Tải bản đầy đủ (.pdf) (56 trang)

Tránh nhiệm bồi thường thiệt hại trong các vụ án vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ và thực tiễn áp dụng tại tỉnh đắc lắk

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.54 MB, 56 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT

NGUYỄN BÁ NHẤT

TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI TRONG
CÁC VỤ ÁN VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ ĐIỀU KHIỂN
PHUƠNG TIỆN GIAO THÔNG ĐUỜNG BỘ VÀ
THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI TỈNH ĐẮK LẮK

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH -2018


2

NGUYỄN BÁ NHẤT

TRÁCH NHIỆM BỒI THỪỜNG THIỆT HẠI TRONG
CÁC VỤ ÁN VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ ĐIỀU KHIỂN
PHUƠNG TIỆN GIAO THÔNG ĐUỜNG BỘ VÀ
THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI TỈNH ĐẮK LẮK

Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số: 60.38.01.03

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS NGUYỄN ĐÌNH HUY


THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH -2018


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT
----

NGUYỄN BÁ NHẤT

TRÁCH NHIỆM BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI TRONG
CÁC VỤ ÁN VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ ĐIỀU KHIỂN
PHUƠNG TIỆN GIAO THÔNG ĐUỜNG BỘ VÀ
THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI TỈNH ĐẮK LẮK

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH -2017


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT
----

NGUYỄN BÁ NHẤT

TRÁCH NHIỆM BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI TRONG
CÁC VỤ ÁN VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ ĐIỀU KHIỂN
PHUƠNG TIỆN GIAO THÔNG ĐUỜNG BỘ VÀ
THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI TỈNH ĐẮK LẮK


Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số: 60.38.01.03

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH -2017


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU............................................................................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƢỜNG THIỆT
HẠI TRONG CÁC VỤ ÁN VI PHẠM QUI ĐỊNH VỀ ĐIỀU KHIỂN PHƢƠNG TIỆN
GIAO THÔNG ĐƢỜNG BỘ ...................................................................................................................... 5
1.1. Khái niệm tai nạn giao thông đường bộ và trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng... 5
1.1.1. Khái niệm tai nạn giao thông đường bộ ............................................................................................... 5
1.1.2. Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng .......................................... 8
1.2. Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra..................................................................11
1.2.1. Khái niệm nguồn nguy hiểm cao độ...................................................................................................11
1.2.2. Phương tiện giao thông vận tải cơ giới đường bộ là nguồn nguy hiểm cao độ........................12
1.2.3 Trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các vụ án vi phạm qui định về điều khiển phương tiện
giao thông đường bộ ..........................................................................................................................................14
1.3 Nguyên tắc bồi thường thiệt hại trong các vụ án vi phạm qui định về điều khiển phương tiện giao
thông đường bộ ...................................................................................................................................................15
1.3.1. Bồi thường thiệt hại tồn bộ và kịp thời..............................................................................................15
1.3.2. Căn cứ vào hình thức lỗi và mức độ lỗi..............................................................................................17
1.3.3. Tự do, tự nguyện, cam kết, thỏa thuận................................................................................................18
1.3.4. Mức bồi thường phù hợp với thực tế ..................................................................................................18
1.3.5. Nguyên tắc xem xét khả năng kinh tế của người gây thiệt hại .....................................20
CHƢƠNG 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG TRÁCH NHIỆM BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI
TRONG CÁC VỤ ÁN VI PHẠM QUI ĐỊNH VỀ ĐIỀU KHIỂN PHƢƠNG TIỆN GIAO



THƠNG ĐƢỜNG BỘ Ở TỊA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK, CÁC GIẢI PHÁP
HOÀN THIỆN .................................................................................................................................................23
2.1. Thực tiễn bồi thường thiệt hại trong các vụ án vi phạm qui định về điều khiển phương tiện giao
thơng đường bộ tại Tịa án nhân dân hai cấp tỉnh Đắk Lắk ......................................................................23
2.1.1 Tình hình các vụ vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ Đắk Lắk
từ năm 2012 đến 2016 .......................................................................................................................................23
2.2.2 Đặc điểm về thiệt hại trong các vụ án vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông
đường bộ Đắk Lắk từ năm 2012 đến 2016...................................................................................................24
2.2 Vấn đề bồi thường thiệt hại trong các vụ án vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao
thông đường bộ Đắk Lắk từ năm 2012 đến 2016.......................................................................................26
2.2.1. Bồi thường thiệt hại trong giai đoạn điều tra, xử lý vi phạm hành chính của cơ quan cơng an
.................................................................................................................................................................................26
2.2.2. Bồi thường thiệt hại theo quyết định của Tòa án..............................................................................29
2.3 Những yếu tố ảnh hưởng đến việc bồi thường trong các vụ án vi phạm quy định về điều khiển
phương tiện giao thông đường bộ ...................................................................................................................29
2.3.1 Yếu tố tâm lý và nhận thức.....................................................................................................................29
2.3.2 Trường hợp do lỗi của người thứ ba nhưng không xác định được người gây thiệt hại hoặc
người gây thiệt hại bỏ trốn ................................................................................................................................31
2.3.3 Tình trạng kinh tế của người gây thiệt hại...........................................................................................32
2.3.4 Trường hợp người gây thiệt hại bị chết................................................................................................33
2.4. Các kiến nghị và giải pháp về trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các vụ án vi phạm qui định
về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ. ........................................................................................34
2.4.1. Bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới............................................................34


2.4.2. Ký quỹ........................................................................................................................................................36
2.4.3 Bảo lãnh ......................................................................................................................................................37
2.4.4 Kê biên tài sản............................................................................................................................................38

