Tải bản đầy đủ (.pdf) (132 trang)

Dự báo số thuê bao của mạng vinaphone đến năm 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.24 MB, 132 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI
---------------------------

TÁC GIẢ: TRẦN TUY LAI

DỰ BÁO SỐ THUÊ BAO CỦA MẠNG VINAPHONE
ĐẾN NĂM 2010

LUẬN VĂN THẠC SỸ: QUẢN TRỊ KINH DOANH

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TIẾN SỸ NGUYỄN ĐẠI THẮNG

HÀ NỘI - 2004


Mục lục
NỘI DUNG

TRANG

Phần mở đầu

3

Chương 1: Cơ sở lý luận về dự báo kinh tế- xã hội
1.1 Những vấn đề cơ bản về phân tích và dự báo kinh tế- xã hội

7

1.1.1 Khái niệm chung


1.1.2 Tính chất của dự báo
1.1.3 Chức năng và vai trò của dự báo
1.1.4 Phân loại dự báo
1.1.5 Các nguyên tắc cơ bản của dự báo
1.1.6 Các yếu tố ảnh hưởng đến dự báo
1.2 Các bước tiến hành dự báo và phương pháp xử lý số liệu thống kê

20

1.2.1 Các bước tiến hành dự báo
1.2.2 Phương pháp xử lý số liệu thống kê
1.3 Các phương pháp dự báo

25

1.3.1 Phương pháp dự báo định tính
1.3.2 phương pháp dự báo định lượng
Chương 2: Tổng quan về thông tin di động và viễn thơng Việt Nam
2.1 Q trình phát triển thông tin di động thế giới

43

2.2 Viễn thông Việt Nam

52

2.2.1 Hiện trạng thị trường dịch vụ viễn thông Việt Nam
2.2.2 Thông tin di động Việt Nam
2.3 Hiện trạng mạng di động VinaPhone
Chương 3: Dự báo nhu cầu thông tin di động ở Việt Nam đến 2010


-1 -

73


3.1 Các yếu tố tác động đến nhu cầu sử dụng điện thoại di động ở VN

78

3.1.1 Các yếu tố về kinh tế- xã hội
3.1.2 Các yếu tố về chính trị
3.1.3 Các yếu tố về khoa học công nghệ
3.1.4 Các yếu tố về môi trường riêng
3.2 Những định hướng phát triển viễn thông VN đến năm 2010

92

3.3 Dự báo nhu cầu sử dụng dịch vụ điện thoại di động ở VN đến 2010

93

3.3.1 Xác định mục tiêu dự báo
3.3.2 Xác định dịch vụ dự báo
3.3.3 Xác định độ dài dự báo
3.3.4 Chọn mơ hình dự báo
3.3.5 Thu thập dữ liệu dự báo
3.3.6 Tiến hành dự báo
3.3.7 Áp dụng kết quả dự báo
3.4 Dự báo thị phần của mạng di động VinaPhone


110

3.4.1 Mạng điện thoại di động MobiFone của VMS
3.4.2 Mạng điện thoại di động S-Fone của SPT
3.4.3 Mạng điện thoại di động Viettel Mobil của Viettel
3.4.4 Mạng điện thoại di động CDMA của Hanoi Telecom
3.4.5 Các mạng điện thoại di động tiềm ẩn
3.4.6 Dự báo thị phần của mạng VinaPhone
Kết luận

121

Các thuật ngữ viết tắt

123

Tài liệu tham khảo

128

-2 -


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết khách quan của đề tài
Thực hiện công cuộc đổi mới của Đảng, trong những năm qua với
chính sách mở cửa, đa phương hố quan hệ và được Đảng, Nhà nước quan
tâm, ngành Bưu điện đã có những bước phát triển mạnh mẽ. Trong điều
kiện bị cấm vận kỹ thuật, nguồn vốn ngân sách còn khó khăn, Ngành đã

tích cực, chủ động, tranh thủ tìm mọi nguồn vốn đầu tư để nâng cấp, cải
tạo và phát triển mạng lưới thông tin theo hướng cập nhật với công nghệ
hiện đại, tiên tiến của thế giới. Thông qua việc đi đầu mở rộng quan hệ
hợp tác quốc tế song phương và đa phương, tạo thế cạnh tranh giữa các tập
đồn và các cơng ty lớn trên thế giới, nhằm thu hút công nghệ, kỹ thuật
cao. Do vậy, chỉ trong một thời gian ngắn mạng lưới viễn thông Việt Nam
đã thay đổi căn bản từ mạng kỹ thuật tương tự (Analog) lạc hậu sang mạng
kỹ thuật số (Digital) hiện đại, đảm bảo thông tin liên lạc tự động chất lượng
cao, đa dịch vụ ở trong nước và quốc tế, cũng như liên lạc cho các vùng
nông thôn, miền núi, biên giới, hải đảo, vùng sâu vùng xa. Phục vụ đắc lực
cho sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, đóng góp tích cực cho sự nghiệp
đổi mới và phát triển kinh tế xã hội của đất nước, giữ vững an ninh quốc
phòng và phục vụ các nhu cầu thông tin ngày một đa dạng và phong phú
của xã hội. Có thể nói trong mười năm vừa qua, ngành Bưu điện đã thực sự
tạo nên một cuộc cách mạng trong lĩnh vực viễn thông ở Việt Nam. Năm
1993, Việt Nam mới có 268.000 máy điện thoại, đạt mật độ 0,37 máy/100
dân, thì đến năm 2003 đã có 7,3 triệu máy, đạt mật độ 9,02 máy/100 dân.
Riêng năm 2003 đã phát triển thêm 1,7 triệu máy, tăng 37,2% so với năm

