Tải bản đầy đủ (.doc) (208 trang)

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các vụ tai nạn giao thông đường bộ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (696.39 KB, 208 trang )

MỞ ĐẦU
I. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Giao thông vận tải nói chung, GTVTĐB nói riêng đóng một vị trí
quan trọng trong sự phát triển của nền kinh tế quốc dân, bảo đảm an ninh
quốc phòng của mỗi quốc gia. Bên cạnh những lợi ích to lớn do GTVT
mang lại, trong quá trình sử dụng các phương tiện GTVT cơ giới đường bộ
đã có không ít vụ tai nạn xảy ra gây những thiệt hại nghiêm trọng về tính
mạng, sức khỏe của con người và của cải vật chất của xã hội. Mỗi năm,
trên thế giới có 700.000 người bị chết và trên 10 triệu người bị thương vì
TNGT, thiệt hại về kinh tế khoảng 500 tỷ USD (Báo cáo của Ủy ban An
toàn giao thông Quốc gia, 2000). Đó là một trong những nhân tố gây ra sự
thiếu ổn định, sự mất an toàn trong trật tự chung của xã hội. Các nước trên
thế giới đều phải đối mặt với tình trạng TNGT gia tăng. Để làm giảm đến
mức thấp nhất thiệt hại do hoạt động của các phương tiện giao thông đường
bộ gây ra, bên cạnh việc đầu tư nâng cấp hệ thống đường xá, cầu cống,
nghiên cứu sản xuất các phương tiện giao thông đường bộ hiện đại có hệ số
an toàn cao, các nước đều quan tâm đến việc xây dựng hoàn chỉnh các quy
định về trật tự an toàn giao thông, các quy định về việc xử lý các hành vi vi
phạm trong đó có các quy định về TNBTTH.
Hiện nay đất nước ta đang trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, GTVT chiếm một vị trí hết sức quan trọng, bởi vì đó là một ngành
thuộc kết cấu hạ tầng tạo động lực phát triển của toàn bộ nền kinh tế. Hệ
thống GTVTĐB ở nước ta từng bước được đầu tư nâng cấp, sửa chữa, xây
dựng mới; phương tiện vận tải tăng nhanh về số lượng, đa dạng về chủng
loại, từng bước đáp ứng được yêu cầu phát triển của nền kinh tế, an ninh
quốc phòng và nhu cầu đi lại của nhân dân. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh
hiện nay do sự mất cân đối giữa cầu, đường, phương tiện, người tham gia
5
giao thông và các yếu tố xã hội, tình trạng TNGT đã và đang diễn biến hết
sức nghiêm trọng, gây thiệt hại lớn về tính mạng, sức khỏe, về của cải vật
chất, ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư nước ngoài, gây tâm lý lo lắng cho


người dân, gây mất ổn định trật tự, an toàn xã hội và đang là mối quan tâm
của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, của mọi tầng lớp nhân dân. Theo
thống kê, trong thời gian từ năm 1990 đến năm 1999 ở nước ta xảy ra
146.230 vụ TNGTĐB làm chết 49.285 người, làm bị thương 156.270 người,
gây thiệt hại lớn về tài sản (Báo cáo của Ủy ban An toàn giao thông Quốc
gia, 2000). Riêng trong sáu tháng đầu năm 2000 đã xảy ra 11.560 vụ, làm
chết 3.685 người, làm bị thương 12.999 người (Báo cáo của Ủy ban An
toàn giao thông Quốc gia, 2000). Nhiều người đã phải thừa nhận rằng:
"Chiến tranh đã qua đi, máu trên chiến trường đã ngừng chảy, nhưng máu
trên mặt đường đang chảy và tiếp tục gia tăng".
Để làm giảm một cách cơ bản TNGT nói chung và TNGTĐB nói
riêng, đòi hỏi phải có một giải pháp đồng bộ mang tính chiến lược và phải
có thời gian. Một mặt, phải tăng cường tuyên truyền, giáo dục pháp luật
nâng cao ý thức tự giác chấp hành các quy định về trật tự an toàn giao
thông đường bộ, đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất, các điều kiện bảo đảm an
toàn, năng lực quản lý an toàn giao thông, mặt khác, phải thiết lập kỷ cương
trong việc chấp hành pháp luật, áp dụng các biện pháp cưỡng chế một cách
đồng bộ nhằm ngăn chặn tình trạng vi phạm trật tự an toàn giao thông
đường bộ một cách phổ biến như hiện nay, đồng thời hoàn chỉnh các quy
định về TNBTTH do TNGTĐB gây ra để khắc phục kịp thời, toàn bộ thiệt
hại về tính mạng, sức khỏe, tài sản của công dân và tài sản của Nhà nước,
góp phần phòng ngừa tai nạn.
Thực tiễn công tác giải quyết việc BTTH ngoài hợp đồng nói
chung, BTTH trong các vụ TNGTĐB nói riêng cho thấy còn có nhiều
vướng mắc, thiếu thống nhất trong việc xác định thiệt hại, tính toán mức
6
thiệt hại, nhất là trong việc tính toán thiệt hại về mặt tinh thần; xác định
mối quan hệ nhân quả không thống nhất, chưa chính xác. Đặc biệt, trong
các vụ TNGTĐB chưa phân biệt rõ giữa việc phải chịu trách nhiệm hình sự
của người có lỗi gây ra tai nạn với TNBTTH, khắc phục hậu quả xảy ra;

vấn đề xác định trách nhiệm, giới hạn bồi thường, việc chuyển giao quyền
yêu cầu giữa cơ quan bảo hiểm với chủ xe, lái, phụ xe trong việc thực hiện
bồi thường theo hợp đồng bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới. Các vấn đề
như biện pháp bảo đảm thi hành BTTH, bồi thường trong trường hợp người
thành niên gây tai nạn mà không có tài sản riêng để bồi thường, trách
nhiệm bồi thường của người hành động trong tình thế cấp thiết... chưa được
quy định cụ thể, thế nhưng cũng chưa có các văn bản hướng dẫn thi hành.
Trong phần lớn các vụ TNGTĐB các bên tự thỏa thuận với nhau về việc
BTTH trong đó có nhiều trường hợp việc thỏa thuận không tuân theo hoặc
tuân theo không đầy đủ nguyên tắc trình tự, cách tính toán thiệt hại, mức
BTTH nên sau đó xảy ra nhiều khiếu kiện, yêu cầu Tòa án giải quyết.
Hiện nay, mặc dù đã có quy định của BLDS, nhưng thực tiễn giải
quyết việc BTTH của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền vẫn thực hiện
theo tinh thần hướng dẫn của Thông tư số 173/UBTP ngày 23-3-1973 "Về
việc xét xử các tranh chấp BTTH ngoài hợp đồng" và Thông tư số
03/TATC ngày 5-4-1988 "Hướng dẫn BTTH trong các vụ tai nạn ôtô" của
Tòa án nhân dân tối cao. Đây là những văn bản được ban hành trong thời
kỳ nền kinh tế tập trung, bao cấp, chỉ mang tính định hướng, không cụ thể
và không còn đáp ứng được đòi hỏi của điều kiện hiện nay, khi những quan
hệ xã hội trong đó có các quan hệ dân sự bị chi phối bởi quan hệ kinh tế thị
trường. Cho đến nay đã hơn 4 năm, kể từ ngày BLDS có hiệu lực pháp luật,
nhưng vẫn chưa có một văn bản quy phạm pháp luật nào của cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền hướng dẫn các quy định của BLDS về vấn đề BTTH
do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, bồi thường do tính mạng, sức khỏe,
7
nhân phẩm, danh dự và tài sản bị xâm phạm... Thực tiễn công tác của các
cơ quan bảo vệ pháp luật cho thấy cần sớm phải có các văn bản quy phạm
pháp luật hướng dẫn thi hành về những vấn đề này. Tất cả các vấn đề trên
đây cho thấy việc nghiên cứu đề tài "Trách nhiệm bồi thường thiệt hại
trong các vụ tai nạn giao thông đường bộ" là hết sức cần thiết.