2.4.5. Phạt vi phạm .............................................................................................................................................39
KẾT LUẬN........................................................................................................................................................42
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..............................................................................................43
PHẦN PHỤ LỤC ............................................................................................................................................46


LỜI CAM ĐOAN
Bằng văn bản này, tác giả xin cam đoan rằng các nội dung được trình bày
trong Luận văn là cơng trình nghiên cứu khoa học độc lập của tác giả..
Tác giả xin cam đoan là cơng trình nghiên cứu do chính tác giả thực hiện. Các
số liệu trích dẫn nêu trong luận văn là trung thực và được tác giả chú thích rõ ràng.
Tác giả

NGUYỄN BÁ NHẤT


DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu bảng

Tên bảng

2.1

Kết quả xử lý đơn khiếu kiện của Tòa án nhân dân cấp
sơ thẩm tỉ nh Đắk Lắk

2.2

Trang


47

Kết quả xét xử sơ thẩm vụ án hành chí nh của Tòa án
nhân dân trong tỉ nh Đắk Lắk

51


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Mặc dù BLDS năm 2015 có hiệu lực pháp luật kể từ ngày 01/01/2017, tuy
nhiên thực tiễn áp dụng giải quyết về trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các vụ
án vi phạm qui định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ còn nhiều bất
cập, lúng túng vẫn còn những nhận thức khác nhau trong việc xác định trách nhiệm
chủ thể bồi thường, bồi hoàn, mức bồi thường, bồi hoàn; người, tổ chức, pháp nhân
được bồi thường, bồi hoàn; các loại phải bồi thường, bồi hoàn…khiến cho việc giải
quyết các vụ án này gặp nhiều khó khăn đặc biệt là sự khó khăn, lúng túng trong
việc vận dụng áp dụng pháp luật. Đặc biệt tỉnh Đắk Lắk có nhiều dân tộc sinh sống,
trong đó đa phần là người dân tộc Ê đê, sự đa dạng về văn hóa và phong tục tập
quán được hình thành từ những khn mẫu ứng xử hàng ngày, được lưu truyền
trong cộng đồng dân tộc dưới dạng truyền miệng, từ người này sang người khác, từ
buôn làng này đến bn làng khác.Người dân tộc Ê đê có phong tục tập quán qui
định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trái với các nguyên tắc cơ
bản của pháp luật dân sự hiện hành. Việc thay đổi về mặt nhận thức và phong tục
tập quán có hàng nghìn đời của người Ê đê là vấn đề khơng hề đơn giản, gây khó
khăn trong thực tiễn giải quyết các loại vụ án này.
Nhằm làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn giải quyết về trách nhiệm bồi thường
thiệt hại trong các vụ án vi phạm qui định về điều khiển phương tiện giao thông

đường bộ, đánh giá thực trạng và từ đó đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp
luật và các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật trong quá trình
giải quyết các vụ án về giao thơng đường bộ trong việc giải quyết vấn đề trách
nhiệm bồi thường thiệt hại. Vì những lẽ trên, tác giả quyết định chọn đề tài “Trách
nhiệm bồi thường thiệt hại trong các vụ án vi phạm qui định về điều khiển phương
tiện giao thông đường bộ và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Đắk Lắk” làm đề tài Luận
văn thạc sĩ chuyên ngành Luật Dân sự và Tố tụng dân sự.


2

2. Tình hình nghiên cứu:
Dưới góc độ khoa học pháp lý, chế định Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
đã được nhiều nhà khoa học pháp lý trong nước quan tâm nghiên cứu ở các cấp độ
khác nhau, cụ thể như:
- Đinh Văn Quế: "Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi xâm phạm tính
mạng, sức khỏe của con người", Tạp chí Tịa án nhân dân, số 10, tháng 5 năm 2004);
- Tưởng Duy Lượng - Nguyễn Văn Cường: "Cách tính bồi thường thiệt hại tính
mạng, sức khỏe bị xâm phạm", Tạp chí Tịa án nhân dân, số 10, tháng 5 năm 2004);
- Lê Mai Anh: "Những vấn đề cơ bản về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng trong Bộ luật dân sự".
- Luận án Thạc sĩ luật học của Lê Kim Loan về đề tài "Trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng theo Bộ luật dân sự Việt Nam";
- Một số bài viết của Nguyễn Đức Giao, Thạc sĩ Nguyễn Đức Mai về trách
nhiệm Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng và trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
người chưa thành niên gây ra... đăng trên Tạp chí Tịa án nhân dân, Tạp chí Dân chủ
và pháp luật cũng như các giáo trình Luật dân sự đề cập vấn đề này.
Tuy nhiên, các cơng trình nghiên cứu này mới dừng lại ở mức độ chung nhất
hoặc chỉ đề cập ở phạm vi hẹp trong nội dung nghiên cứu về các vấn đề khác nhau,
mà chưa có tác giả nào nghiên cứu đầy đủ có hệ thống về trách nhiệm bồi thường

trong các vụ án vi phạm qui định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ,
Vì vậy, có thể khẳng định đây là một đề tài đang cần được làm rõ về mặt lý luận và
rất cấp bách về mặt thực tiễn.
3. Mục tiêu, đối tƣợng nghiên cứu, giới hạn phạm vi nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của luận văn là thông qua việc nghiên cứu lý luận và
thực tiễn giải quyết các vụ án về trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các vụ án vi
phạm qui định về điều khiển phương tiện giao thơng đường bộ dưới góc độ pháp lý
và thực tiễn giải quyết ở Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Đắk Lắk nhằm tìm ra những
vướng mắc, bất cập những khó khăn trong việc vận dụng áp dụng pháp luật từ đó
đưa ra được những giải pháp, kiến nghị, đề xuất góp phần thống nhất nhận thức và