-3 -


2002. Với tốc độ phát triển này, Việt Nam là một trong 15 nước có tốc độ
phát triển điện thoại cao nhất thế giới. Với những bước phát triển vượt bậc
này, ngành Bưu điện Việt Nam đã hoàn thành trước 2 năm mục tiêu mà
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đề ra là đạt mật độ điện
thoại 8 máy/100 dân vào năm 2005.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, ngành Bưu điện cũng còn
những bất cập trong cơng tác quản lý, đó là vấn đề dự báo nhu cầu các dịch
vụ viễn thông. Do việc dự báo nhu cầu dịch vụ khơng chính xác, dẫn đến

tình trạng “cháy số”, “cháy cáp” cục bộ trong Ngành thường xuyên xảy ra,
không đáp ứng kịp thời nhu cầu của khách hàng. Đặc biệt là đối với dịch
vụ thông tin di động, mặc dù mới bắt đầu phát triển từ năm 1993, song dịch
vụ này có tốc độ phát triển rất nhanh, các dự báo đưa ra đều thiếu chính
xác, dẫn đến việc đầu tư, phát triển mạng lưới khơng kịp, gây tình trạng
nghẽn mạch và hết số, ảnh hưởng đến uy tín, chất lượng phục vụ và kinh
doanh của Ngành. Từ đó có thể thấy rằng dự báo nhu cầu các dịch vụ viễn
thông một cách khoa học là một yêu cầu bức thiết trong quá trình xây dựng
và phát triển của Ngành trước mắt cũng như lâu dài. Đặc biệt là trong giai
đoạn hiện nay, khi Nhà nước thực hiện xoá bỏ độc quyền kinh doanh các
dịch vụ bưu chính, viễn thơng. Để cạnh tranh thắng lợi, thì vai trị của dự
báo nhu cầu các dịnh vụ bưu chính, viễn thơng càng có ý nghĩa quan trọng
hơn.
2. Mục đích nghiên cứu
Luận văn tập trung vào việc ứng dụng các phương pháp dự báo dài
hạn, khoa học, để dự báo nhu cầu dịch vụ điện thoại di động ở Việt Nam và
thị phần của mạng di động VinaPhone đến năm 2010.

-4 -


3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là dự báo nhu cầu kinh tế - xã
hội. Phạm vi được giới hạn trong việc dự báo nhu cầu thông tin di động ở
Việt Nam và thị phần của mạng di động VinaPhone đến năm 2010.
4. Phương pháp nghiên cứu
Dùng các phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, phương
pháp phân tích tổng hợp so sánh, mơ hình hố để dự báo nhu cầu dịch vụ
điện thoại di động ở Việt Nam và thị phần của mạng di động VinaPhone
đến năm 2010.

5. Những đóng góp của luận văn
Hệ thống hố một số phương pháp khoa học về dự báo kinh tế - xã
hội nói chung, trên cơ sở vận dụng vào việc dự báo nhu cầu thông tin di
động ở Việt Nam và thị phần của mạng di động VinaPhone đến năm 2010
nói riêng. Phân tích hiện trạng, đánh giá, nhận định về q trình phát triển
của lĩnh vực viễn thơng và dịch vụ điện thoại di động ở Việt Nam.
Nội dung của đề tài sẽ là tài liệu tham khảo cho công tác dự báo nhu
cầu các dịch vụ viễn thông của các đơn vị thành viên VNPT khi tổ chức lại
việc sản xuất kinh doanh theo hướng tự chủ sản xuất kinh doanh của từng
đơn vị trong những năm tới.
-5 -


6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương chính sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận về dự báo kinh tế - xã hội
Chương 2: Tổng quan về thông tin di động và viễn thông Việt Nam
Chương 3: Dự báo nhu cầu thông tin di động ở Việt Nam và thị phần của
mạng di động VinaPhone đến năm 2010.
Tôi xin chân thành cảm ơn Tiến sỹ Nguyễn Đại Thắng - Trưởng khoa
Kinh tế và Quản lý Trường Đại học Bách khoa Hà Nội, cùng các thầy cô
trong khoa đã nhiệt tình giúp đỡ tơi trong q trình học tập và thực hiện
luận văn. Tôi cũng chân thành cảm ơn các đồng chí lãnh đạo và chuyên gia
trong Viện Kinh tế Bưu điện, Công ty Dịch vụ Viễn thông GPC đã cung
cấp tài liệu và đóng góp những ý kiến quan trọng giúp tơi hồn thành luận
văn này.
Hải Phịng, ngày 15 tháng 6 năm 2004
TÁC GIẢ


TRẦN TUY LAI

-6 -


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DỰ BÁO KINH TẾ - XÃ HỘI
1.1 NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ PHÂN TÍCH VÀ DỰ BÁO KINH
TẾ - XÃ HỘI
1.1.1 Khái niệm chung
Phân tích dự báo kinh tế - xã hội là một công cụ, một công việc
không thể thiếu được trong hoạt động của nhà quản lý các cấp, không chỉ
trong bộ máy quản lý Nhà nước mà trong cả các chủ thể tổ chức, doanh
nghiệp.
Phân tích và dự báo kinh tế - xã hội là sự vận dụng tất cả những tri
thức khoa học của xã hội loài người để nhận biết một cách đầy đủ, chính
xác sự tồn tại, xu thế vận động và phát triển của một hiện tượng kinh tế xã hội; làm rõ và nhận thức đúng bản chất của các hiện tuợng kinh tế - xã
hội; xác định mối tác động qua lại của các yếu tố bên trong và bên ngoài
của hiện tượng đến sự tồn tại, vận động và phát triển của hiện tượng kinh tế
- xã hội đó.
Dự báo là một thuật ngữ được sử dụng cách đây rất lâu, khi con
người bắt đầu quan tâm đến thiên nhiên và mong muốn biết nó sẽ xảy ra
như thế nào trong tương lai, để chống lại nó hoặc sử dụng nó vì sự phát
triển của xã hội loài người. Dự báo xu thế phát triển của một hiện tượng là
việc dự đoán quá trình tiếp theo của hiện tượng trong những khoảng thời
gian khác nhau nối tiếp với hiện tại như: Ngắn hạn, trung hạn hoặc dài hạn,