2. Tình hình nghiên cứu
Dưới góc độ khoa học pháp lý, chế định BTTH ngoài hợp đồng đã
được nhiều nhà khoa học pháp lý trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu
ở các cấp độ khác nhau.
Ở Việt Nam, đến nay đã có luận án Thạc sĩ luật học của Phạm Kim
Anh về đề tài "Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng"; Luận án
Thạc sĩ luật học của Lê Mai Anh về đề tài "Những vấn đề cơ bản về trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong Bộ luật dân sự"; Luận án
Thạc sĩ luật học của Trần Thị Thu Hiền về đề tài "Những nguyên tắc bồi
thường thiệt hại trong luật dân sự Việt Nam"; Luận án Thạc sĩ luật học của
Lê Kim Loan về đề tài "Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
theo Bộ luật dân sự Việt Nam", một số bài viết của Nguyễn Đức Giao, Thạc
sĩ Nguyễn Đức Mai về trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng và trách nhiệm
bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây ra... đăng trên Tạp chí
Tòa án nhân dân, Tạp chí Dân chủ và pháp luật cũng như các giáo trình
Luật dân sự đề cập vấn đề này. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu này
mới dừng lại ở mức độ chung nhất hoặc chỉ đề cập ở phạm vi hẹp trong nội
dung nghiên cứu về các vấn đề khác nhau, mà chưa có tác giả nào nghiên
cứu đầy đủ có hệ thống TNBTTH ngoài hợp đồng để trên cơ sở đó nghiên
cứu một trường hợp cụ thể của loại trách nhiệm này - trách nhiệm bồi
thường thiệt hại trong các vụ tai nạn giao thông đường bộ, một đề tài đang
cần được làm rõ về mặt lý luận và rất cấp bách về mặt thực tiễn.
8
Ở nước ngoài có các công trình của một số tác giả về các vấn đề
liên quan đến đề tài này; ví dụ như tác giả: V.T.Mirnop, M.M. Agarkop,
V.P Pobdopylo - Liên Xô (cũ), Palemana - Cộng hòa Pháp, Vicodavarkallo -
Ba Lan. Tuy nhiên, các công trình này chỉ nghiên cứu việc BTTH ngoài
hợp đồng nói chung hay BTTH do ôtô, xe máy gây ra nói riêng ở các nước
đó.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu:
Mục đích nghiên cứu của luận án là làm sáng tỏ một cách có hệ thống
những vấn đề lý luận và thực tiễn của TNBTTH trong các vụ TNGTĐB. Từ
đó, đưa ra những giải pháp hoàn thiện pháp luật về vấn đề này, cũng như
đưa ra được những kiến nghị nhằm góp phần vào thực tiễn giải quyết việc
BTTH trong các vụ TNGTĐB.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên đây, tác giả của luận án đã
đưa ra và giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu sau đây:
- Phân tích làm rõ khái niệm, nguyên nhân, điều kiện và đặc điểm
tình hình của các vụ TNGTĐB ở Việt Nam.
- Nghiên cứu sự hình thành và phát triển của chế định BTTH ngoài
hợp đồng nói chung và TNBTTH trong các vụ TNGTĐB trong lịch sử lập
pháp Việt Nam; làm rõ những nội dung cụ thể của chế định này, đồng thời
so sánh với quy định của pháp luật một số nước về vấn đề này.
- Nghiên cứu, tìm hiểu những quan điểm khoa học xung quanh vấn
đề TNBTTH ngoài hợp đồng để xây dựng lý luận về khái niệm TNBTTH
ngoài hợp đồng, từ đó đi sâu nghiên cứu và làm rõ khái niệm TNBTTH
trong các vụ TNGTĐB.
9
- Tổng kết thực tiễn giải quyết BTTH trong các vụ TNGTĐB trong
những năm qua gắn với lý luận, căn cứ vào các quy định của BLDS và các
quy định khác của pháp luật, đưa ra những kiến nghị có căn cứ khoa học và
thực tiễn về việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật làm cơ sở cho
việc giải quyết BTTH trong các vụ TNGTĐB.
- Đề xuất các biện pháp phòng ngừa các vụ TNGTĐB cũng như các
biện pháp bảo đảm việc BTTH trong các vụ TNGTĐB.
Phạm vi nghiên cứu:
TNBTTH trong các vụ TNGTĐB là một vấn đề phức tạp không
những về mặt lý luận mà cả về mặt thực tiễn. Vì vậy luận án chỉ giới hạn ở

phạm vi nghiên cứu một số vấn đề cơ bản dưới góc độ điều tra xã hội học và
Luật dân sự, như: làm rõ khái niệm TNBTTH trong các vụ TNGTĐB, nguyên
nhân điều kiện và tình hình của TNGTĐB, các nguyên tắc cơ bản và cơ sở
pháp lý của việc BTTH trong các vụ TNGTĐB; trên cơ sở đó đưa ra một số
biện pháp cả về mặt lý luận cả về mặt thực tiễn dưới góc độ của Luật dân sự.
Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của luận án là những vấn đề lý luận chung về
TNBTTH ngoài hợp đồng nói chung và TNBTTH ngoài hợp đồng trong
các vụ TNGTĐB nói riêng; căn cứ pháp lý của TNBTTH và thực tiễn giải
quyết BTTH trong các vụ TNGTĐB.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của luận án là quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về
Nhà nước và Pháp luật, về phát triển nền kinh tế thị trường có sự quản lý
của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; những thành tựu của các
khoa học: triết học, lôgíc học, luật dân sự, tâm lý học... Luận án được trình
bày trên cơ sở nghiên cứu các văn bản pháp luật dân sự, các văn bản hướng
dẫn áp dụng pháp luật dân sự, các bản án, quyết định của Tòa án nhân dân
10
các cấp, các tài liệu của Cục Cảnh sát giao thông đường bộ, đường sắt
thuộc Bộ Công an, các tài liệu pháp lý trong và ngoài nước.
Phương pháp nghiên cứu: Đi từ cái chung đến cái riêng, từ khái
quát đến cụ thể dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử - tác giả đặc biệt coi trọng phương
pháp hệ thống, phương pháp so sánh, phương pháp lôgic pháp lý, phương
pháp phân tích, phương pháp thống kê, tổng hợp, phương pháp điều tra xã
hội học và phương pháp dự báo.
5. Những đóng góp mới của luận án
- Là luận án tiến sĩ đầu tiên ở Việt Nam khái quát một cách có hệ
thống cơ sở lý luận về TNBTTH ngoài hợp đồng từ đó nghiên cứu một loại