3

nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án giao thông theo
đúng theo qui định của pháp luật.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các
vụ án vi phạm qui định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ trên cơ sở
tiếp cận các vấn đề lý luận cơ bản của trách nhiệm bồi thường thiệt hại các vụ án tai
nạn giao thông đường bộ, phân tích quy định pháp luật hiện hành, đánh giá thực tiễn
giải quyết ở Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Đắk Lắk trong giai đoạn 2012 đến 2016
để từ đó xác định các bất cập, đưa ra các giải pháp, kiến nghị hoàn thiện.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Tác giả tập trung nghiên cứu những khía
cạnh pháp lý trong việc vận dụng áp dụng để giải quyết vấn đề Trách nhiệm bồi
thường thiệt hại trong các vụ án vi phạm qui định về điều khiển phương tiện giao
thông đường bộ và thực tiễn áp dụng tại Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Đắk Lắk
trong giai đoạn năm 2011 đến năm 2016.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu:
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật; đường lối, chính

sách của Đảng và Nhà nước ta về nhà nước và pháp luật, về phát triển nền kinh tế
thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa…. Luận
văn được trình bày trên cơ sở nghiên cứu các văn bản pháp luật dân sự, các văn bản
hướng dẫn áp dụng pháp luật dân sự, các bản án, quyết định của Tòa án nhân dân
hai cấp tỉnh Đắk Lắk; các tài liệu của Cục Cảnh sát giao thơng đường bộ, đường sắt
thuộc Bộ Cơng an.
Qúa trình nghiên cứu Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể
như: Phương pháp tổng hợp, phương pháp phân tích, phương pháp thống kê,
phương pháp so sánh…..
5. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 02 chương


4

Chương 1: Những vấn đề lý luận về trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong
các vụ án vi phạm qui định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ.
Chương 2: Thực tiễn áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các vụ
án vi phạm qui định về điều khiển phương tiện giao thơng đường bộ tại Tịa án nhân
dân hai cấp tỉnh Đắk Lắk, các giải pháp hoàn thiện


5

CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI
TRONG CÁC VỤ ÁN VI PHẠM QUI ĐỊNH VỀ ĐIỀU KHIỂN PHƢƠNG TIỆN GIAO
THÔNG ĐƢỜNG BỘ
1.1. Khái niệm tai nạn giao thông đƣờng bộ và trách nhiệm bồi thƣờng

thiệt hại ngoài hợp đồng
1.1.1. Khái niệm tai nạn giao thông đƣờng bộ
Thuật ngữ "tai nạn" xuất hiện trong nhiều lĩnh vực của cuộc sống của con
người. Tùy từng trường hợp tai nạn xảy ra mà có các tên gọi cho mỗi một loại tai
nạn đó. Ví dụ: nếu tai nạn xảy ra trong lao động, thì gọi là tai nạn lao động; nếu tai
nạn xảy ra trong quá trình tham gia giao thơng, thì gọi là tai nạn giao thơng; nếu tai
nạn xảy ra tại trường học, thì gọi là tai nạn học đường... Tuy nhiên, có thể nhận thấy
tai nạn xảy ra phổ biến nhất là trong các lĩnh vực hoạt động sản xuất ra của cải vật
chất. Tai nạn là một hiện tượng xảy ra trong đời sống xã hội, gây tổn thất về tính mạng
sức khỏe, tài sản. Tai nạn là một trong những nguyên nhân làm mất ổn định trật tự
an toàn xã hội, đã và đang ảnh hưởng không nhỏ đến sinh hoạt xã hội mà con người
ln phải tìm cách chế ngự, làm giảm và loại trừ ra khỏi đời sống xã hội.
Theo Đại từ điển Tiếng Việt1, tai nạn hiểu theo nghĩa phổ biến nhất là "việc
không may bất ngờ xảy ra, gây thiệt hại lớn về người và của". Còn theo Từ điển Tiếng
Việt2, thì tai nạn là "việc rủi ro bất ngờ xảy ra, gây thiệt hại lớn cho con người".
Theo chúng tôi, các định nghĩa trên chỉ mới đưa ra tai nạn là sự kiện xảy ra
gây thiệt hại cho con người (về tính mạng, sức khỏe, tài sản) mà chưa làm rõ được
nguyên nhân của tai nạn. Thực tiễn cuộc sống chứng minh rằng tai nạn do nhiều
nguyên nhân khác nhau. Những nguyên nhân này có thể là do hành vi của con người
hoặc có thể do các tác nhân tự nhiên khác. Từ những nguyên nhân này gây ra các tai
nạn và tai nạn gây ra những hậu quả xấu ngoài mong muốn chủ quan của con người.
1

Đại từ điển tiếng Việt, Nguyễn Như Ý (chủ biên),(2011), NXB Đại học Quốc gia TPHCM.

