Tải bản đầy đủ (.doc) (82 trang)

Kiểm toán nội bộ NHNN lào

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (619.67 KB, 82 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Sau khi giải phóng hồn tồn đất nước, Đảng Nhân dân cách mạng (NDCM)
Lào đã đề ra nhiều chủ trương, biện pháp để khắc phục những hậu quả nặng nền của
chiến tranh, phát triển kinh tế - xã hội. Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 5
khoá II (tháng 02/1978), Đảng NDCM Lào đã nhấn mạnh: “…Ra sức khôi phục và
phát triển kinh tế, tổ chức lại sản xuất, đẩy mạnh sản xuất lương thực, thực phẩm
và hàng tiêu dùng; đồng thời tranh thủ viện trợ quốc tế, nhằm đáp ứng những yêu
cầu cần thiết của Nhà nước và nhân dân, làm cho tình hình kinh tế, tài chính và đời
sống nhân dân ổn định…”. Đến Đại hội IV (năm 1986) của Đảng NDCM Lào đã đi
đến một quyết định lịch sử là tiến hành đổi mới đất nước một cách toàn diện trên
mọi lĩnh vực của đời sống, mà trước hết là điều chỉnh cơ cấu kinh tế theo nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN). Nghị quyết Đại hội IV chỉ rõ:
“… Từng bước tiến hành cơng nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa nhằm xây dựng thành
công cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội…”.
Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động kiểm toán đã trở thành nhu cầu tất
yếu đối với hoạt động của bất kỳ tổ chức kinh doanh nào cũng như nhằm nâng cao
hiệu quả quản lý của tổ chức trong quá trình cạnh tranh và hội nhập. Mục tiêu của
kiểm toán nội bộ (KTNB) là đánh giá về hiệu quả hoạt động kiểm soát nội bộ nhằm
bảo đảm độ tin cậy của báo cáo tài chính, hiệu lực của các hoạt động, tuân thủ pháp
luật, quy định, quy trình của Ngân hàng Nhà nước (NHNN), bảo đảm an tồn tài
sản. Kiểm tốn là cơng cụ quản lý kinh tế ngày càng khẳng định vai trò, vị trí quan
trọng trong hệ thống các cơng cụ quản lý của nền kinh tế quốc dân ở Lào hiện nay.
Nếu như nền kinh tế được ví như một cơ thể sống thì Ngân hàng trung ương
(Ngân hàng Nhà nước) được ví như "hệ tuần hồn” điều tiết nhịp độ phát triển của
cơ thể ấy. Theo quy định tại Luật Ngân hàng số 05/NA năm 1995, Ngân hàng của
CHDCND Lào (BOL) hay còn gọi là Ngân hàng Nhà nước Lào, là cơ quan ngang
bộ của Chính phủ, là Ngân hàng trung ương (NHTW) của nước CHDCND Lào.
NHNN Lào đã tiến hành cải cách toàn diện như giảm số ngân hàng chi nhánh và


tương đương từ 19 xuống còn 7 NHTM và tương đương; quy định cơ cấu, tổ chức,


2

chức năng, nhiệm vụ của mỗi NHTM. Trụ sở chính của NHNN Lào đặt tại: Yonnet
Road, POBox 19 Vientiane, Lào. Từ đó đến nay, dưới sự quản lý của NHNN Lào, hệ
thống ngân hàng đã trải qua sự phát triển không ngừng về mặt chất lượng và số
lượng.
Ngân hàng Nhà nước Lào thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ,
hoạt động ngân hàng và ngoại hối; thực hiện chức năng Ngân hàng trung ương của
nước CHDCND Lào. Trên chặng đường tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế,
hoạt động của NHNN Lào với những bước tiến tích cực, thực thi hiệu quả chính
sách tiền tệ quốc gia, đảm bảo ổn định giá trị đồng tiền đã và đang là một trong
những yếu tố quan trọng góp phần không nhỏ thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước.
Đứng trước xu hướng hội nhập quốc tế về hoạt động ngân hàng đang diễn ra
ngày càng sâu rộng, việc tiếp tục nâng cao chất lượng quản lý hoạt động NHNN,
trong đó có hoạt động kiểm tốn nội bộ là một nhiệm vụ hết sức cần thiết. Bởi vì,
hồn thiện bộ máy, chức năng nhiệm vụ và điều chỉnh hoạt động của kiểm toán nội
bộ hiện nay sẽ làm hạn chế tới mức thấp nhất rủi ro có thể xảy ra. Việc đầu tư vào
phát triển một bộ phận kiểm toán nội bộ chuyên nghiệp và quản lý có hiệu quả hoạt
động kiểm tốn nội bộ là theo đúng xu thế quốc tế về xây dựng mô hình quản trị
Ngân hàng nói chung và NHNN nói riêng theo hướng hiện đại. Với các chức năng,
phạm vi hoạt động, cộng với tính chuyên nghiệp và độc lập cao, kiểm tốn nội bộ sẽ
giúp đánh giá tồn bộ hệ thống kiểm soát nội bộ của Ngân hàng, nhằm đảm bảo
nâng cao hiệu quả hoạt động của toàn hệ thống. Cơng tác kiểm tốn nội bộ thực sự
là cơng cụ ̣ hữu hiệu giúp Ban lãnh đạo NHNN Lào đảm bảo thực hiên cân đối 3
mục tiêu: tăng trưởng, hiệu quả và kiểm sốt. Mặc dù cịn gặp phải một số khó khăn
nhất định nhưng cơng tác kiểm tốn nội bộ của NHNN Lào trong những năm gần