trách nhiệm cụ thể "Trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các vụ tai nạn
giao thông đường bộ". Luận án đóng góp vào lý luận trách nhiệm bồi
thường thiệt hai ngoài hợp đồng các khái niệm TNGTĐB theo nghĩa rộng
và theo nghĩa hẹp; khái niệm TNBTTH trong các vụ TNGTĐB. Trong hoàn
cảnh vấn đề an toàn trong hoạt động GTVT nói chung, an toàn GTVTĐB nói
riêng không còn là vấn đề của một quốc gia, nhất là ở nước ta do sự mất cân
đối giữa kết cấu hạ tầng, sự gia tăng của phương tiện, ý thức chấp hành các
quy định về trật tự an toàn giao thông; thiếu các quy định của pháp luật về bảo
đảm trật tự an toàn giao thông; sự yếu kém trong quản lý của các cơ quan nhà
nước nên tình hình TNGT đặc biệt là TNGTĐB diễn biến phức tạp và có
chiều hướng gia tăng gây thiệt hại lớn về tính mạng, sức khỏe của con người,
gây thiệt hại lớn về tài sản, gây mất an toàn xã hội; do đó, luận án góp phần
tìm ra những nguyên nhân, điều kiện của các vụ TNGTĐB, dự báo tình hình
TNGTĐB trong những năm tới. Đồng thời, luận án góp phần giải quyết một
cách có hệ thống những vướng mắc xung quanh chế định BTTH ngoài hợp
đồng nói chung, BTTH trong các vụ TNGT nói riêng.
11
- Trên cơ sở lý luận chung về TNBTTH ngoài hợp đồng, luận án đã
làm rõ về mặt lý luận cơ sở pháp lý của TNBTTH cũng như việc xác định
TNBTTH trong các vụ tại nạn giao thông đường bộ.
- Xuất phát từ những đòi hỏi thực tiễn gắn với việc nghiên cứu hoàn
chỉnh về mặt lý luận, trên cơ sở nghiên cứu các quy định của pháp luật, của
BLDS hiện hành, luận án đưa ra các kiến nghị và giải pháp nhằm hoàn
thiện pháp luật về BTTH ngoài hợp đồng nói chung và BTTH trong các vụ
TNGTĐB nói riêng. Xác định được mối quan hệ giữa việc BTTH với việc
phòng ngừa và đấu tranh làm giảm tai nạn, mối quan hệ giữa TNBTTH với
các trách nhiệm pháp lý khác là một trong những cơ sở cho việc hoàn thiện
hệ thống các quy định của pháp luật về bảo đảm trật tự an toàn giao thông
đường bộ. Những kiến nghị, giải pháp này có thể tham khảo trong việc xây
dựng luật giao thông đường bộ, xây dựng các văn bản hướng dẫn việc giải

quyết BTTH ngoài hợp đồng nói chung và BTTH trong các vụ TNGTĐB
nói riêng, góp phần đẩy mạnh sự nghiệp phát triển kinh tế của đất nước.
- Một đóng góp mới khác của luận án đó là từ việc tổng kết thực
tiễn vấn đề BTTH trong các vụ TNGTĐB, trong luận án đã có những kiến
nghị về các biện pháp bảo đảm việc BTTH trong các vụ án TNGTĐB.
6. Ý nghĩa của luận án
Các kết quả nghiên cứu của luận án sẽ có ý nghĩa tham khảo trong
việc hoàn thiện pháp luật về chế định BTTH ngoài hợp đồng cũng như
trong việc hướng dẫn việc giải quyết BTTH ngoài hợp đồng nói chung và
BTTH trong các vụ TNGTĐB nói riêng. Kết quả nghiên cứu có thể dùng
làm tài liệu tham khảo trong công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật về
việc giữ gìn trật tự an toàn giao thông, phòng ngừa, đấu tranh làm giảm tai
nạn và làm tài liệu tham khảo trong việc biên soạn giáo trình cũng như
giảng dạy tại các cơ sở đào tạo bậc đại học về chuyên ngành luật dân sự và
làm tài liệu tham khảo cho các Viện nghiên cứu về khoa học pháp lý.
12
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ
lục, luận án gồm có 3 chương, được chia thành 11 mục.
13
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
TRONG CÁC VỤ TAI NẠN GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ
1.1. KHÁI NIỆM TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI TRONG
CÁC VỤ TAI NẠN GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ
1.1.1. Khái niệm tai nạn giao thông đường bộ
Thuật ngữ "tai nạn" xuất hiện trong nhiều lĩnh vực của cuộc sống
của con người. Tùy từng trường hợp tai nạn xảy ra mà có các tên gọi cho
mỗi một loại tai nạn đó. Ví dụ: nếu tai nạn xảy ra trong lao động, thì gọi là
tai nạn lao động; nếu tai nạn xảy ra trong quá trình tham gia giao thông, thì

gọi là TNGT; nếu tai nạn xảy ra tại trường học, thì gọi là tai nạn học
đường... Tuy nhiên, có thể nhận thấy tai nạn xảy ra phổ biến nhất là trong các
lĩnh vực hoạt động sản xuất ra của cải vật chất. Tai nạn là một hiện tượng
xảy ra trong đời sống xã hội, gây tổn thất về tính mạng, sức khỏe, tài sản. Tai
nạn là một trong những nguyên nhân làm mất ổn định trật tự an toàn xã hội,
đã và đang ảnh hưởng không nhỏ đến sinh hoạt xã hội mà con người luôn
phải tìm cách chế ngự, làm giảm và loại trừ ra khỏi đời sống xã hội.
Theo Đại từ điển Tiếng Việt, tai nạn hiểu theo nghĩa phổ biến nhất là
"việc không may bất ngờ xảy ra, gây thiệt hại lớn về người và của" [33, tr.
142]. Còn theo Từ điển Tiếng Việt, thì tai nạn là "việc rủi ro bất ngờ xảy ra,
gây thiệt hại lớn cho con người" [78, tr. 868].
Theo chúng tôi, các định nghĩa trên chỉ mới đưa ra tai nạn là cái (sự
kiện) xảy ra gây thiệt hại cho con người (về tính mạng, sức khỏe, tài sản) mà
chưa làm rõ được nguyên nhân của tai nạn. Thực tiễn cuộc sống chứng minh
rằng tai nạn do nhiều nguyên nhân khác nhau. Những nguyên nhân này có
thể là do hành vi của con người hoặc có thể do các tác nhân tự nhiên khác. Từ
14
những nguyên nhân này gây ra các tai nạn và tai nạn gây ra những hậu quả
xấu ngoài mong muốn chủ quan của con người. Các tác nhân khác là
nguyên nhân của tai nạn cũng có thể một cách gián tiếp do hành vi của con
người, cũng có thể do thiên tai hoặc những cái ngoài khả năng chế ngự của
con người. Thiệt hại xảy ra có thể là thiệt hại về tính mạng, thiệt hại về sức
khỏe, thiệt hại về tinh thần của con người hay là thiệt hại về tài sản.
Trong lĩnh vực pháp luật, chưa có một định nghĩa chính thức về tai
nạn nói chung. Tuy nhiên, trong một số quy phạm pháp luật của một số
ngành luật và trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học pháp lý, đã có một số
khái niệm về tai nạn trong từng lĩnh vực cụ thể.
Điều 105 Bộ luật lao động quy định: "Tai nạn lao động là tai nạn
gây thương tổn cho bất kỳ bộ phận, chức năng nào của cơ thể người lao
động hoặc gây tử vong, xảy ra trong quá trình lao động, gắn liền với việc