-7 -



trên cơ sở những thông tin thống kê hiện tượng, sự vật trong quá khứ và
bằng các phương pháp dự báo thích hợp.
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - công nghệ và nhận
thức con người không chỉ dự báo các hiện tượng kinh tế - xã hội thông qua
kinh nghiệm mà tiến đến sử dụng các thành tựu của khoa học để chinh
phục, khám phá các hiện tượng thiên nhiên. Ngày nay, dự báo được sử
dụng rộng rãi trong mọi lĩnh vực khoa học, kỹ thuật, kinh tế, chính trị và xã
hội với nhiều loại và phương pháp dự báo khác nhau. Nhiều kết quả của dự
báo đã được các nhà quản lý sử dụng làm cơ sở để điều chỉnh kịp thời chủ
trương chính sách, mục tiêu hoạt động sản xuất, kinh doanh, xây dựng kế
hoạch nghiên cứu, phát triển sản phẩm, đầu tư mở rộng sản xuất nhằm đạt
lợi ích cao nhất.
1.1.2 Tính chất của dự báo
+ Dự báo mang tính xác suất: Mỗi đối tượng dự báo đều vận động theo một
quy luật nào đó, một quỹ đạo nhất định nào đó, đồng thời trong q trình
phát triển nó ln ln chịu sự tác động của mơi trường hay các yếu tố bên
ngồi. Bản thân môi trường hay các yếu tố tác động không phải đứng im
mà luôn luôn trong trạng thái vận động và phát triển khơng ngừng. Về phía
chủ thể dự báo, những thông tin và hiểu biết về đối tượng ở tương lai bao
giờ cũng nghèo nàn hơn hiện tại. Vì vậy, dù trình độ dự báo có hồn thiện
đến đâu cũng không dám chắc rằng đánh giá dự báo là hồn tồn chính xác.
Hay nói một cách khác dự báo bao giờ cũng mang tính xác suất.
+ Dự báo là đáng tin cậy: Dự báo mang tính xác suất nhưng đáng tin cậy vì
nó dựa trên những cơ sở lý luận và phương pháp luận khoa học. Đó là phép
biện chứng duy vật và lịch sử, hệ thống các lý luận khoa học về kinh tế và

-8 -


xã hội, phương pháp và công cụ xử lý thông tin ngày càng hiện đại. Xét về

mặt bản chất, dự báo là sự phản ánh vượt trước, là những giả thiết về sự
phát triển của đối tượng dự báo trong tương lai được đưa ra trên cơ sở nhận
thức các quy luật phát triển và những điều kiện ban đầu với tư cách là
những giả thiết. Theo đà phát triển của khoa học – kỹ thuật, trình độ nhận
thức quy luật và các điều kiện ban đầu ngày càng được hồn thiện thì độ tin
cậy của dự báo cũng khơng ngừng được nâng cao.
+ Dự báo mang tính đa phương án: Mỗi dự báo được thực hiện trên những
tập hợp các giả thiết nhất định – dự báo có điều kiện. Tập hợp các giả thiết
như vậy gọi là phông dự báo. Dự báo có thể được tiến hành trên các phông
dự báo khác nhau do những nguyên nhân chủ quan và khách quan khác
nhau và vì vậy có thể có nhiều phương án dự báo khác nhau. Tính đa
phương án một mặt là thuộc tính khách quan của dự báo nhưng mặt khác
lại phù hợp với yêu cầu của cơng tác quản lý, nó làm cho việc ra quyết định
cũng như chỉ đạo thực hiện quyết định quản lý trở nên linh hoạt hơn, dễ
thích nghi với sự biến đổi vơ cùng phức tạp của tình hình thực tế.
1.1.3 Chức năng và vai trò của dự báo
a.Chức năng
Theo quan điểm của triết học, dự báo là một hình thức nhận thức thế
giới, nhận thức xã hội. Nó có hai chức năng cơ bản:
+ Chức năng tham mưu: Trên cơ sở đánh giá thực trạng, phân tích xu
hướng vận động và phát triển trong quá khứ, hiện tại và tương lai, dự báo
sẽ cung cấp thông tin cần thiết, khách quan làm căn cứ cho việc ra quyết
định quản lý và xây dựng chiến lược, kế hoạch hoá các chương trình, dự
án...Người quản lý và hoạch định chiến lược, người lập kế hoạch có nhiệm
vụ phải lựa chọn trong số các phương án có thể có, tìm ra các phương án có

-9 -


tính khả thi cao nhất, có hiệu quả cao nhất. Để thực hiện tốt chức năng này

dự báo phải thật sự đảm bảo tính khách quan, khoa học và tính độc lập
tưong đối với các cơ quan quản lý và hoạch định chính sách.
+ Chức năng khuyến nghị hay điều chỉnh: Với chức năng này dự báo tiên
đoán các hậu quả có thể nảy sinh trong q trình thực hiện các chính sách
kinh tế – xã hội nhằm giúp các cơ quan chức năng kịp thời điều chỉnh mục
tiêu cũng như cơ chế tác động quản lý để đạt hiệu quả kinh tế – xã hội cao
nhất.
Với hai chức năng đó, nếu xét trong quan hệ với kế hoạch thì dự báo
bao gồm hai loại : Dự báo trước kế hoạch và dự báo sau kế hoạch. Dự báo
trước kế hoạch là tiền đề khoa học đảm bảo tính khả thi của kế hoạch, còn
dự báo sau kế hoạch giúp cho quá trình chỉ đạo thực hiện kế hoạch đạt hiệu
quả cao nhất.
b.Vai trị
Dự báo có vai trị quan trọng trong quá trình ra quyết định quản lý. Theo
nghĩa chung nhất, quản lý là sự tác động liên tục có tổ chức, có chủ đích
vào đối tượng quản lý bằng các hệ thống biện pháp kinh tế, xã hội, các biện
pháp hành chính...nhằm tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy sự phát triển sản
xuất, tiến bộ xã hội. Kết quả của hoạt động quản lý là các quyết định quản
lý. Cơ chế ra quyết định gồm ba bước:
- Thu thập thơng tin về đối tượng quản lý.
-

Xây dựng mơ hình thống kê thực nghiệm và thông tin tiên
nghiệm.