đây đã góp phần quan trọng đảm bảo hoạt động đúng hành lang pháp luật, an tồn,
hiệu quả. Tìm ra những hạn chế và phương án giải quyết những vấn đề bất cập
nhằm cải thiện việc quản lý hoạt động kiểm toán nội bộ của NHNN Lào là cơ sở để
đưa các quy định về kiểm toán nội bộ trong Luật NHNN năm 1995 phát huy tác
dụng.


3

Nắm bắt được tầm quan trọng của công tác kiểm tốn nội bộ trong hoạt động
NHNN Lào, tơi đã chọn đề tài “Kiểm toán nội bộ tại Ngân hàng Nhà nước Lào”
để làm luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Xuất phát từ vai trị của ngân hàng trung ương trong nền kinh tế quốc dân,
việc nghiên cứu những vấn đề liên quan đến ngân hàng trung ương nói chung, hoạt
động kiểm sốt nội bộ, kiểm tốn nội bộ của ngân hàng trung ương nói riêng được
hầu hết các quốc gia trên thế giới chú ý. Nhiều chương trình nghiên cứu cấp quốc
gia, nhiều đề tài khoa học cấp bộ, ngành, cũng như nhiều luận văn, luận án tiến sĩ
kinh tế cả ở Việt Nam và Lào đã đề cập đến các vấn đề liên quan đến chủ đề về
ngân hàng trung ương trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Trong đó:
Trên thế giới, nghiệp vụ kiểm tốn nội bộ trên thế giới có một lịch sử lâu đời,
là một nghiệp vụ hình thành do đòi hỏi khách quan của nền kinh tế thị trường và đã
thực hiện các bước phát triển những chuẩn mực về chuyên môn. Các bước phát
triển đầu tiên của các tổ chức kiểm toán chuyên nghiệp là gốc của các chuẩn mực về
kiểm tốn nói chung và kiểm tốn nội bộ nói riêng. Q trình hợp tác quốc tế trong
các tổ chức như IFAC, IAPC (The International Auditing Practices Committee - Uỷ
ban thực hành Kiểm toán quốc tế), IASC và IIA (The Institute of Internal Auditors Viện kiểm toán nội bộ), IASB (Internal Auditing Standards Board – Ban chuẩn mực
kiểm toán nội bộ) và INTOSAI đã hoạch định ra các chuẩn mực về cơng tác chun
mơn, có rất nhiều cơng trình nghiên cứu đưa ra kết quả là các chuẩn mực kiểm tốn
quốc tế. Ví dụ như Báo cáo về chuẩn mực kiểm toán nội bộ (SIAS) được IASB

thuộc IIA ban hành. Kiểm toán nội bộ Ngân hàng trung ương được nhiều quốc gia
trên thế giới coi trọng. Có nhiều đề tài nghiên cứu các mơ hình tiêu biểu cho nhóm
nước châu Âu và châu Á để từ đó rút ra những đánh giá chung nhất. Kiểm toán nội
bộ là một phần đặc biệt của hệ thống kiểm soát nội bộ, thực hiện đánh giá độc lập
tất cả các hoạt động của Ngân hàng trung ương. kiểm toán nội bộ cũng có thể được
thực hiện bởi một Vụ hoặc bộ phận của Ngân hàng trung ương, nhưng đơn vị này
không tham gia vào bất cứ hoạt động tác nghiệp hay điều hành nào và hoạt động
của nó phải tuân theo các tiêu chuẩn chuyên môn nhất định.