thực hiện công việc và nhiệm vụ lao động".
Trong nghiên cứu khoa học thì khái niệm "tai nạn", khái niệm "tai
nạn giao thông đường bộ" đã được một số tác giả đề cập đến.
Theo tác giả Vũ mạnh Thắng, "Tai nạn là sự việc xảy ra bất ngờ do
người tham gia giao thông hoặc vi phạm các quy định về trật tự an toàn
giao thông hoặc gặp phải tình huống, sự cố đột xuất, không kịp xử lý, có
thiệt hại về tính mạng, sức khỏe con người, thiệt hại về tài sản" [18, tr. 76].
Theo tác giả Đào Công Hải, thì "Tai nạn giao thông là tai nạn xảy
ra khi các đối tượng tham gia trên đường giao thông công cộng gây nên: -
Thiệt hại về sức khỏe, tính mạng con người - Thiệt hại về tài sản hoặc thiệt
hại đặc biệt nghiêm trọng về tài sản" [16, tr. 82].
Còn theo Thạc sĩ Đỗ Đình Hòa, thì "Tai nạn giao thông là sự kiện
bất ngờ, nằm ngoài ý muốn chủ quan của con người. Nó xảy ra khi các đối
tượng tham gia giao thông đang hoạt động trên đường giao thông công
15
cộng, đường chuyên dùng hoặc ở các địa bàn giao thông công cộng nhưng
do chủ quan, vi phạm các quy tắc về an toàn giao thông hoặc do gặp phải các
sự cố đột xuất không kịp phòng tránh, đã gây thiệt hại nhất định cho tính
mạng, sức khỏe con người hoặc tài sản của Nhà nước và nhân dân" [16, tr.
20].
Theo chúng tôi ba khái niệm trên, đều nêu được TNGT là một sự
kiện gây nên thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tài sản. Riêng khái niệm thứ
hai chưa nêu lên được vế thứ nhất của TNGT như khái niệm thứ nhất và
khái niệm thứ ba. TNGT là một sự kiện và có hai mặt của nó. Mặt thứ nhất
là cái gì làm cho TNGT (sự kiện) xảy ra hay nói cách khác nguyên nhân
của TNGT. Về mặt này nguyên nhân của TNGT có thể: do vi phạm các
quy định về an toàn GTVT; do những hành vi cản trở GTVT; do đưa vào
sử dụng các phương tiện GTVT không bảo đảm an toàn hoặc điều động
người không đủ điều kiện điều khiển phương tiện GTVT; do gặp sự cố đột
xuất không thể xử lý được hoặc do các trường hợp bất khả kháng. Mặt thứ

hai là TNGT (sự kiện) đã gây ra cái gì hay nói cách khác hậu quả của sự
kiện đó. Về mặt này hậu quả của TNGT có thể là: thiệt hại về tính mạng,
thiệt hại về sức khỏe, thiệt hại về tinh thần, thiệt hại về tài sản (có thể một
hoặc hai hoặc ba, có thể là tất cả các loại thiệt hại này trong một TNGT).
Theo quy định tại Điều 609 BLDS, thì TNBTTH chỉ phát sinh trong
trường hợp người nào do lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý xâm phạm đến tính mạng,
sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, các quyền lợi ích hợp pháp
khác của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc các
chủ thể khác mà gây thiệt hại. Tuy nhiên, cần phân biệt là không phải mọi
trường hợp xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, tài sản của cá nhân, tài sản
của pháp nhân hoặc các chủ thể khác trong khi tham gia giao thông đều gọi là
TNGT. Chỉ gọi là TNGT nếu hành vi vi phạm các quy định về an toàn giao
16
thông đường bộ là do lỗi vô ý. Trong trường hợp thiệt hại xảy ra trong quá
trình tham gia giao thông được thực hiện do lỗi cố ý, thì không thể gọi là
TNGT mà tùy từng trường hợp có tên gọi tương ứng.
Ví dụ 1: A có mâu thuẫn với B. Biết B đang trên đường đi từ nơi
làm việc về nhà, A đã dùng xe ôtô phóng nhanh cố ý đâm vào B với mục
đích giết B. Hậu quả là B bị chết. Trong trường hợp này không thể gọi là
TNGT mà đây là một vụ án giết người.
Ví dụ 2: C biết D vừa mua một chiếc xe máy Dream II. Do C ghét
D vì hay khoe khoang, nên đã có ý định phá hỏng chiếc xe máy Dream II của
D. Biết D đi làm thường hay dựng xe máy bên vệ đường giao thông, C đã
lấy xe ôtô leo lên vệ đường đâm vào chiếc xe máy Dream II của D làm cho
chiếc xe máy đó hư hỏng nặng. Trong trường hợp này cũng không thể gọi
là TNGT mà đây là một vụ án cố ý làm hủy hoại tài sản.
Từ sự phân tích trên chúng tôi đưa ra khái niệm chung về TNGTĐB
như sau:
TNGTĐB là một sự kiện do hành vi của con người vi phạm các quy
định về an toàn giao thông đường bộ, do sự cố đột xuất hoặc do các trường