-

So sánh cân nhắc đưa ra quyết định.

Trong các bước của quá trình ra quyết định quản lý thì vấn đề xây

dựng mơ hình là khâu cơ bản nhất. Sở dĩ như vậy là vì quá trình đi đến một

-10 -


quyết định quản lý địi hỏi phải mơ hình hố các mối quan hệ trong quá
trình vận động và phát triển của đối tượng quản lý, cho phép liên kết các
mối quan hệ khơng những theo chiều dọc mà cịn theo chiều ngang, cho
phép liên hệ từ quá khứ đến hiện tại sang tương lai. Xét về mặt thời gian
các mơ hình như vậy đều mang ý nghĩa dự báo.
Hướng sử dụng mơ hình dự báo trong hoạt động quản lý là rất quan
trọng, nó tạo điều kiện khơng những cung cấp thơng tin tương lai mà cịn
có khả năng làm chủ cơng tác quản lý. Nhờ có mơ hình dự báo mà có thể
tăng cường khả năng quản lý một cách khoa học:
+ Giúp nhận thức sâu sắc hơn các quy luật khách quan, tránh được
chủ quan duy ý chí.
+ Mơ hình hố đề cập một cách tồn diện các mối quan hệ kinh tế –
xã hội.
+ Cho phép định lượng được các mối quan hệ bằng cách áp dụng các
phương pháp khoa học như toán, thống kê, tin học...
Trong nền kinh tế thị trường, công tác dự báo là vơ cùng quan trọng
bởi lẽ nó cung cấp các thơng tin cần thiết nhằm phát hiện và bố trí sử dụng
các nguồn lực trong tương lai một cách có căn cứ thực tế. Với những thông
tin mà dự báo đưa ra cho phép các nhà hoạch định chính sách có những
quyết định về đầu tư, các quyết định về sản xuất, về tiết kiệm và tiêu dùng,
các chính sách tài chính, chính sách kinh tế vĩ mơ. Dự báo không chỉ tạo cơ
sở khoa học cho việc hoạch định chính sách, cho việc xây dựng chiến lược
phát triển, cho các quy hoạch tổng thể mà còn cho phép xem xét khả năng
thực hiện kế hoạch và hiệu chỉnh kế hoạch.
Trong quản lý vi mô, dự báo là hoạt động gắn liền với công tác

hoạch định và chỉ đạo thực hiện chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp.

-11 -


Các doanh nghiệp không thể không tổ chức thực hiện tốt công tác dự báo
nếu họ muốn đứng vững trong kinh doanh.
Chức năng đầu tiên của quản lý trong doanh nghiệp là xác định mục
tiêu của doanh nghiệp trong dài hạn và ngắn hạn. Doanh nghiệp phải lập kế
hoạch để thực hiện những mục tiêu đó, tổ chức tốt các nguồn nhân lực và
vật tư để thực hiện kế hoạch, điều chỉnh kế hoạch cũng như kiểm soát các
hoạt động để tin chắc rằng tất cả đang diễn ra theo đúng kế hoạch. Phân
tích kinh tế và dự báo được tiến hành trong tất cả các bước đó của quản lý
doanh nghiệp, nhưng trước hết là trong việc xác định mục tiêu và hoạch
định các kế hoạch dài hạn và ngắn hạn.
Trong việc xác định mục tiêu, mỗi doanh nghiệp phải quyết định
hàng hoá và dịch vụ nào sẽ được sản xuất và bán ra, mức giá sản phẩm và
dịch vụ, vùng tiêu thụ, thị trường tiềm năng về sản phẩm đó, thị phần mà
doanh nghiệp thực tế có thể hy vọng chiếm được...Những mục tiêu như vậy
chỉ có thể trở thành hiện thực nếu doanh nghiệp đã phân tích các xu thế của
nền kinh tế, đã dự báo cầu về sản phẩm của mình cả trong dài hạn và ngắn
hạn, chi phí các nhân tố sản xuất...Như vậy các dự báo về thị trường, giá
cả, tiến bộ khoa học và công nghệ, nguồn nhân lực, sự thay đổi của các
nguồn đầu vào, đối thủ cạnh tranh...có tầm quan trọng sống cịn đối với
doanh nghiệp. Ngồi ra dự báo cịn cung cấp những thông tin cho phép
phối hợp hành động giữa các bộ phận trong doanh nghiệp.
1.1.4 Phân loại dự báo
Dự báo được phân chia theo nhiều cách khác nhau: theo thời gian,
theo phương pháp tiếp cận, theo đối tượng kinh tế, theo quy mô, cấp độ của
đối tượng dự báo...Tuy nhiên, cách phân loại theo thời gian là thích hợp