4

Tại Việt Nam cũng đã có nhiều nghiên cứu trên nhiều khía cạnh và lĩnh vực
khác nhau về kiểm tốn nội bộ. Các nghiên cứu đã xem xét những vấn đề mang tính
khái qt chung về kiểm tốn nội bộ hay đề cập đến tổ chức kiểm toán nội bộ trong
một đơn vị nhất định hay một ngành nhất định trong nền kinh tế. Về hoạt động kiểm
toán nội bộ trong ngành Ngân hàng, có một số đề tài nghiên cứu khoa học mang ý
nghĩa lý luận và thực tiễn cao, trong đó có thể kể đến: Đề tài nghiên cứu “Giải
pháp nâng cao chất lượng kiểm soát, kiểm toán nội bộ Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam trong quá trình hội nhập quốc tế về hoạt động Ngân hàng” (Lê Thái Nam, Vụ
Kiểm toán nội bộ NHNN, năm 2010); “Đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ của
ngân hàng thương mại Việt Nam và một số khuyến nghị” (TS. Phạm Thanh Thủy –
2015); các luận án tiến sĩ: Luận án tiến sĩ “Hồn thiện kiểm tốn nội bộ tại Ngân
hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam” của tác giả Nguyễn Minh
Phương (năm 2016); Luận án tiến sĩ “Các nhân tố ảnh hưởng đến sự hữu hiệu của
hệ thống kiểm soát nội bộ trong các ngân hàng thương mại Việt Nam” của tác giả
Hồ Tuấn Vũ (năm 2016); các luận văn thạc sĩ: “Hoạt động kiểm toán nội bộ tại
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam” của Chu Lan Hoa (Học viện khoa học xã hội,
2017), “Kiểm toán nội bộ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam” của Nguyễn Thị Hải
Liên (Trường Đại học kinh tế- Đại học Quốc gia Hà Nội, 2014)… Ngoài ra cũng

phải kể đến các Báo cáo thực tập của các Đồn kiểm tốn nội bộ Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam thực tập tại Ngân hàng Trung ương Hàn Quốc, Pháp, Singapore sau
khi nghiên cứu mơ hình và thực tế kiểm tốn nội bộ tại các nước đã đưa ra các bài
học kinh nghiệm để kiểm toán nội bộ tại NHNN Việt Nam áp dụng như: phương
pháp kiểm tốn; năng lực, trình độ của kiểm tốn viên; cơng tác tuyển dụng, đào tạo
cán bộ làm cơng tác kiểm tốn nội bộ… Các cơng trình này đã hệ thống hóa và làm
rõ được cơ sở lý luận về hoạt động kiểm toán nội bộ tại NHNN; thực trạng hoạt
động kiểm toán nội bộ tại NHNN Việt Nam. Trên cơ sở đó, cùng với các bài học
kinh nghiệm rút ra từ việc nghiên cứu về hoạt động kiểm toán nội bộ tại Ngân hàng
trung ương một số nước, các tác giả đã đề xuất giải pháp và kiến nghị chính sách để
nâng cao chất lượng hoạt động kiểm toán nội bộ tại NHNN Việt Nam.
Tại Lào, vấn đề nghiên cứu về nâng cao hiệu quả hoạt động kiểm tốn nội bộ
tại NHNN Lào là địi hỏi tất yếu khách quan của quá trình phát triển, hội nhập nhằm


5

đảm bảo hoạt động hệ thống NHNN Lào phát triển ổn định. Trong số đó, trước hết
phải kể đến các cơng trình nghiên cứu xây dựng chiến lược phát triển kinh tế, hoạch
định các chương trình mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội cho các giai đoạn 20012005, 2006-2010, 2011- 2015, 2016-2020 và đến năm 2030. Mặc dù vậy, cho đến
nay tại Lào mới chỉ có những cơng trình nghiên cứu khoa học chuyên sâu, luận văn
Thạc sĩ, Tiến sĩ liên quan đến hoạt động kiểm tốn nói chung và kiểm toán nội bộ
tại các NHTM là chủ yếu như: các giáo trình nghiệp vụ ngân hàng của Đại học
Quốc gia Lào; Luận án tiến sĩ kinh tế của Santy Phonmeuanglao (2014), Đổi mới
điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào
trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh;
các luận văn thạc sĩ của Vanhsong Keobounphanh (2017), Hoàn thiện hoạt động
kiểm soát nội bộ của các ngân hàng thương mại ở Lào hiện nay, Luận văn Thạc sĩ
quản lý kinh tế, Đại học Quốc gia Lào; Sengchanh Somkhen (2016), Địa vị pháp lý
của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam – so sánh với địa vị pháp lý của Ngân hàng