2

Từ điển Tiếng Việt, Viện ngôn ngữ học, (2010), NXB Từ điển Bách Khoa



6

Các tác nhân khác là nguyên nhân của tai nạn cũng có thể một cách gián tiếp do hành
vi của con người, cũng có thể do thiên tai hoặc những cái ngoài khả năng chế ngự của
con người. Thiệt hại xảy ra có thể là thiệt hại về tính mạng, thiệt hại về sức khỏe,
thiệt hại về tinh thần của con người hay là thiệt hại về tài sản.
Trong lĩnh vực pháp luật, chưa có một định nghĩa chính thức về tai nạn nói
chung. Tuy nhiên, trong một số quy phạm pháp luật của một số ngành luật và trong
lĩnh vực nghiên cứu khoa học pháp lý, đã có một số khái niệm về tai nạn trong từng
lĩnh vực cụ thể.
Điều 105 Bộ luật Lao động quy định: "Tai nạn lao động là tai nạn gây
thương tổn cho bất kỳ bộ phận, chức năng nào của cơ thể người lao động hoặc gây
tử vong, xảy ra trong quá trình lao động, gắn liền với việc thực hiện công việc và
nhiệm vụ lao động".
Trong nghiên cứu khoa học thì khái niệm "tai nạn", khái niệm "tai nạn giao
thông đường bộ" đã được một số tác giả đề cập đến.
Theo tác giả Vũ Mạnh Thắng, "Tai nạn là sự việc xảy ra bất ngờ do người
tham gia giao thông hoặc vi phạm các quy định về trật tự an tồn giao thơng hoặc
gặp phải tình huống, sự cố đột xuất, khơng kịp xử lý, có thiệt hại về tính mạng, sức
khỏe con người, thiệt hại về tài sản".
Theo tác giả Đào Công Hải, thì "Tai nạn giao thơng là tai nạn xảy ra khi các
đối tượng tham gia trên đường giao thông cơng cộng gây nên: Thiệt hại về sức
khỏe, tính mạng con người; thiệt hại về tài sản hoặc thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng
về tài sản".
Còn theo tác giả Đỗ Đình Hịa, thì "Tai nạn giao thơng là sự kiện bất ngờ,
nằm ngoài ý muốn chủ quan của con người. Nó xảy ra khi các đối tượng tham gia
giao thơng đang hoạt động trên đường giao thông công cộng, đường chuyên dùng
hoặc ở các địa bàn giao thông công cộng nhưng do chủ quan, vi phạm các quy tắc về
an tồn giao thơng hoặc do gặp phải các sự cố đột xuất khơng kịp phịng tránh, đã gây
thiệt hại nhất định cho tính mạng, sức khỏe con người hoặc tài sản của Nhà nước và

nhân dân".


7

Theo chúng tôi ba khái niệm trên, đều nêu được tai nạn giao thông là một sự
kiện gây nên thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tài sản. Riêng khái niệm thứ hai chưa
nêu lên được vế thứ nhất của tai nạn giao thông như khái niệm thứ nhất và khái
niệm thứ ba. tai nạn giao thông là một sự kiện và có hai mặt của nó. Mặt thứ nhất là
cái gì làm cho tai nạn giao thơng (sự kiện) xảy ra hay nói cách khác nguyên nhân
của tai nạn giao thông. Về mặt này nguyên nhân của tai nạn giao thơng có thể: do vi
phạm các quy định về an tồn giao thơng vận tải; do những hành vi cản trở giao
thông vận tải; do đưa vào sử dụng các phương tiện giao thông vận tải không bảo
đảm an tồn hoặc điều động người khơng đủ điều kiện điều khiển phương tiện giao
thông vận tải; do gặp sự cố đột xuất không thể xử lý được hoặc do các trường hợp
bất khả kháng. Mặt thứ hai là tai nạn giao thơng (sự kiện) đã gây ra cái gì hay nói
cách khác hậu quả của sự kiện đó. Về mặt này hậu quả của tai nạn giao thơng có thể
là: thiệt hại về tính mạng, thiệt hại về sức khỏe, thiệt hại về tinh thần, thiệt hại về tài
sản (có thể một hoặc hai hoặc ba, có thể là tất cả các loại thiệt hại này trong một tai
nạn giao thơng).
Theo quy định tại Điều 585 BLDS năm 2015, thì trách nhiệm bồi thường
thiệt hại chỉ phát sinh trong trường hợp người nào do lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý xâm
phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, các quyền lợi ích
hợp pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc các
chủ thể khác mà gây thiệt hại. Tuy nhiên, cần phân biệt là không phải mọi trường hợp
xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, tài sản của cá nhân, tài sản của pháp nhân hoặc
các chủ thể khác trong khi tham gia giao thông đều gọi là tai nạn giao thông. Chỉ gọi là
tai nạn giao thông nếu hành vi vi phạm các quy định về an tồn giao thơng đường bộ là
do lỗi vô ý. Trong trường hợp thiệt hại xảy ra trong q trình tham gia giao thơng
được thực hiện do lỗi cố ý, thì khơng thể gọi là tai nạn giao thơng mà tùy từng

trường hợp có tên gọi tương ứng.
Ví dụ 1: A có mâu thuẫn với B. Biết B đang trên đường đi từ nơi làm việc về
nhà, A đã dùng xe ơtơ phóng nhanh cố ý đâm vào B với mục đích giết B. Hậu quả