-12 -


nhất, cần thiết nhất trong hoạch định và quản trị sản xuất, tác nghiệp. Căn
cứ vào thời gian có 3 loại dự báo sau:
a. Dự báo ngắn hạn: Khoảng thời gian dự báo ngắn hạn thường dưới 1
năm. Loại dự báo này thường được dùng trong kế hoạch mua hàng,
điều độ công việc, cân bằng nhân lực, phân chia công việc.
b. Dự

báo trung hạn: Khoảng thời gian dự báo trung hạn thường từ 3

tháng đến 3 năm. Nó cần thiết cho lập kế hoạch sản xuất, kế hoạch bán
hàng, dự thảo ngân sách, kế hoạch tiền mặt, huy động các nguồn lực và
tổ chức hoạt động tác nghiệp.
c. Dự báo dài hạn: Thường là cho khoảng thời gian từ 3 năm trở lên. Dự
báo dài hạn có ý nghĩa lớn trong lập kế hoạch sản xuất sản phẩm mới,
kế hoạch nghiên cứu và ứng dụng công nghệ mới, định vị hay mở rộng
doanh nghiệp.
So với dự báo ngắn hạn, dự báo dài hạn và trung hạn có những đặc
trưng như sau:
- Dự báo dài hạn và trung hạn giải quyết những vấn đề có tính tồn
diện yểm trợ cho các quyết định quản lý thuộc về hoạch định kế
hoạch sản xuất và q trình cơng nghệ.
- Dự báo dài hạn và trung hạn sử dụng ít phương pháp và kỹ thuật
dự báo hơn dự báo ngắn hạn. Dự báo ngắn hạn sử dụng phổ biến
các mơ hình tốn học như bình quân, san bằng số mũ, ngoại suy
theo xu hướng. Nói một cách khác, phương pháp ít định lượng
dùng để tiên đốn các vấn đề lớn tồn diện như đưa một sản phẩm

mới vào danh mục mặt hàng của doanh nghiệp.
Dự báo ngắn hạn có khuynh hướng chính xác hơn dự báo dài hạn, sở
dĩ như vậy là vì có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến nhu cầu thay đổi hàng

-13 -


ngày, nếu kéo dài thời gian dự báo, độ chính xác có khả năng giảm đi. Do
vậy, cần phải thường xuyên cập nhật và hoàn thiện các phương pháp dự
báo. Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến dự báo, một trong những nhân tố
quan trọng là chu kỳ sống của sản phẩm. Chúng ta đã biết mỗi sản phẩm
thường trải qua 4 giai đoạn phát triển là: giới thiệu sản phẩm ra thị trường,
tăng trưởng, chín muồi và suy tàn.
Những sản phẩm nằm trong giai đoạn một và hai của chu kỳ sống của
sản phẩm cần được dự báo dài hạn hơn khi chúng đang ở giai đoạn chín
muồi và suy tàn. Điều đó giúp cho doanh nghiệp tránh được những rủi ro
đột ngột.
Phù hợp với chu kỳ sống của sản phẩm, loại dữ liệu và phương pháp
áp dụng cũng có ảnh hưởng đến dự báo. Trong giai đoạn đầu có rất ít hoặc
hầu như khơng có sẵn số liệu nên cần dùng dự báo định tính nhiều hơn là
định lượng. Trong giai đoạn này người ta suy đoán, ngoại suy nhiều hơn so
với các phương pháp như san bằng số mũ, hồi quy... Ở giai đoạn suy tàn có
rất nhiều số liệu nhưng chúng lại khơng thể giúp ta tiên đoán kiểu suy thoái
xảy ra như thế nào.
1.1.5 Các nguyên tắc cơ bản của dự báo
1.1.5.1 Nguyên tắc liên hệ biện chứng
Tất cả các hiện tượng kinh tế - xã hội đều được đặt trong một môi
trường nhất định, do vậy khi phân tích và dự báo hiện tượng kinh tế - xã
hội ta phải đặt hiện tượng trong mối tác động qua lại của các yếu tố lẫn
nhau. Trong đó cần nhận thức rõ đâu là yếu tố bên trong, đâu là yếu tố bên

ngoài để xác định đúng và đưa ra được kết quả phân tích chính xác, trên cơ
sở đó thấy hết các nhân tố sẽ xuất hiện trong tương lai.
1.1.5.2 Nguyên tắc kế thừa lịch sử

-14 -


Các hiện tượng kinh tế - xã hội vận động và phát triển ln chứa
đựng trong nó những nhân tố kết quả của quá khứ và trạng thái trong tương
lai. Phân tích, đánh giá hiện tại và dự báo sự phát triển trong tương lai của
một quốc gia, một tổ chức hay của một hiện tượng kinh tế - xã hội chỉ có
thể có cơ sở vững chắc nếu như ta nhìn rõ được bản chất của các vấn đề
trong q khứ. Q khứ chính là cái đã có để xem xét. Tương lai là cái
mong ước. Sự mong ước chỉ trở thành hiện thực nếu nó được xây dựng trên
nền tảng vững chắc của quá khứ.
1.1.5.3 Nguyên tắc tôn trọng đặc thù của đối tượng dự báo
Mỗi hiện tượng kinh tế - xã hội đều có những nét đặc trưng riêng của
nó. Nhờ những nét đặc trưng riêng này mà ta có thể phân biệt được hiện
tượng đang nghiên cứu với những hiện tượng khác. Do vậy khi phân tích
và dự báo, ta phải tơn trọng những nét đặc trưng đó, đặc biệt là trường hợp
những nét đặc trưng đã trở thành quy luật, ví dụ tỷ lệ giữa nam và nữ trên
thế giới, phong tục tập quán, đời sống văn hoá của mỗi quốc gia, mỗi vùng
lãnh thổ...
1.1.5.4 Mô tả tối ưu hiện tượng kinh tế - xã hội trong q trình dự báo
Trong tập các thơng tin mơ tả hiện tượng, chúng ta cần tối ưu hố các
thơng tin đó thơng qua nhiều phương pháp xử lý khác nhau để tìm ra mơ
hình tối ưu nhất. Một hiện tượng kinh tế, xã hội chứa đựng trong nó rất
nhiều yếu tố. Việc phân tích các yếu tố đó khơng thể mang tính liệt kê.
Chúng ta phải tìm ra được các thông tin, các chỉ tiêu và mô tả mối liên hệ
biện chứng của chúng với các yếu tố khác, đồng thời lựa chọn các thông số

cũng như phương pháp để xử lý các thơng tin đó sao cho chi phí ở mức
thấp nhất.
1.1.5.5 Nguyên tắc tương tự của hiện tượng dự báo