hợp bất khả kháng gây ra trong quá trình tham gia giao thông của con
người gây thiệt hại về tính mạng, về sức khỏe, về tinh thần của con người
hoặc thiệt hại về tài sản.
Tuy nhiên, phạm vi nghiên cứu cũng như mục đích nghiên cứu của
luận án là làm rõ chế định TNBTTH trong các vụ TNGTĐB; vì vậy, nếu
khái niệm chung về TNGTĐB như chúng tôi đã đưa ra trên đây thì không
phải trong mọi trường hợp (trong mọi vụ TNGTĐB) đều phát sinh TNBTTH
ngoài hợp đồng.
Theo quy định tại Điều 627 BLDS, thì phương tiện GTVT cơ giới
là nguồn nguy hiểm cao độ và chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao
17
chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ chỉ không phải BTTH, nếu
thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại; thiệt hại xảy ra
trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết, trừ trường hợp pháp
luật có quy định khác. Như vậy, trong các trường hợp này nếu có TNGTĐB
xảy ra gây thiệt hại thì cũng không làm phát sinh TNBTTH.
Từ sự phân tích trên chúng tôi đưa ra khái niệm TNGTĐB làm phát
sinh TNBTTH ngoài hợp đồng như sau:
TNGTĐB làm phát sinh TNBTTH ngoài hợp đồng là một sự kiện do
hành vi của con người vi phạm một cách cố ý hoặc vô ý các quy định về an
toàn giao thông đường bộ gây ra trong quá trình tham gia giao thông của
con người, gây thiệt hại về tính mạng, về sức khỏe, về tinh thần của con
người hoặc gây thiệt hại về tài sản.
Trong luận án này, TNGTĐB được hiểu theo khái niệm này.
1.1.2. Những vấn đề chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng
1.1.2.1. Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992
quy định: "Các cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế đều
bình đẳng trước pháp luật. Vốn và tài sản hợp pháp được Nhà nước bảo hộ"

(Điều 22); "Công dân có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để
dành... Nhà nước bảo vệ quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế của công
dân" (Điều 58); "Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được
pháp luật bảo hộ về tính mạng, danh dự và nhân phẩm" (Điều 71).
Các quyền nêu trên đồng thời là khách thể bảo vệ của nhiều ngành
luật khác nhau. Mọi hành vi trái pháp luật, đều bị xử lý theo quy định của
pháp luật. Nhà nước quy định những hình thức trách nhiệm pháp lý buộc
18
những người có hành vi vi phạm pháp luật khắc phục hậu quả do hành vi
trái pháp luật của họ gây ra và phải BTTH (nếu có).
Nhiệm vụ của Luật dân sự là bảo vệ các quyền và lợi ích nói trên
dưới góc độ đặc thù của ngành luật này. Điều 1 BLDS Việt Nam quy định:
"Bộ luật dân sự có trách nhiệm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các tổ
chức, cá nhân, lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, bảo đảm sự bình đẳng
và an toàn pháp lý trong quan hệ dân sự, góp phần tạo điều kiện đáp ứng nhu
cầu vật chất và tinh thần cho nhân dân, thúc đẩy sự phát triển của xã hội".
Nhà nước sử dụng nhiều phương thức khác nhau để bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của cá nhân và tổ chức khi bị xâm hại bởi những hành
vi trái pháp luật. Luật dân sự các nước phân chia TNDS đều dựa vào mối
quan hệ với hợp đồng (một hình thức phổ biến, đặc trưng và chủ yếu của
giao dịch dân sự). Trách nhiệm phải BTTH do các hành vi trái pháp luật gây
thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe, tài sản, các quyền khác của công dân, tài
sản, uy tín, danh dự của các tổ chức (thường được coi là quyền tuyệt đối của
các chủ thể) không phát sinh từ một hợp đồng được gọi là TNBTTH ngoài
hợp đồng.
Khi một người có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại đối với người
khác làm phát sinh các quan hệ pháp luật dân sự về BTTH. Điều 609 BLDS
Việt Nam quy định: "Người nào do lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý xâm phạm đến
tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, các quyền, lợi ích
hợp pháp của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín tài sản của pháp nhân

hoặc các chủ thể khác mà gây thiệt hại, thì phải bồi thường". Như vậy, theo
quy định trên, người có hành vi gây thiệt hại phải có TNBTTH.
Trong giáo trình luật dân sự của các trường đại học luật, cũng như
các sách báo pháp lý khác khi đề cập đến vấn đề TNBTTH ngoài hợp đồng
19
chưa đưa ra khái niệm chính thức về TNBTTH ngoài hợp đồng. Theo giáo
trình Luật dân sự của Trường Đại học Luật Hà Nội, một trong những căn
cứ làm phát sinh nghĩa vụ dân sự là sự kiện gây thiệt hại do hành vi trái pháp
luật đồng thời đó cũng là căn cứ phát sinh TNBTTH ngoài hợp đồng được
quy định trong Chương V, Phần thứ ba BLDS. Như vậy, theo quan điểm
này thì sự kiện gây thiệt hại do hành vi trái pháp luật làm phát sinh nghĩa
vụ dân sự, có nghĩa là phát sinh "việc mà theo quy định của pháp luật, thì
một hoặc nhiều chủ thể (gọi là người có nghĩa vụ) phải làm một công việc
hoặc không được làm một công việc vì lợi ích của một hay nhiều chủ thể
khác (gọi là người có quyền)" (Điều 285 BLDS). Đồng thời cũng theo quan
điểm này, thì sự kiện gây thiệt hại do hành vi trái pháp luật làm phát sinh
TNBTTH ngoài hợp đồng. Theo chúng tôi, nếu cho rằng "Gây thiệt hại do
hành vi trái pháp luật" là căn cứ làm phát sinh nghĩa vụ dân sự, đồng thời
cũng là căn cứ làm phát sinh TNBTTH ngoài hợp đồng, thì vô hình chung
đã cho rằng nghĩa vụ dân sự và TNBTTH là hai phạm trù độc lập với nhau
không có mối quan hệ với nhau. Về vấn đề này hiện nay còn có các ý kiến
khác nhau. Chúng tôi cho rằng, dù muốn hay không thì khi nghiên cứu
khoa học về một vấn đề trước hết phải nghiên cứu các chế định của pháp
luật về vấn đề đó cũng như thực tiễn áp dụng các chế định đó như thế nào,
để từ đó có những kết luận của mình về vấn đề đó.
Theo quy định của BLDS thì "gây thiệt hại do hành vi trái pháp
luật" là một trong các căn cứ xác lập quyền, nghĩa vụ dân sự (Điều 13) và
cũng là một trong các căn cứ phát sinh nghĩa vụ dân sự (Điều 286). Khi đã
phát sinh nghĩa vụ dân sự, thì "người có nghĩa vụ dân sự phải thực hiện
nghĩa vụ của mình một cách trung thực, theo tinh thần hợp tác, đúng cam kết,