8

là B bị chết. Trong trường hợp này không thể gọi là Tai nạn giao thông mà đây là
một vụ án giết người.
Ví dụ 2: C biết D vừa mua một chiếc xe máy Dream II. Do C ghét D vì hay
khoe khoang, nên đã có ý định phá hỏng chiếc xe máy Dream II của D. Biết D đi làm
thường hay dựng xe máy bên vệ đường giao thông, C đã lấy xe ôtô leo lên vệ đường
đâm vào chiếc xe máy Dream II của D làm cho chiếc xe máy đó hư hỏng nặng.
Trong trường hợp này cũng không thể gọi là Tai nạn giao thông mà đây là một vụ
án cố ý làm hủy hoại tài sản.
Từ sự phân tích trên chúng tơi đưa ra khái niệm chung về tai nạn giao thông
đường bộ như sau:
Tai nạn giao thông đường bộ là một sự kiện do hành vi của con người vi
phạm các quy định về an tồn giao thơng đường bộ, do sự cố đột xuất hoặc do các
trường hợp bất khả kháng gây ra trong q trình tham gia giao thơng của con
người gây thiệt hại về tính mạng, về sức khỏe, về tinh thần của con người hoặc thiệt
hại về tài sản.
1.1.2. Khái niệm trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại ngoài hợp đồng
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 20133 quy định:
"Mọi người có quyền sống. Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ" (Điều
19); "Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về
sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; khơng bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay
bất kỳ hình thức đối xử nàokhác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự,
nhân phẩm" (Điều 20); "Mọi người có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải
để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, phần vốn góp trong doanh nghiệp

hoặc trong các tổ chức kinh tế khác. Quyền sở hữu tư nhân và quyền thừa kế được
pháp luật bảo hộ. Trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phịng, an ninh hoặc vì lợi
ích quốc gia, tình trạng khẩn cấp, phòng, chống thiên tai, Nhà nước trưng mua hoặc
trưng dụng có bồi thường tài sản của tổ chức, cá nhân theo giá thị trường" (Điều

3

Quốc Hội, (2013). Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam


9

32); "Các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế
quốc dân. Các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh
tranh theo pháp luật. Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện để doanh nhân, doanh
nghiệp và cá nhân, tổ chức khác đầu tư, sản xuất, kinh doanh; phát triển bền vững
các ngành kinh tế, góp phần xây dựng đất nước. Tài sản hợp pháp của cá nhân, tổ
chức đầu tư, sản xuất, kinh doanh được pháp luật bảo hộ và khơng bị quốc
hữu hóa" (Điều 51).
Các quyền nêu trên đồng thời là khách thể bảo vệ của nhiều ngành luật khác
nhau. Mọi hành vi trái pháp luật, đều bị xử lý theo quy định của pháp luật. Nhà
nước quy định những hình thức trách nhiệm pháp lý buộc những người có hành vi
vi phạm pháp luật khắc phục hậu quả do hành vi trái pháp luật của họ gây ra và phải
Bồi thường thiệt hại (nếu có).
Nhiệm vụ của luật dân sự là bảo vệ các quyền và lợi ích nói trên dưới góc độ
đặc thù của ngành luật này. Điều 3 BLDS Việt Nam năm 20154 quy định: " Mọi cá
nhân, pháp nhân đều bình đẳng, không được lấy bất kỳ lý do nào để phân biệt đối xử;
được pháp luật bảo hộ như nhau về các quyền nhân thân và tài sản".
Nhà nước sử dụng nhiều phương thức khác nhau để bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của cá nhân và tổ chức khi bị xâm hại bởi những hành vi trái pháp luật.

Luật dân sự các nước phân chia trách nhiệm dân sự đều dựa vào mối quan hệ với
hợp đồng (một hình thức phổ biến, đặc trưng và chủ yếu của giao dịch dân sự).
Trách nhiệm phải bồi thường thiệt hại do các hành vi trái pháp luật gây thiệt hại đến
tính mạng, sức khỏe, tài sản, các quyền khác của công dân, tài sản, uy tín, danh dự của
các tổ chức (thường được coi là quyền tuyệt đối của các chủ thể) không phát sinh từ
một hợp đồng được gọi là trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Khi một người có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại đối với người khác làm
phát sinh các quan hệ pháp luật dân sự về bồi thường thiệt hại. Điều 609 BLDS quy
định: " Thiệt hại thực tế phải được bồi thường tồn bộ và kịp thời. Các bên có thể

4

Quốc Hội, (2015), Bộ luật dân sự


10

thỏa thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc
thực hiện một công việc, phương thức bồi thường một lần hoặc nhiều lần, trừ
trường hợp pháp luật có quy định khác". Như vậy, theo quy định trên, người có
hành vi gây thiệt hại phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Trong giáo trình luật dân sự của các trường đại học luật, cũng như các sách
báo pháp lý khác khi đề cập đến vấn đề trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng chưa đưa ra khái niệm chính thức về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngồi
hợp đồng. Theo giáo trình Luật dân sự của Trường Đại học Luật Hà Nội, một trong
những căn cứ làm phát sinh nghĩa vụ dân sự là sự kiện gây thiệt hại do hành vi trái
pháp luật đồng thời đó cũng là căn cứ phát sinh Trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng được quy định trong Chương XX, Phần thứ ba BLDS năm 2015.
Như vậy, theo quan điểm này thì sự kiện gây thiệt hại do hành vi trái pháp luật làm
phát sinh nghĩa vụ dân sự, có nghĩa là phát sinh " việc mà theo đó, một hoặc nhiều