Quốc gia Lào, Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội; các bài viết
như Xomxay Xihachac (2012), “Việc gia nhập tổ chức thương mại thế giới và triển
vọng hợp tác thương mại giữa Lào và các nước”, Kinh tế & Phát triển, (4), tr. 4248; Somphao Phaysith, 2012, “Demand for Money in Lao DPR in the context of
Financial Integration”, Draft PhD thesis, (unpublished), National Economics
University; An Analysis of the Recent Financial Performance of the Laotian
Banking Sector during 2005-2010 (Vol.4, No.4, April 2012 www.ccsenet.org/ijef)....
Các nghiên cứu về Ngân hàng Trung ương mới chỉ dừng lại ở tầm vĩ mơ chứ chưa
đi sâu về hoạt động kiểm sốt nội bộ, kiểm tốn nội bộ. Chính vì vậy, có thể nói, đề
tài “Kiểm tốn nội bộ tại Ngân hàng Nhà nước Lào” là đề tài mang tính mới và có ý
nghĩa thiết thực hiện nay.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
* Mục tiêu nghiên cứu đề tài
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài này là: từ cơ sở lý luận về kiểm toán nội bộ
trong các tổ chức nói chung và sự cần thiết tổ chức vận hành bộ máy kiểm tốn nội
bộ của NHNN Lào, nhìn nhận một cách khách quan, trên cơ sở khoa học những
điểm mạnh, những tồn tại hạn chế để qua đó tìm ra các giải pháp có tính khả thi,


6

nhằm hồn thiện hoạt động kiểm tốn nội bộ NHNN, góp phần đảm bảo an tồn tài
sản và nâng cao hiệu quả hoạt động, đáp ứng yêu cầu hoạt động của NHNN Lào
trong giai đoạn mới.
* Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài:
Để thực hiện mục tiêu trên, luận văn cần phải giải quyết các nhiệm vụ sau:
- Hệ thống hóa những lý luận cơ bản về kiểm tốn nói chung, đặc biệt là kiểm
toán nội bộ ngân hàng trung ương và những yêu cầu tất yếu của hoạt động kiểm
toán nội bộ ngân hàng trung ương.
- Nghiên cứu kinh nghiệm hoạt động kiểm toán nội bộ của ngân hàng trung
ương các nước để có thể vận dụng vào điều kiện Lào.

- Phân tích đánh giá hoạt động kiểm tốn nội bộ của Vụ Kiểm toán nội bộ
NHNN Lào trong thời qua. Đặc biệt chú trọng phân tích những tồn tại trong hoạt
động, để tìm ra những giải pháp hồn thiện hoạt động kiểm toán nội bộ của hệ
thống NHNN Lào, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động, đáp ứng yêu cầu hội
nhập trong giai đoạn mới.
Thực hiện các nhiệm vụ này, nội dung của luận văn tập trung trả lời cho 2 câu
hỏi nghiên cứu sau:
Thứ nhất là: Thực trạng hoạt động kiểm toán nội bộ tại NHNN Lào hiện nay
ra sao?
Thứ hai là: NHNN Lào cần làm gì để chất lượng hoạt động kiểm toán nội bộ
hiệu quả hơn?
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
* Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận cơ bản về kiểm tốn
nội bộ nói chung; thực trạng hoạt động kiểm tốn nội bộ tại NHNN Lào trong vài
năm gần đây (2015 – 2018) theo số liệu do Tổng cục Thống kê Lào, Vụ Kiểm toán
nội bộ - Ngân hàng Nhà nước Lào cung cấp và các tài liệu chuyên ngành.
* Phạm vi nghiên cứu:
- Phạm vi giới hạn: Phạm trù kiểm tốn nội bộ là tương đối rộng, gồm tồn bộ
các quy định và các thủ tục được thiết lập và thực hiện để ngăn ngừa, phát hiện rủi
ro, bảo đảm tính trung thực và tin cậy của báo cáo tài chính, bảo vệ an tồn tài sản