không trái pháp luật, đạo đức xã hội" (Điều 288). Nếu "người có nghĩa vụ mà
không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ, thì phải chịu TNDS đối
20
với người có quyền" (khoản 1 Điều 308). Theo tinh thần quy định tại Mục 3
Chương I Phần thứ ba của BLDS, thì TNDS bao gồm: TNBTTH; trách nhiệm
do không thực hiện nghĩa vụ giao vật; trách nhiệm do không thực hiện nghĩa
vụ phải làm một công việc hoặc không được làm một công việc; trách nhiệm
do chậm thực hiện nghĩa vụ dân sự; trách nhiệm do chậm tiếp nhận việc thực
hiện nghĩa vụ dân sự. Từ sự phân tích trên, chúng tôi cho rằng, nghĩa vụ dân
sự và TNBTTH là hai phạm trù khác nhau, nhưng có mối quan hệ biện chứng
với nhau theo cặp phạm trù: "Nguyên nhân - kết quả". Cũng là một trong các
căn cứ phát sinh nghĩa vụ dân sự, nhưng các căn cứ như: hợp đồng dân sự;
hành vi dân sự đơn phương; chiếm hữu, sử dụng tài sản, được lợi về tài sản
không có căn cứ pháp luật; thực hiện công việc không có ủy quyền, thì sự
phân biệt giữa nghĩa vụ dân sự và TNDS, trong đó có trách nhiệm bồi thường
là rõ ràng. Giữa chúng có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, nhưng có "khoảng
cách", vi phạm nghĩa vụ dân sự, thì phải chịu TNDS. Đối với căn cứ "gây
thiệt hại do hành vi trái pháp luật", thì khi làm phát sinh nghĩa vụ dân sự, thì
đồng thời làm phát sinh trách nhiệm dân sự (TNBTTH). Nếu xét về mặt lý
luận cũng như căn cứ vào các quy định tại các điều 13, 286, 308 và 310
BLDS thì chúng ta phải phân tích như trên. Tuy nhiên, việc phân biệt này
chỉ là tương đối mà thôi. Thực tiễn chứng minh rằng gây thiệt hại do hành
vi trái pháp luật, thì có trách nhiệm phải bồi thường. Dường như Chương V
Phần thứ ba của BLDS cũng quy định theo hướng này. Có thể thấy rằng về
phương diện lý luận, có sự mâu thuẫn giữa các quy định trong Chương I và
Chương V Phần thứ ba của BLDS. Tuy nhiên, sự phân tích, kết luận trên chỉ
có ý nghĩa về mặt lý luận.
Hiểu chung nhất về khái niệm TNBTTH ngoài hợp đồng chúng ta cần
xuất phát từ các quy định của BLDS cũng như thực tiễn cuộc sống. Với mong
muốn đó, chúng tôi đưa ra khái niệm TNBTTH ngoài hợp đồng như sau:

21
TNBTTH ngoài hợp đồng là một loại TNDS bao gồm TNBTTH về
vật chất và TNBTTH về tinh thần được phát sinh khi người nào do lỗi cố ý
hoặc lỗi vô ý xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy
tín, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh dự,
uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc các chủ thể khác mà gây thiệt hại.
1.1.2.2. Các căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng
Kết quả nghiên cứu cho thấy về các căn cứ làm phát sinh TNBTTH
ngoài hợp đồng còn có nhiều ý kiến khác nhau. Theo pháp luật dân sự của
nước Cộng hòa Pháp, để xem xét TNBTTH của một người có hành vi trái
pháp luật gây thiệt hại thì phải căn cứ vào ba điều kiện: có thiệt hại; xuất
hiện một sự kiện; mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại và sự kiện. Người
gây thiệt hại phải BTTH, nếu có đầy đủ cả ba điều kiện này.
Theo Luật dân sự của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa thì để
làm phát sinh TNBTTH ngoài hợp đồng phải có đủ bốn điều kiện: phải có
hành vi vi phạm pháp luật; phải có lỗi của người có hành vi vi phạm pháp
luật; phải có thiệt hại xảy ra, phải có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi
phạm pháp luật và thiệt hại xảy ra.
Bộ Dân luật Bắc Kỳ năm 1931 quy định về sự tổn hại trái vụ hay là
những "dân sự phạm" cùng "bán dân sự phạm" (theo tác giả thực chất là
TNBTTH ngoài hợp đồng) chỉ quy định "Người nào gây ra thiệt hại đến ai
bởi lỗi của mình thì người đó buộc phải đền sự thiệt hại ấy" (Điều 712 -
Dân luật Bắc Kỳ - 1931). Theo quan điểm này chỉ cần xác định ba điều
kiện: thiệt hại, lỗi và quan hệ nhân quả. Ở đây, hành vi chỉ quy định là gây
thiệt hại, không quy định bắt buộc là hành vi gây thiệt hại phải là hành vi
trái pháp luật.
22
Trong sách "Dân luật tu trị" - xuất bản tại Sài Gòn 1961 - tác giả
Phan Văn Thiết đã đưa ra năm điều kiện phát sinh trách nhiệm về sự làm

thiệt hại cho người khác (Dân luật tu trị dựa trên nền tảng của dân luật Nam
Kỳ 1931). Năm điều kiện đó là: lỗi, sự thiệt hại, sự liên quan giữa thiệt hại
và lỗi, sự bắt chịu trách nhiệm, xác định lỗi của người bị thiệt hại. Ba điều
kiện đầu cũng giống như luật của chúng ta hiện nay, tuy nhiên ở mức độ
hiểu sơ sài hơn. Điều kiện thứ tư nói rằng nếu tự do làm mới phải chịu
trách nhiệm, còn nếu là ngẫu nhiên hay bất khả kháng thì không phát sinh
trách nhiệm. Điều kiện thứ năm nói rằng chỉ có trách nhiệm bồi thường nếu
người bị thiệt hại không có lỗi hoặc lỗi nhẹ.
Bộ Dân luật Sài Gòn 1972 chỉ xác định có ba điều kiện: sự tồn tại,
lỗi, tương quan nhân quả.
Lại có quan điểm cho rằng đã gây thiệt hại thì phải bồi thường. Yếu
tố hành vi trái pháp luật không được đề cập đến.
Theo pháp luật dân sự Việt Nam hiện hành thì căn cứ làm phát sinh
TNDS nói chung cũng như TNBTTH ngoài hợp đồng nói riêng bao gồm
BTTH ngoài hợp đồng và sẽ được phân tích sâu trong Chương II của luận
án. Bốn điều kiện (bốn yếu tố): có hành vi trái pháp luật; có thiệt hại xảy
ra; có lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý; mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp
luật và thiệt hại xảy ra. Bốn điều kiện (bốn yếu tố) này chính là cơ sở pháp
lý của trách nhiệm.
Tuy nhiên, có trường hợp ngoại lệ, đó là trong những trường hợp
thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra thì người chủ sở hữu phương
tiện hoặc người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng vẫn phải chịu
trách nhiệm bồi thường dù rằng họ không có lỗi, trừ các trường hợp do
pháp luật quy định (Điều 627 BLDS).
23
Phân tích "khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt ngoài hợp đồng"
trong giáo trình Luật dân sự của Trường Đại học Luật Hà Nội thì TNBTTH
ngoài hợp đồng trong Chương V Phần thứ ba BLDS phát sinh chủ yếu do
hành vi vi phạm đến các quyền tuyệt đối của các chủ thể khác, có nghĩa là
TNBTTH ngoài hợp đồng chỉ phát sinh từ hành vi trái pháp luật gây thiệt hại.