chủ thể (sau đây gọi chung là bên có nghĩa vụ) phải chuyển giao vật, chuyển giao
quyền, trả tiền hoặc giấy tờ có giá, thực hiện công việc hoặc không được thực hiện
công việc nhất định vì lợi ích của một hoặc nhiều chủ thể khác (sau đây gọi chung
là bên có quyền) " (Điều 274 BLDS 2015). Đồng thời cũng theo quan điểm này, thì
sự kiện gây thiệt hại do hành vi trái pháp luật làm phát sinh trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng. Theo chúng tôi, nếu cho rằng "Gây thiệt hại do hành vi
trái pháp luật" là căn cứ làm phát sinh nghĩa vụ dân sự, đồng thời cũng là căn cứ
làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, thì vơ hình chung đã
cho rằng nghĩa vụ dân sự và trách nhiệm bồi thường thiệt hại là hai phạm trù độc
lập với nhau khơng có mối quan hệ với nhau. Về vấn đề này hiện nay còn có các ý
kiến khác nhau. Chúng tơi cho rằng, dù muốn hay khơng thì khi nghiên cứu khoa
học về một vấn đề trước hết phải nghiên cứu các chế định của pháp luật về vấn đề
đó cũng như thực tiễn áp dụng các chế định đó như thế nào, để từ đó có những kết
luận của mình về vấn đề đó.
Hiểu chung nhất về khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
chúng ta cần xuất phát từ các quy định của BLDS cũng như thực tiễn cuộc sống. Với


11

mong muốn đó, chúng tơi đưa ra khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng như sau:
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một loại Trách nhiệm
dân sự bao gồm Trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất và Trách nhiệm bồi
thường thiệt hại về tinh thần được phát sinh khi người nào do lỗi cố ý hoặc lỗi vơ ý
xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, các quyền,
lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân
hoặc các chủ thể khác mà gây thiệt hại.
1.2. Bồi thƣờng thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
1.2.1. Khái niệm nguồn nguy hiểm cao độ.

Theo quy định tại Mục 3 Chương XX Phần thứ ba của BLDS 2015 thì một
trong những trường hợp cụ thể của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng,
đó là trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra (Điều 601
BLDS 2015).
Trong các văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam chưa có một khái niệm
chung về nguồn nguy hiểm cao độ, mà chỉ quy định các đối tượng nào được coi là
nguồn nguy hiểm cao độ - cụ thể là "nguồn nguy hiểm cao độ bao gồm phương tiện
giao thông vận tải cơ giới, hệ thống tải điện, nhà máy công nghiệp đang hoạt động,
vũ khí, chất nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, thú dữ và các nguồn nguy hiểm
cao độ khác do pháp luật quy định" theo khoản 1 Điều 601 BLDS 2015.
Theo các quy định nêu trên về nguồn nguy hiểm cao độ của pháp luật một số
nước cũng như trong BLDS của nước ta cho phép có thể hiểu khái quát nguồn nguy
hiểm cao độ chính là những đối tượng mà khi sử dụng, bảo quản, cất giữ, trông coi
tiềm ẩn sự nguy hiểm, sự rủi ro cao độ đối với tính mạng, sức khỏe và tài sản của
con người. Tính nguy hiểm của nguồn nguy hiểm cao độ tồn tại trong tính chất, đặc
điểm lý, hóa, trong u cầu kỹ thuật và các điều kiện an toàn khi sử dụng các đối
tượng đó. Có những loại đối tượng rất dễ nhận ra tính nguy hiểm cao độ của chúng,
chẳng hạn như thú dữ, chất độc, chất dễ cháy. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp


12

khác cần phải có các tiêu chuẩn chung để xác định một đối tượng có phải là nguồn
nguy hiểm cao độ hay khơng. Theo chúng tơi các tiêu chuẩn đó bao gồm:
- Hoạt động của các đối tượng mang tính chất nguy hiểm cao độ cho mọi
người xung quanh thường là những hoạt động hợp pháp, chỉ khi nguồn nguy hiểm
cao độ gây thiệt hại mới bị coi là bất hợp pháp. Các đối tượng được quy định là
nguồn nguy hiểm cao độ nêu trên phần lớn thuộc nhiều loại kỹ thuật, lĩnh vực khác
nhau như phương tiện giao thông cơ giới, nhà máy công nghiệp đang hoạt động, hệ
thống tải điện, chất độc... Vấn đề không phải tất cả các phương tiện kỹ thuật khi sử

dụng đều mang tính chất nguy hiểm cao độ mà chỉ những hoạt động mang tính cơ
giới hoặc những đối tượng khác có đặc tính lý, hóa điển hình.
- Hoạt động của đối tượng được coi là nguồn nguy hiểm cao độ cho người
xung quanh được thể hiện trong việc sử dụng chúng, con người không thể giám sát
được một cách chặt chẽ và toàn diện. Điều này được thể hiện trong việc con người
chỉ bảo đảm được sự giám sát cần thiết nhờ những biện pháp kỹ thuật an toàn. Tuy
nhiên, những biện pháp kỹ thuật an toàn thường lại lạc hậu hơn, khơng đồng bộ với
kỹ thuật chung hay khơng tính tốn hết được các sự cố kỹ thuật có thể xảy ra trong
q trình sử dụng. Chính vì vậy, việc sử dụng kỹ thuật chung bao hàm tính chất
nguy hiểm của việc bất ngờ xảy ra thiệt hại.
Từ sự phân tích trên đây, chúng tơi có khái niệm về nguồn nguy hiểm cao độ
như sau: Nguồn nguy hiểm cao độ bao gồm những động vật hoặc bất động vật mà
khi trông giữ, vận hành chúng hoặc cho chúng hoạt động thì có thể gây nguy hiểm cao
độ đối với tính mạng, sức khỏe của con người, cũng như có thể gây thiệt lớn đến tài
sản của Nhà nước, tổ chức và cá nhân...
1.2.2. Phƣơng tiện giao thông vận tải cơ giới đƣờng bộ là nguồn nguy
hiểm cao độ
Pháp luật của hầu hết các nước trên thế giới đều quy định phương tiện Giao
thơng vận tải cơ giới nói chung và phương tiện giao thơng vận tải cơ giới đường bộ
nói riêng là nguồn nguy hiểm cao độ. Theo quy định tại Điều 601 BLDS 20155 của
5