-15 -


Theo nguyên tắc này, khi phân tích, dự báo một hiện tượng kinh tế xã hội chúng ta có thể so sánh nó với các hiện tượng kinh tế - xã hội tương
tự của một địa phương, một vùng hay một nước khác để có thể tìm ra
những nhân tố phát triển tương tự cũng như các yếu tố đảm bảo cho sự phát
triển của hiện tượng mà ta quan tâm. Sử dụng nguyên tắc này sẽ giúp cho
việc phân tích và dự báo đạt hiệu quả hơn, tiết kiệm thời gian hơn. Trong
một số trường hợp nguyên tắc này cho phép ta sử dụng các mơ hình tốn
học, các phương pháp thống kê tốn học để phân tích và dự báo quy luật và
phát triển của tổ chức, hiện tượng kinh tế - xã hội có tính tương tự nhau.
Dựa vào nguyên tắc này có thể sử dụng một số mơ hình dự báo của nước
ngồi để dự báo các hiện tượng kinh tế – xã hội của Việt Nam, trên cơ sở
tính thêm một hệ số điều chỉnh thích hợp.
1.1.5.6 Nguyên tắc hệ thống
Lý thuyết hệ thống quan niệm mỗi tổ chức hay hiện tượng kinh tế xã hội là một hệ thống mở, đặt trong mối quan hệ trao đổi với mơi trường
bên ngồi bằng nhiều kênh khác nhau. Tổ chức được xem như là một tập
hợp của nhiều đối tượng, chủ thể khác nhau, trao đổi với nhau cả những nội
dung và thuộc tính của chúng. Một hệ thống mở thường được đặc trưng bởi
ba yếu tố rất quan trọng, đó là:
*

Đầu vào của hệ thống: Chính là những gì mà mơi trường tác động và

đưa vào hệ thống, bao gồm: Các dạng năng lượng; thông tin; nguồn nhân
lực (con người và tài chính); nguyên nhiên liệu, vật liệu cần thiết... để hệ

thống tồn tại và phát triển.
*

Quá trình tương tác, xử lý nội bộ của hệ thống thơng qua nội lực của

mình: Đó là q trình xử lý biến các thơng tin đầu vào cần thiết thành

-16 -


những yếu tố quan trọng để phục vụ cho sự vận động và phát triển của tổ
chức và tạo ra những yếu tố đầu ra cần thiết cho nhu cầu của xã hội.
*

Sản phẩm hệ thống đó tạo ra: Các sản phẩm này có được xã hội chấp

nhận hay khơng khi trao đổi với mơi trường bên ngồi. Những thơng tin
phản hồi giữa sản phẩm đầu ra có ý nghĩa rất quan trọng đối với tổ chức,
nó giúp cho hệ thống xử lý lại các yếu tố đầu vào để tạo ra các sản phẩm
đầu ra hợp lý.
1.1.6 Các yếu tố ảnh hưởng đến dự báo
Mỗi quốc gia, cộng đồng lãnh thổ hay một tổ chức, doanh nghiệp đều
gắn liền với một môi trường nhất định. Môi trường này được xác định
thơng qua các yếu tố về chính trị; các yếu tố xác định mức độ phát triển
kinh tế - xã hội; các yếu tố thuộc về nguồn nhân lực; các yếu tố thuộc về
nguồn tài nguyên thiên nhiên và một số yếu tố khác. Nói cách khác, trong
q trình tồn tại, vận động và phát triển, mỗi tổ chức, doanh nghiệp đều
chịu tác động của một tập rất nhiều các yếu tố. Sự tác động của các yếu tố
đó làm cho các tổ chức, doanh nghiệp phát triển theo nhiều xu hướng khác
nhau. Trong hoạt động quản lý và phân tích, các yếu tố trên được chia ra

làm hai loại: Môi trường chung và môi trường riêng.
1.1.6.1 Môi trường chung
Môi trường chung là tập hợp tất cả các yếu tố bên ngồi như các yếu
tố về kinh tế, chính trị, xã hội, v.v..., tác động đến tổ chức, doanh nghiệp,
hiện tượng kinh tế - xã hội nhưng không thể kể ra một cách cụ thể của sự
tác động.
1.1.6.2 Môi trường riêng

-17 -


Mơi trường riêng cịn gọi là mơi trường đặc trưng của tổ chức, của
hiện tượng kinh tế - xã hội. Đó là sự tập hợp tất cả các yếu tố về thể chế,
các thành tố của hiện tượng có ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của tổ
chức. Môi trường riêng này khơng có ý nghĩa chung cho mọi tổ chức, hiện
tượng kinh tế - xã hội và nó ln luôn thay đổi. Các yếu tố của môi trường
đặc trưng của một tổ chức, doanh nghiệp là: Khách hàng, nhà cung cấp đầu
vào, các tổ chức, cá nhân cạnh tranh, chu kỳ sống của sản phẩm...

1.1.6.3 Tác động của môi trường đến sự tồn tại, vận động và phát triển
của hiện tượng kinh tế - xã hội
Khi phân tích tác động của môi trường đến sự tồn tại, vận động và
phát triển của hiện tượng ta có thể tiến hành đối với từng yếu tố cấu thành
nên môi trường hoặc cũng có thể phân thành các nhóm yếu tố và xét tác
động của từng nhóm yếu tố đó. Thơng thường người ta chia các yếu tố
thành các nhóm sau :
+ Nhóm các yếu tố thuộc về kinh tế: Tỷ lệ lãi suất; tỷ lệ lạm phát; vốn;
nguồn lao động, giá cả lao động...
+ Nhóm các yếu tố thuộc về kỹ thuật cơng nghệ: Máy móc, vật liệu và các
loại hình dịch vụ mới; công nghệ mới; sự phát triển nhanh của khoa học và

công nghệ...
+ Các yếu tố thuộc về xã hội: Những nhận thức mới về niềm tin; phong tục
tập quán...
+ Các yếu tố về chính trị: Hệ thống pháp luật, chính sách; hoạt động của
các cơ quan Nhà nước...