Xác định căn cứ phát sinh TNBTTH ngoài hợp đồng như vậy theo
chúng tôi là chưa đủ. Theo quy định tại Điều 13 BLDS thì căn cứ xác lập
quyền và nghĩa vụ dân sự bao gồm: Giao dịch dân sự hợp pháp; quyết định
của Tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác; sự kiện pháp lý theo
quy định của pháp luật; sáng tạo giá trị tinh thần là đối tượng thuộc quyền
sở hữu trí tuệ; chiếm hữu tài sản có căn cứ pháp luật; gây thiệt hại do hành
vi trái pháp luật; thực hiện công việc không có ủy quyền; chiếm hữu, sử
dụng tài sản, được lợi tài sản không có căn cứ pháp luật; các căn cứ khác
do pháp luật quy định. Theo chúng tôi, trong các căn cứ nêu trên, ngoài căn
cứ "Giao dịch dân sự hợp pháp", thì tất cả các căn cứ khác có thể sẽ làm
phát sinh nghĩa vụ dân sự ngoài hợp đồng và nếu vi phạm sẽ làm phát sinh
TNBTTH ngoài hợp đồng.
Ngoài các quy định về TNBTTH ngoài hợp đồng do hành vi vi
phạm các quy định của pháp luật gây thiệt hại tại chương V Phần thứ ba
BLDS, còn có các quy định về nghĩa vụ dân sự ngoài hợp đồng phát sinh
không từ các hành vi vi phạm pháp luật bao gồm các trường hợp:
- Người phát hiện vật vô chủ, vật không xác định được ai là chủ sở
hữu được trở thành chủ sở hữu nếu là động sản, được hưởng khoản tiền
thưởng nếu là bất động sản (Điều 274);
- Người tìm thấy vật bị chôn dấu, bị chìm đắm được hưởng khoản
tiền thưởng nếu vật tìm thấy là cổ vật, di tích lịch sử, văn hóa; được hưởng
24
50% giá trị của vật, nếu vật tìm thấy không phải là cổ vật, di tích lịch sử,
văn hóa (Điều 248).
- Người nhặt được vật bị đánh rơi, bỏ quên được trở thành chủ sở
hữu nếu vật đó có giá trị nhỏ; được hưởng 50% giá trị của vật nếu vật có
giá trị lớn; được hưởng một khoản tiền thưởng nếu vật bị đánh rơi, bỏ quên
là cổ vật, di tích lịch sử, văn hóa (Điều 249).
- Người bắt được gia súc, gia cầm bị thất lạc được thanh toán tiền
công nuôi, giữ và các chi phí khác, được hưởng một nửa số gia súc sinh ra

hoặc toàn bộ hoa lợi do gia cầm sinh ra và phải BTTH nếu cố ý làm chết
gia súc gia cầm (Điều 250 và Điều 251).
- Tài sản bị xử lý để thực hiện nghĩa vụ của chủ sở hữu (Điều 259);
- Tài sản bị trưng mua, bị tịch thu (Điều 261 và Điều 262).
Trong tất cả các trường hợp nêu trên giữa các chủ thể không tồn tại
nghĩa vụ trước khi xảy ra sự kiện; do vậy, có thể xem đây chính là nghĩa vụ
dân sự ngoài hợp đồng. Khi có sự vi phạm các nghĩa vụ này sẽ phát sinh
TNDS ngoài hợp đồng, trong đó có TNBTTH ngoài hợp đồng.
1.1.2.3. Phân biệt trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng với trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng
Trong các hình thức của TNDS, thì có thể kết luận rằng TNBTTH
(bao gồm TNBTTH ngoài hợp đồng và TNBTTH trong hợp đồng) là hình
thức chủ yếu nhất. Tuy cùng là TNBTTH, nhưng giữa TNBTTH ngoài hợp
đồng và TNBTTH trong hợp đồng có sự khác nhau cơ bản về bản chất
cũng như nội dung. Việc phân biệt hai dạng của TNBTTH cũng như việc
xác định mối quan hệ giữa chúng là hết sức cần thiết cả về mặt lý luận và
thực tiễn.
Đối với TNBTTH trong hợp đồng, thì khi hợp đồng được giao kết,
các bên có nghĩa vụ thực hiện đúng những cam kết thỏa thuận trong hợp
25
đồng. Việc một bên không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không
đầy đủ là sự vi phạm hợp đồng. Sự vi phạm này dẫn đến không đáp ứng
yêu cầu của bên kia, gây thiệt hại về vật chất và thiệt hại phi vật chất. Trách
nhiệm bồi thường do vi phạm hợp đồng là TNDS phát sinh trong trường
hợp một bên do không thực hiện, thực hiện không đúng, không đầy đủ các
điều khoản đã tự nguyện cam kết trong hợp đồng mà gây thiệt hại cho bên
kia và phải bồi thường. Các bên có thỏa thuận trước trong hợp đồng về các
biện pháp cưỡng chế, mức bồi thường, mức phạt hoặc các biện pháp bảo
đảm thực hiện việc BTTH do vi phạm hợp đồng gây ra, có nghĩa là
TNBTTH này cũng đã được thỏa thuận trong hợp đồng.

Đối với TNBTTH ngoài hợp đồng chỉ phát sinh khi có hành vi trái
pháp luật và gây thiệt hại, có nghĩa là phát sinh dưới sự tác động trực tiếp
của các quy phạm pháp luật, không có sự thỏa thuận trước của các chủ thể.
Sự thỏa thuận chỉ có thể có sau khi đã phát sinh TNBTTH.
Khi một người có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại đến tính mạng,
sức khỏe, tài sản cho người khác thì người thực hiện hành vi đó phải chịu
trách nhiệm pháp lý về hành vi của mình. Hành vi đó có thể bị xử lý theo
pháp luật hành chính nếu xâm hại đến các quan hệ xã hội được luật hành
chính bảo vệ; có thể bị xử lý theo pháp luật hình sự nếu có đủ yếu tố cấu
thành tội phạm; có thể chỉ chịu trách nhiệm bồi thường theo pháp luật dân
sự. Tuy nhiên, trong mọi trường hợp nếu hành vi đó gây thiệt hại thì người
thực hiện hành vi đó, phải chịu trách nhiệm bồi thường dù rằng họ đã phải
chịu trách nhiệm hành chính hoặc trách nhiệm hình sự. Hậu quả bất lợi là
việc người gây thiệt hại buộc phải dùng tài sản của mình để bồi thường, bù
đắp những tổn thất mà mình đã gây ra cho người khác. Mức độ bồi thường
đến đâu phải căn cứ vào khối lượng của sự thiệt hại. Nếu mức độ tổn thất
càng lớn thì giá trị bồi thường càng nhiều.
26
Xuất phát từ cơ sở phát sinh như đã phân tích trên, TNBTTH ngoài
hợp đồng và TNBTTH do vi phạm hợp đồng có một số điểm khác nhau
như sau:
Thứ nhất, trong TNBTTH do vi phạm hợp đồng, hai bên có thể dự
liệu và thỏa thuận trước về những trường hợp thiệt hại mà mức bồi thường,
phương thức thực hiện việc bồi thường, các biện pháp bảo đảm nghĩa vụ
bồi thường.
Điều 401 BLDS quy định các bên có thể thỏa thuận trách nhiệm do
vi phạm hợp đồng khi giao kết hợp đồng vì trước thời điểm phát sinh trách
nhiệm, giữa các bên chủ thể đã tồn tại một quan hệ pháp luật hợp pháp, các
bên đã biết rõ về quyền và nghĩa vụ cụ thể của mình. Sự thỏa thuận dựa
trên sự tiên liệu những thiệt hại có thể xảy ra khi vi phạm hợp đồng, tùy