Quốc Hội, (2015), Bộ luật dân sự


13

nước ta thì phương tiện giao thơng vận tải cơ giới là nguồn nguy hiểm cao độ. Điều
đó có nghĩa là phương tiện giao thông vận tải cơ giới đường bộ là nguồn nguy hiểm
cao độ, bởi nó là một trong những loại phương tiện giao thông vận tải cơ giới nói

chung. Theo chúng tơi, phương tiện giao thơng vận tải cơ giới đường bộ có những
đặc điểm riêng hết sức phức tạp sau:
- Phương tiện giao thông vận tải cơ giới đường bộ là một loại tư liệu lao
động hoạt động được nhờ động cơ, có giá trị sử dụng cao và được sử dụng phổ biến
trong lĩnh vực vận tải - một ngành sản xuất vật chất đặc thù chiếm một vị trí quan
trọng trong nền kinh tế quốc dân. Đồng thời là một loại phương tiện giao thông chủ
yếu đáp ứng nhu cầu đi lại của con người. Khi sử dụng phương tiện giao thông vận
tải cơ giới đường bộ đòi hỏi các điều kiện về người sử dụng, điều kiện an toàn kỹ
thuật.
- Phương tiện giao thông vận tải cơ giới đường bộ là một loại phương tiện
khi cho chúng vận hành, hoạt động thì có thể gây nguy hiểm cao độ; cụ thể là có thể
gây thiệt hại lớn về tính mạng, sức khỏe cho những người xung quanh cũng như có
thể gây thiệt hại lớn đến tài sản của Nhà nước, tổ chức, cá nhân.
- Phương tiện giao thông vận tải cơ giới đường bộ là một loại tài sản có số
lượng lớn, đa dạng về chủng loại, có giá trị và mang tính xã hội cao, là đối tượng
thường được chuyển nhượng, cho thuê, cho mượn, thế chấp, bảo đảm thực hiện các
nghĩa vụ dân sự mà trong đó có cả việc thi hành nghĩa vụ Bồi thường thiệt hại.
Qua sự phân tích trên, chúng tôi đưa ra khái niệm phương tiện giao thông
vận tải cơ giới đường bộ như sau:
"Phương tiện giao thông vận tải cơ giới đường bộ là các thiết bị chuyển
động được trên đường bộ nhờ động cơ của chính nó và do con người điều khiển
tn theo những điều kiện an toàn, được dùng trong các hoạt động giao thơng, vận
tải, thi cơng đường bộ nhưng có thể gây nguy hiểm cao độ đối với tính mạng, sức
khỏe của con người, cũng như có thể gây thiệt hại lớn đối với tài sản của nhà nước,
tổ chức và cá nhân".


14

Như vậy, phương tiện giao thông vận tải cơ giới đường bộ có đủ các điều

kiện của nguồn nguy hiểm cao độ và chúng ta có kết luận "phương tiện Giao thông
vận tải cơ giới đường bộ là nguồn nguy hiểm cao độ".
1.2.3. Trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại trong các vụ án vi phạm qui
định về điều khiển phƣơng tiện giao thơng đƣờng bộ
Như đã phân tích ở trên, phương tiện giao thông vận tải cơ giới đường bộ là
nguồn nguy hiểm cao độ. Khi vận hành chúng, đưa chúng vào hoạt động trên đường
bộ thì có thể gây nguy hiểm cao độ cho tính mạng, sức khỏe của con người cũng
như có thể gây thiệt hại lớn đến tài sản của Nhà nước, của tổ chức và cá nhân. Phần
lớn các vụ án vi phạm qui định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ là
do nguồn nguy hiểm cao độ này gây ra dưới tác động của hành vi của con người với
lỗi cố ý hoặc vơ ý. Ngồi ra, cịn có các vụ vụ án vi phạm qui định về điều khiển
phương tiện giao thông đường bộ xảy ra do những nguyên nhân, điều kiện khác.
BLDS quy định về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra,
nhưng nói một cách chính xác thì bản thân nguồn nguy hiểm cao độ khơng bao giờ
gây ra thiệt hại, nếu thiếu hành vi của con người tác động vào chúng (sử dụng, vận
hành, bảo quản...). Các vụ án vi phạm qui định về điều khiển phương tiện giao
thơng đường bộ có thể xảy ra nếu con người vi phạm quy định về điều khiển
phương tiện giao thơng đường bộ; có hành vi cản trở giao thông đường bộ; đưa vào
sử dụng các phương tiện giao thơng đường bộ khơng bảo đảm an tồn; điều động
hay giao cho người không đủ điều kiện điều khiển các phương tiện giao thông
đường bộ; do sự cố kỹ thuật mà gây ra vi phạm qui định về điều khiển phương tiện
giao thông đường bộ làm thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe của con người, làm thiệt
hại đến tài sản của Nhà nước, tổ chức, cá nhân thì phải bồi thường, trừ trường hợp
pháp luật có quy định khác.
Từ sự phân tích trên, trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các vụ án vi
phạm qui định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ được hiểu như sau:
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các vụ án vi phạm qui định về điều
khiển phương tiện giao thông đường bộ là một loại trách nhiệm dân sự mà phổ biến