-18 -


+ Các yếu tố thuộc về môi trường riêng của từng hiện tượng kinh tế - xã
hội: Nhà cung cấp tài chính, nguyên nhiên vật liệu; khách hàng; đối thủ
cạnh tranh, chu kỳ sống của sản phẩm...
Tóm lại: Khi phân tích, dự báo kinh tế - xã hội đối với một hiện
tượng hay một tổ chức thì mơi trường trong đó tổ chức tồn tại và phát triển
có vai trị rất quan trọng. Mặc dù các nhân tố bên trong như: Cơ cấu tổ
Các yếu tố
kinh tế -xã
hội

Chính phủ với một số
chính sách cụ thể

Các yếu tố
cơng nghệ

Các yếu tố
chính trị

Khách
hàng


Tổ chức

Nhóm áp lực
của xã hội

Các
nhà
cạnh
tranh

Các yếu tố
khác

: Các yếu tố mơi trường chung.

: Các yếu tố mơi trường riêng.

Hình1.1: Tổ chức hay hiện tượng kinh tế - xã hội và các yếu tố mơi trư ờng

chức, năng lực trình độ của đội ngũ cán bộ quản lý điều hành và nhân viên
là những yếu tố quyết định nhưng chúng lại bị chi phối bởi rất nhiều yếu tố
bên ngoài của môi trường. Mối tác động qua lại của môi trường đến sự tồn

-19 -


tại, vận động và phát triển của hiện tượng kinh tế - xã hội hay một tổ chức
được mô tả khái quát trong hình 1.1 ở trên:
1.2 CÁC BƯỚC TIẾN HÀNH DỰ BÁO VÀ PHƯƠNG PHÁP XỬ LÝ

SỐ LIỆU THỐNG KÊ
1.2.1 Các bước tiến hành dự báo
Quá trình dự báo kinh tế – xã hội thực hiện qua 8 bước sau đây:
- Xác định mục tiêu của dự báo.
- Chọn lựa những loại sản phẩm, dịch vụ cần dự báo.
- Xác định độ dài thời gian dự báo.
- Chọn mô hình dự báo.
- Phê chuẩn.
- Thu thập dữ liệu cần thiết cho dự báo.
- Tiến hành dự báo.
- Áp dụng kết quả dự báo.
Các bước trên đây được tiến hành một cách có hệ thống và thống
nhất từ khi tìm hiểu, thiết kế đến áp dụng hệ thống dự báo. Nếu hệ thống
dự báo được sử dụng đều đặn trong một thời gian thì khi thu thập dữ liệu
và dự báo có thể bỏ qua bước này hay bước khác để đơn giản hơn trong
tính tốn.
1.2.2 Xử lý số liệu thống kê trong phân tích và dự báo
Về nguyên lý, dự báo xu hướng của một hiện tượng kinh tế - xã hội
là dựa vào số liệu thống kê sự vận động, phát triển của hiện tượng đó trong
quá khứ và dùng các phương pháp thích hợp để dự đốn hiện tượng trong
tương lai. Vì vậy số liệu thống kê có một ý nghĩa vơ cùng quan trọng và là
yếu tố cần và đủ để việc phân tích và dự báo thực hiện được với kết quả
cao. Thực tế cho thấy ở Việt Nam, trong nhiều năm qua công tác thống kê

-20 -


chưa được nhận thức và quan tâm đúng mức nên các số liệu thống kê về
một số ngành có độ chính xác chưa cao.
Để nâng cao chất lượng của phân tích và dự báo kinh tế - xã hội, vấn

đề quan trọng là phải có được nguồn số liệu thống kê tin cậy, trung thực.
Nếu các con số thống kê đưa ra không phản ánh đúng bản chất của hiện
tượng và đã bị sửa đổi theo ý muốn chủ quan của người thu thập và công
bố số liệu thống kê, thì mọi q trình phân tích, dự đốn chỉ là hình thức.
Xử lý số liệu trong khi phân tích dự đốn khơng phải là làm lại con số đó
mà chỉ nhằm làm cho con số đó chính xác hơn, đúng hơn và loại trừ được
những sai số ngẫu nhiên. Đó là cách xử lý mang tính chất khoa học thống
kê, không phải theo ý muốn chủ quan của người điều chỉnh. Sau đây là một
số cách xử lý số liệu thống kê khi tiến hành phân tích, dự báo:
1.2.2.1 Đồng nhất số liệu.
• Đồng nhất đơn vị đo.
• Đồng nhất cách tính các chỉ tiêu liên quan đến giá cả.
• Đồng nhất khoảng thời gian thu thập số liệu.
• Đồng nhất các số liệu liên quan đến từng lĩnh vực kinh tế - xã hội dùng
để phân tích.
• Đồng nhất cách phân tích các số liệu kinh tế theo một mốc tính tốn.
• Sử dụng thống nhất một hệ thống các chỉ tiêu để tính tốn hay phải
chuyển đổi về cùng một hệ thống.
1.2.2.2 Loại bỏ các sai số do kỹ thuật thu thập số liệu thống kê
Thông thường với các sai số do kỹ thuật thu thập số liệu thống kê
gây ra, có thể sử dụng nhiều cách khác nhau để xử lý, như dùng phương
pháp tốn học. Ví dụ xét một tập các số liệu thống kê về một hiện tượng
kinh tế - xã hội theo thời gian là {xi} (i = 1, 2, 3,..., n). Giả sử số x* là số
-21 -


