phát sinh
trong hoạt động thương mại, đảm bảo quyền tự do kinh doanh, bảo vệ quyền, lợi ích

7

Khoản 2 Điều 116 Luật Tố tụng hành chính năm 2015

8

Điều 184 Bộ Luật Tố tụng dân sự năm 2015, Điều 149 Bộ luật Dân sự năm 2015



15

hợp pháp của các bên tranh chấp. Đồng thời, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 cũng
có những quy định về thủ tục tố tụng giải quyết các tranh chấp phát sinh trong lĩnh
vực kinh doanh thương mại. Hai thủ tục tố tụng này đều là phương thức giải quyết
tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực thương mại nên đối tượng giải quyết của loại
tranh chấp này theo hai phương thức trên là giống nhau.
Tuy nhiên, do đặc thù của cơ quan tiến hành tố tụng và quá trình giải quyết
nên quy định tố tụng của hai phương pháp trên vẫn còn tồn tại nhiều điểm khác biệt,
bao gồm:
Về thời hiệu khởi kiện, quy định về thời hiệu khởi kiện trong Luật Trọng tài
thương mại năm 2010 mang tính bắt buộc, thời hạn cụ thể là 02 năm kể từ thời điểm
quyền và lợi ích người khởi kiện bị xâm phạm, trừ trường hợp luật chuyên ngành có
quy định khác.9 Như đã phân tích về thời hiệu được đề cập trong Bộ luật Tố tụng
dân sự thì thời hiệu khởi kiện tranh chấp kinh doanh thương mại mặc dù được quy
định tại các luật chuyên ngành nhưng việc áp dụng thời hiệu khởi kiện mang tính
linh hoạt của chủ thể tham gia tố tụng, phụ thuộc vào yêu cầu của các bên.
Về thẩm quyền giải quyết, đối với khởi kiện tranh chấp kinh doanh thương
mại theo thủ tục tố tụng dân sự thì thẩm quyền giải quyết của Tịa án được phân
chia cụ thể, rõ ràng theo cấp, theo lãnh thổ và theo sự lựa chọn của nguyên đơn,
việc nộp đơn khởi kiện khơng đúng thẩm quyền thì Tịa án sẽ không giải quyết mà
chuyển đơn khởi kiện đến Tịa án có thẩm quyền để giải quyết do đó các bên khơng
được tự do lựa chọn Tịa án giải quyết. Nhưng đối với giải quyết tranh chấp thương
mại bằng trọng tài thì khơng đặt ra vấn đề về thẩm quyền theo lãnh thổ. Một tranh
chấp thương mại có thể giải quyết tại bất kỳ Trung tâm trọng tài hoặc Hội đồng
trọng tài nào nếu có sự lựa chọn của các bên mà không phục thuộc vào đối tượng
tranh chấp, địa điểm xảy ra tranh chấp hoặc quốc tịch của các bên. Chỉ cần có sự
thỏa thuận, lựa chọn của các bên thông qua một thỏa thuận trọng tài hợp pháp thì
việc giải quyết tranh chấp hoạt động kinh doanh thương mại bằng Trọng tài sẽ được
9


Điều 33 Luật Trọng tài thương mại năm 2010


16

diễn ra. Do đó, giải quyết tranh chấp bằng trọng tài chỉ được diễn ra khi có sự thỏa
thuận lựa chọn giữa các bên trước hoặc sau khi tranh chấp pháp sinh và sự thỏa
thuận đó phải hợp pháp.10 Đặc biệt, nếu các bên đã có thỏa thuận giải quyết tranh
chấp tại Trọng tài thì khơng được khởi kiện ra Tịa án trừ khi pháp luật về trọng tài
có quy định một số trường hợp, Tòa án sẽ trả lại đơn khởi kiện và từ chối thụ lý khi
có căn cứ về việc các bên đã có thỏa thuận Trọng tài.
Về phạm vi giải quyết tranh chấp, thủ tụng tố tụng dân sự có phạm vi giải
quyết tranh chấp các loại tranh chấp rộng hơn, đa dạng hơn so với Trọng tài thương
mại như tranh chấp trong hôn nhân và gia đình, tranh chấp dân sự, tranh chấp kinh
doanh thương mại và tranh chấp về lao động nhưng thủ tục tố tụng trọng tài chỉ quy
định về trình tự, thủ tục giải quyết các tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương
mại theo sự thỏa thuận của các bên.
Về quyền tự định đoạt của các chủ thể tham gia tố tụng, quyền tự định đoạt
của người khởi kiện trong tố tụng trọng tài được thể hiện ngay từ giai đoạn đầu tiên,
Luật Trọng tài thương mại quy định trong nội dung đơn khởi kiện, người khởi kiện
phải ghi tên, địa chỉ người được nguyên đơn chọn làm Trọng tài viên hoặc đề nghị
chỉ định Trọng tài viên11. Như vậy, hình thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài
đảm bảo quyền tự do định đoạt của các đương sự cao hơn so với giải quyết tranh
chấp bằng Tòa án: các đương sự có quyền lựa chọn trọng tài viên; địa điểm giải
quyết tranh chấp; quy tắc tố tụng, luật áp dụng cho việc giải quyết tranh chấp… các
đương sự sẽ không có các quyền này khi giải quyết bằng Tịa án. Vì Thẩm phán xét
xử vụ án phải do Chánh án Tịa án nhân dân cùng cấp phân cơng, việc giải quyết
phải diễn ra tại trụ sở Tòa án, áp dụng các luật có liên quan.
1.2. Chủ thể khởi kiện vụ án dân sự

Chủ thể khởi kiện là các chủ thể của quan hệ pháp luật nội dung có phát sinh
tranh chấp, việc xác định chủ thể của quan hệ theo pháp luật nội dung tùy thuộc vào

10

Khoản 1 Điều 5 Luật Trọng tài thương mại năm 2010.