15

là Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng gồm Trách nhiệm bồi thường
thiệt hại về vật chất và Trách nhiệm bồi thường thiệt hại về tinh thần được phát sinh
khi người nào có hành vi vi phạm các quy định về an tồn giao thơng đường bộ xâm
phạm đến tính mạng, sức khỏe của người khác, xâm phạm đến tài sản của Nhà
nước, tổ chức hoặc cá nhân khác mà gây thiệt hại.
1.3. Nguyên tắc bồi thƣờng thiệt hại trong các vụ án vi phạm qui định về
điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ
1.3.1. Bồi thƣờng thiệt hại toàn bộ và kịp thời
Hầu hết pháp luật dân sự các nước bằng hình thức này hay hình thức khác
đều quy định nguyên tắc bồi thường toàn bộ thiệt hại nhằm bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp cho người bị hại khi có hành vi trái pháp luật xâm phạm gây thiệt hại.
Khoản 1- Điều 585 BLDS 2015 ghi nhận nguyên tắc Bồi thường thiệt hại
như sau: "Thiệt hại phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời".
Đây là nguyên tắc đặc trưng của Trách nhiệm bồi thường thiệt hại, xuyên
suốt trong cả quá trình xem xét, giải quyết vấn đề Bồi thường thiệt hại.
Theo Từ điển Tiếng Việt "bồi thường" là việc đền bù những thiệt hại mà
mình phải chịu trách nhiệm; "toàn bộ" là tất cả các phần, bộ phận của một chỉnh thể.
Theo Từ điển giải thích thuật ngữ luật học, Bồi thường thiệt hại là: "Hình
thức Trách nhiệm dân sự nhằm buộc bên có hành vi gây thiệt hại phải khắc phục
hậu quả bằng cách bù đắp, đền bù tổn thất về vật chất và tổn thất về tinh thần cho
bên bị thiệt hại".
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại là nhằm mục đích khơi phục lại quyền và
lợi ích hợp pháp bị xâm hại, bảo hộ quyền của mỗi cơng dân, bảo đảm tính cơng
bằng giữa các bên nói riêng và đối với tồn xã hội. Khi một người có hành vi trái
pháp luật gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe, tài sản của người khác phải có
nghĩa vụ bồi thường sự thiệt hại đó nhằm bù đắp tổn thất về tính mạng, sức khỏe,
khắc phục những thiệt hại về mặt tài sản giúp người bị thiệt hại và gia đình họ khắc
phục hậu quả xấu về tính mạng, sức khỏe, tài sản, khơi phục lại các quyền và lợi ích

bị xâm phạm, khơi phục lại tình trạng ban đầu - tình trạng trước khi xảy ra thiệt hại.


16

Thiệt hại đó có thể là thiệt hại về tài sản, về tính mạng, sức khỏe và có thể là
thiệt hại về mặt tinh thần. Thiệt hại được tính giá trị bằng tiền gồm tài sản bị hủy
hoại, hư hỏng; tiền chi phí thuốc men, đi lại; mai táng phí, tiền "bù đắp tổn thất về
mặt tinh thần". Việc ấn định mức bồi thường thiệt hại nói chung là theo nguyên tắc
gây thiệt hại bao nhiêu thì phải bồi thường bấy nhiêu tức là phải bồi thường toàn bộ
thiệt hại. Thiệt hại sẽ không được chấp nhận nếu những chi phí đó là khơng phù hợp
với thực tế và tính toán thiệt hại theo sự suy diễn chủ quan.
Về nguyên tắc, việc bồi thường phải là sự tái lập nguyên trạng tài sản của
người bị thiệt hại như khơng có thiệt hại nào xảy đến. Nhưng mức độ lỗi sẽ là cơ sở
của sự tăng, giảm mức bồi thường thiệt hại, do vậy người gây thiệt hại phải bồi
thường toàn bộ thiệt hại trong các trường hợp:
- Khi người gây thiệt hại có hành vi cố ý. Đây là trường hợp gây thiệt hại có
chủ ý gây ra thiệt hại, tức là đã chủ động thực hiện hành vi gây thiệt hại và mong
muốn thiệt hại đó xảy ra. Về nguyên tắc người có hành vi gây thiệt hại phải chịu
hồn tồn trách nhiệm đối với hành vi đó. Khơng đặt ra trường hợp miễn giảm mức
bồi thường thiệt hại với lỗi cố ý. Do đó, người gây thiệt hại với lỗi cố ý, khi mà mức
độ thiệt hại có thể lớn hơn khả năng kinh tế của người đó, thì người đó cũng khơng
được giảm mức bồi thường (trừ trường hợp do các bên thỏa thuận).
- Khi người gây thiệt hại có lỗi vơ ý mà thiệt hại khơng quá lớn so với khả
năng kinh tế trước mắt và lâu dài của họ.
Việc bồi thường tồn bộ có ý nghĩa khơi phục lại tình trạng ban đầu như
trước khi thiệt hại xảy ra, nên bồi thường thiệt hại phải kịp thời, nhất là trong các
trường hợp thiệt hại về tính mạng, sức khỏe. Tính kịp thời ở đây là sự xác định về
mặt thời gian kể từ khi gây ra thiệt hại. Xác định thế nào là "kịp thời" là hết sức cần
thiết. "Kịp thời" có thể hiểu là một cách đúng lúc, không chậm trễ.

Thiệt hại xảy ra trong thực tế rất đa dạng, khó có thể quy định cụ thể việc bồi
thường như thế nào là kịp thời cho từng trường hợp cụ thể, nhưng cần thiết phải có
các căn cứ để xác định tính kịp thời. Các căn cứ đó có thể là người gây thiệt hại trên
cơ sở xác định mức độ thiệt hại phải có những hành vi khơi phục lại ngun trạng


×