liệu nghi ngờ có sai số, ta có thể sử dụng cơng thức tính giá trị tới hạn t*
(giá trị t* được gọi là giá trị tới hạn, phụ thuộc vào xác suất tin cậy và số
lần xác định các số liệu thống kê. Nếu giá trị t* lớn hơn giá trị cho trong
bảng tính sẵn, thì số liệu x* có sai số và ta loại bỏ số liệu đó. Bảng giá trị

tới hạn α được tính sẵn và in trong các tài liệu thống kê). Để xem xét số
liệu này được sử dụng, loại bỏ hay phải thay bằng giá trị trung bình của tập
{xi}, trước hết ta tính giá trị t* bằng công thức:

x *i − x
t =
s
*

Trong đó:

x

(1.1)

là giá trị trung bình của tập {xi}
n

x=

∑x
i =1

i

(1.2)

n

S là độ lệch bình phương và được xác định theo cơng thức:

S=

1 n
∑ ( x i − x) 2
n − 1 i =1

(n > 1)

(1.3)

Nếu giá trị của t* lớn hơn các giá trị cho trong bản tới hạn α thì giá
trị x* bị loại trừ ra khỏi tập các số liệu thống kê.
1.2.2.3 Loại trừ một số yếu tố ngoài giả thiết
Để đảm bảo tính liên tục của các số liệu đôi khi ta cần phải loại trừ
một số yếu tố ngoài giả thiết bằng một trong các phương pháp sau :
+ Phương pháp mở rộng khoảng thời gian.
Khi số liệu thống kê thu được chi tiết hoá trong khoảng thời gian quá
hẹp, tính quy luật và tính ngẫu nhiên rất khác nhau, ta có thể mở rộng
khoảng thời gian thơng qua việc tính trung bình các đại lượng đó trong
khoảng thời gian rộng hơn và coi đó là số liệu đặc trưng cho hiện tượng

-22 -


kinh tế - xã hội đó trong khoảng thời gian đã được mở rộng. Ví dụ từ số
liệu thống kê sản lượng bán được từng ngày, tuần, ta có thể mở rộng
khoảng thời gian theo tháng, quý.
+ Phương pháp bình qn số trượt.
Việc tính bình qn số trượt có thể giúp cho việc phân bổ các yếu tố
ngẫu nhiên tốt hơn. Hay nói cách khác, bình qn số trượt giúp chúng ta

tính lại hệ thống số liệu thống kê đã có thành hệ thống số liệu thống kê mới
có chứa điều hoà hơn các yếu tố ngẫu nhiên.
1.2.2.4 Biến đổi số liệu thống kê thô ban đầu sang một số chỉ tiêu khác
+ Trung bình số học: Là đại lượng xác định giá trị trung bình của một tập
các số liệu thống kê có tần suất xuất hiện số liệu đó như nhau (thơng
thường chỉ có một lần). Số trung bình của một tập hợp {xi} (i = 1, 2, 3,...,
n) là

x , được xác định bằng biểu thức (1.2).

+ Trung bình số học gia truyền: Trong trường hợp số liệu thống kê mơ tả
một hiện tượng nào đó xuất hiện với tần số khác nhau thì trung bình của
tập số liệu thống kê {xi} với tần suất xuất hiện của xi là mi được xác định
bằng công thức :
n

x=

∑x m
i =1
n

i

i

∑ mi

(1.4)


i =1

Đại lượng mi được gọi là gia quyền số của xi. Nếu khi tất cả xi đều có
giá trị mi như nhau thì cơng thức này trở lại cơng thức (1.2).
+ Trung bình điều hồ là đại lượng nghịch đảo của trung bình số đã được
tính ở cơng thức (1.2).
+ Trung bình hình học của một tập số liệu thống kê {xi} được xác định
bằng biểu thức:
-23 -


x s = n x 1 . x 2 . x 3 . x 4 ... x n −1 . x n = n

n

∏x
i =1

i

(n > 2)

(1.5)

Trung bình hình học của một tập hợp {xi} được sử dụng chủ yếu để
tính tốn cho dãy số liệu thống kê nhằm xác định mức độ tăng trưởng của
dãy số đó. Ví dụ tính tốc độ tăng trưởng của dân số, lao động, sản lượng,
thu nhập quốc dân và một số chỉ tiêu khác nữa.
+ Trung bình của một tập số liệu thống kê cho theo thứ tự thời gian: Được
sử dụng khi ta muốn tính số liệu trung bình của một đại lượng nào đó trong

một khoảng thời gian nhất định, chẳng hạn trung bình của tháng, quý hay
năm, song chúng ta lại chỉ có số liệu của từng thời điểm xác định của hiện
tượng đó. Đại lượng trung bình theo thời gian được tính theo cơng thức sau
:
1
1
x 1 + x 2 + x 3 + ... + x n
2
x= 2
n−1

(1.6)

Trong đó :
- x , xn là giá trị đầu và cuối của số liệu thống kê tại các thời điểm khác
1

nhau trong khoảng thời gian nghiên cứu.
- n là số liệu thống kê được (khơng có tính chất lặp lại, và là các số tự
nhiên).
+ Các đại lượng so sánh: Đó là tỷ số nhằm so sánh giá trị của đại lượng
phân tích tại thời điểm nghiên cứu so với các thời điểm khác (năm gốc hay
năm kế hoạch), hoặc so sánh giữa các bộ phận cấu thành khác nhau của
hiện tượng quan tâm. Có thể sử dụng một số chỉ tiêu so sánh sau :
- Độ gia tăng tuyệt đối giữa hai thời kỳ:
∆x = x i − x i −1

-24 -

(1.7)



×