11

Điểm e Khoản 1 Điều 30 Luật Trọng tài thương mại năm 2010.


17

từng ngành luật cụ thể. Theo đó, những chủ thể của ngành luật dân sự, hơn nhân và
gia đình, kinh doanh thương mại và lao động là những chủ thể khởi kiện trong tố
tụng dân sự. Như vậy, chủ thể khởi kiện vụ án dân sự là các chủ thể theo quy định
của pháp luật được tham gia vào quan hệ pháp luật tố tụng, dân sự.
Khi nghiên cứu đến chủ thể khởi kiện vụ án dân sự là ta nghiên cứu đến các
quy định pháp luật tố tụng dân sự về quyền khởi kiện và năng lực hành vi tố tụng
dân sự của chủ thể khởi kiện vụ án dân sự.
1.2.1. Quy định pháp luật hiện hành
1.2.1.1. Quyền khởi kiện vụ án dân sự
Quyền khởi kiện đã được ghi nhận và có những quy định đầu tiên xuất hiện
trong cổ luật La Mã. Theo đó, khi có hành vi xâm phạm quyền tư pháp của cá nhân
thì người có quyền lợi bị xâm phạm bên cạnh áp dụng quyền tự vệ là quyền tự xử lý
hành vi vi phạm pháp luật “Vim vi repelere licet” cho phép dùng sức mạnh để trấn
áp bạo luật , họ cịn có quyền khởi kiện đến Tòa án yêu cầu bảo vệ quyền lợi của
mình. Người bị vi phạm có thực hiện quyền khởi kiện hay không, điều này pháp
luật không bắt buộc mà phụ thuộc vào ý chí của người đó.

Trong xã hội hiện tại, quyền khởi kiện được ghi nhận là một quyền của con
người cụ thể tại Điều 8 trong Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948 ghi
nhận nội dung “Mọi người đều có quyền được bảo vệ bằng các Tịa án quốc gia có
thẩm quyền với phương tiện pháp lý có hiệu lực chống lại những hành vi vi phạm
các quyền căn bản đã được Hiến pháp và pháp luật cơng nhận”. Theo đó, quyền
khởi kiện là một trong những nhóm quyền tố tụng thuộc quyền con người và được
pháp luật ghi nhận nhằm mục đích đảm bảo tốt nhất cho những quyền, lợi ích hợp
pháp của một chủ thể trong mối quan hệ xã hội. Như vậy, quyền khởi kiện đã được
thừa nhận trong pháp luật quốc tế tạo nên cơ sở vững chắc cho việc ghi nhận và cụ
thể hóa trong hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia.
Nghiên cứu pháp luật tố tụng dân sự các nước về quyền khởi kiện trong vụ
án dân sự tại Tòa án, ta bắt gặp khái niệm “quyền kiện dân sự”. Nội hàm của khái


18

niệm quyền kiện dân sự rộng hơn rất nhiều so với “quyền khởi kiện vụ án dân sự”.
Bộ luật Tố tụng dân sự Pháp năm 1975 đã định nghĩa quyền kiện dân sự là “quyền
pháp lý theo đó một người có thể u cầu Tịa án tun bố xác nhận các lợi ích của
mình bằng việc mở phiên tịa xem xét” . Theo đó, quyền kiện dân sự khơng phải chỉ
là quyền khởi kiện vụ án dân sự của nguyên đơn mà còn là quyền phản tố của bị
đơn, quyền yêu cầu độc lập của người có quyền, nghĩa vụ liên quan trong vụ án.
Tương tự vậy, trong hệ thống pháp luật Việt Nam, quan niệm của các nhà làm luật
thì quyền khởi kiện khơng phải chỉ mang nghĩa hẹp là quyền tố tụng của cá nhân, cơ
quan, tổ chức u cầu Tịa án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm, việc
thực hiện quyền khởi kiện của họ sẽ làm phát sinh quá trình tố tụng tại Tòa án,
quyền khởi kiện còn được hiểu theo nghĩa rộng là bao gồm cả quyền yêu cầu Tòa án
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác trong xuyên suốt quá trình tố
tụng của vụ án, tức là quyền khởi kiện còn thuộc về bị đơn và người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan. Tuy nhiên, do phạm vi nghiên cứu nên luận văn chỉ đề cập đến

quyền khởi kiện vụ án dân sự tại thời điểm thụ lý vụ án, tức là giai đoạn bắt đầu tố tụng.
Trong hệ thống pháp luật Việt Nam hiện hành, quyền khởi kiện được ghi
nhận gián tiếp tại Hiến pháp năm 2013 của Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam như sau “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người,
quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn
trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật.” Trên cơ sở quy định của
Hiến pháp, các văn bản khác đã cụ thể hoá và ghi nhận quyền khởi kiện của đương
sự. Cụ thể là quyền khởi kiện được ghi nhận trong các văn bản pháp luật nội dung
và pháp luật tố tụng, như Luật Trọng tài thương mại năm 2010 quy định: “Trường
hợp giải quyết tranh chấp tại Trung tâm trọng tài, nguyên đơn phải làm đơn khởi
kiện gửi đến Trung tâm trọng tài. Trường hợp vụ tranh chấp được giải quyết bằng
Trọng tài vụ việc, nguyên đơn phải làm đơn khởi kiện và gửi cho bị đơn” . Tuy
nhiên, phần lớn các nhà nghiên cứu trên thế giới hay ở Việt Nam khi đề cập đến
quyền khởi kiện chủ yếu nhắc đến khái niệm quyền khởi kiện tại Tòa án.


×