theo mức độ mà xác định trách nhiệm. Thực tế các bên có thể thỏa thuận về
phạt vi phạm hợp đồng, ngay cả khi không cần có thiệt hại xảy ra, nếu một
trong các bên có vi phạm các điều khoản mà họ đã tự nguyện thỏa thuận và
cam kết thực hiện. Do đó, nếu có phát sinh trách nhiệm bồi thường thì chỉ
bồi thường những thiệt hại có thể tiên liệu được hoặc do có sự thỏa thuận
trước của các bên. TNBTTH ngoài hợp đồng không thể có đặc điểm này.
Trách nhiệm của bên gây thiệt hại là phải bồi thường toàn bộ, cả thiệt hại
trực tiếp và thiệt hại gián tiếp. Hai bên chỉ có thể đặt ra vấn đề thỏa thuận
khi có thiệt hại, xác định rõ bên gây thiệt hại và bên thiệt hại, lỗi của các
bên.
Thứ hai, trong trường hợp nhiều người cùng gây thiệt hại thì họ chỉ
liên đới chịu trách nhiệm nếu khi giao kết hợp đồng họ có thỏa thuận trước
về vấn đề chịu trách nhiệm liên đới. Trong TNBTTH ngoài hợp đồng,
nhiều người cùng gây thiệt hại phải chịu trách nhiệm liên đới theo các quy
định cụ thể của pháp luật dân sự.
27
Thứ ba, về lỗi: trách nhiệm do vi phạm hợp đồng phát sinh cả khi
do lỗi của người khác, nhưng phải được chứng minh cụ thể, chính xác. Còn
trong TNBTTH ngoài hợp đồng, người có hành vi vi phạm có thể chịu
trách nhiệm cả khi không có lỗi nếu pháp luật quy định. Chẳng hạn, trong
trường hợp thiệt hại do súc vật nuôi gây ra người chủ sở hữu và người
trông coi chỉ không phải chịu trách nhiệm bồi thường nếu người bị thiệt hại
hoàn toàn có lỗi trong việc làm súc vật gây thiệt hại cho mình. Chủ sở hữu
là người được hưởng lợi ích từ việc nuôi con vật đó; nên suy đoán trách
nhiệm bồi thường thuộc về họ.
Quan niệm của một số luật gia Sài Gòn cũ cho rằng có thể phân
biệt sự khác nhau về mức độ lỗi. Họ cho rằng trong trách nhiệm khế
ước (TNBTTH do vi phạm hợp đồng) người ta chỉ theo tính chất mức độ
trầm trọng của lỗi mà phân biệt thành lỗi nặng, lỗi nhẹ và rất nhẹ, nhiều
khi con nợ chỉ phải chịu trách nhiệm về lỗi nặng mà thôi. Còn trách nhiệm

bán dân sự phạm (TNBTTH ngoài hợp đồng) tất cả mọi lỗi đều phát sinh
trách nhiệm.
Thứ tư, về thời điểm phát sinh TNBTTH.
Trong BTTH do vi phạm hợp đồng, thời điểm xác định nghĩa vụ và
thời điểm xác định trách nhiệm bồi thường là khác nhau. Thời điểm xác
định nghĩa vụ là lúc các bên giao kết hợp đồng. TNBTTH chỉ phát sinh nếu
có vi phạm việc thực hiện nghĩa vụ mà gây thiệt hại. Điều đó có nghĩa là
thiệt hại xảy ra chỉ là một trong những điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi
thường. Đối với TNBTTH ngoài hợp đồng thời điểm xác định nghĩa vụ và
phát sinh trách nhiệm bồi thường dường như xuất hiện đồng thời. Như vậy
thiệt hại xảy ra vừa là điều kiện xác định nghĩa vụ bồi thường, vừa là điều
kiện xác định TNBTTH.
Trong cả hai hình thức, khi có thiệt hại xảy ra bên gây thiệt hại đều có
TNBTTH. Tuy nhiên, đối với BTTH ngoài hợp đồng thì việc thực hiện đầy
28
đủ nghĩa vụ thông thường làm chấm dứt quan hệ nghĩa vụ giữa các bên, còn
đối với BTTH do vi phạm hợp đồng gây thiệt hại không là căn cứ làm chấm
dứt quan hệ nghĩa vụ đó - nghĩa là phải BTTH, đồng thời vẫn phải tiếp tục
thực hiện nghĩa vụ.
Ngoài ra, giữa TNBTTH ngoài hợp đồng và TNBTTH do vi phạm
hợp đồng còn có một số điểm khác biệt như: trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng chỉ là phát sinh nghĩa vụ BTTH, không có hình thức phạt vi
phạm; mức bồi thường theo nghĩa vụ ngoài hợp đồng chỉ bằng hoặc thấp hơn
thiệt hại xảy ra, không thể cao hơn như trường hợp bồi thường do vi phạm
hợp đồng.
Như vậy dựa theo sự phân biệt với TNBTTH do vi phạm hợp đồng
có thể hiểu "Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là trách
nhiệm phát sinh giữa các chủ thể mà trước đó không có quan hệ hợp đồng
hoặc có quan hệ hợp đồng nhưng hành vi gây thiệt hại không thuộc phạm vi
thực hiện nghĩa vụ hợp đồng".

1.1.3. Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các vụ
tai nạn giao thông đường bộ
1.1.3.1. Khái niệm chung về nguồn nguy hiểm cao độ
Theo quy định tại Mục 3 Chương V Phần thứ ba của BLDS thì một
trong những trường hợp cụ thể của TNBTTH ngoài hợp đồng, đó là
TNBTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra (Điều 627). Vậy nguồn nguy
hiểm cao độ bao gồm những đối tượng nào? Nghiên cứu pháp luật của các
nước khác nhau, chúng tôi thấy việc quy định về nguồn nguy hiểm cao độ
cũng khác nhau.
Theo Điều 437 BLDS và thương mại Thái Lan, thì nguồn nguy
hiểm cao độ là "bất cứ sự vận chuyển nào được kéo, đẩy bằng máy móc,
29

×