7

cũng như tính hiệu lực, hiệu quả và tính tuân thủ pháp luật. Tuy nhiên, đề tài này chỉ
giới hạn nghiên cứu lý luận chung, thực trạng hoạt động kiểm toán nội bộ và đề
xuất những giải pháp nhằm cải thiện việc ý hoạt động kiểm toán nội bộ tại Ngân
hàng Nhà nước Lào hiện nay, chủ yếu là hoàn thiện mơ hình tổ chức bộ máy kiểm
tốn nội bộ; hoàn thiện hành lang pháp lý, nâng cao chất lượng kiểm toán nội bộ

trên cơ sở đánh giá rủi ro. Đề tài cũng đề cập đến mối quan hệ giữa kiểm toán nội
bộ của Ngân hàng Nhà nước với các tổ chức kiểm tốn từ bên ngồi như Kiểm tốn
Nhà nước và các tổ chức kiểm tốn khác nhưng khơng nghiên cứu hoàn chỉnh các
tổ chức này.
- Về thời gian: tập trung nghiên cứu hoạt động kiểm toán nội bộ tại Ngân hàng
Nhà nước CHDCND Lào từ năm 2015 đến 2018. Các giải pháp đề xuất trong luận
văn được định hướng đến năm 2025 và tầm nhìn 2030.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu đề tài
* Cơ sở lý luận:
Luận văn vận dụng lý luận cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, quan điểm của
Đảng Nhân dân cách mạng Lào về kinh tế để nhìn nhận kiểm tốn nội bộ trong hệ
thống ngân hàng nói chung, NHNN nói riêng một cách tổng thể trong các mối quan
hệ và tác động khăng khít đối với nhau.
* Phương pháp nghiên cứu đề tài:
Để thực hiện các nhiệm vụ của đề tài, Luận văn sử dụng đa dạng các phương
pháp nghiên cứu khoa học như: phương pháp thu thập và xử lý tài liệu, phương
pháp hệ thống, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp thống kê. Trong
đó:
- Phân tích nội dung tài liệu theo cấu trúc logic để phát hiện và xác định cơ sở
khoa học cho những luận cứ lý thuyết đưa ra.
- Phương pháp thu thập, thống kê, xử lý tài liệu là phương pháp quan trọng,
xuyên suốt quá trình thực hiện đề tài, được sử dụng để tập hợp, hệ thống lại cơ sở lý
luận, các thông tin, tư liệu về hoạt động kiểm toán nội bộ của NHNN Lào.
- Phương pháp tổng hợp: Lựa chọn, sắp xếp tài liệu tương ứng với những luận
cứ được xây dựng và những khía cạnh nội dung của đề tài; dựa vào kết quả phân


8

tích để liên kết các bộ phận, các khía cạnh của hoạt động kiểm toán nội bộ của

NHNN Lào để nhận thức thuộc tính, bản chất chung nhất của hoạt động này.
- Phương pháp điều tra, phỏng vấn: Tiếp xúc với những cán bộ làm công tác
nghiên cứu, công tác triển khai thực tiễn tại cơ quan chuyên trách về kiểm tốn nội
bộ tại NHNN Lào để thu nhận thơng tin; phỏng vấn các chuyên gia để rút ra kết
luận của vấn đề đang xem xét.
- Ngoài ra, luận văn còn vận dụng kiến thức và cơ sở lý luận của một số ngành
như triết học, kinh tế vĩ mô, thống kê... để khái quát các vấn đề nghiên cứu.
Việc kết hợp các phương pháp này sẽ đem đến cái nhìn chân thực, cụ thể về
vấn đề vừa đảm bảo tính khái qt.
6. Những đóng góp mới của luận văn
Trên cơ sở kế thừa các cơng trình đi trước, luận văn đã nghiên cứu và phát
triển đề tài một cách toàn diện. Những kết quả nghiên cứu của luận văn này là:
- Góp phần làm rõ cơ sở lý luận về kiểm toán và hoạt động kiểm toán nội bộ;
làm nổi bật được vai trò và tầm quan trọng của hoạt động kiểm toán nội bộ tại Ngân
hàng trung ương trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
- Luận văn đã phân tích được kinh nghiệm hoạt động kiểm toán nội bộ tại
Ngân hàng trung ương của một số nước và vùng lãnh thổ có điều kiện tương đồng
với Lào, qua đó rút ra các bài học kinh nghiệm nhằm tham khảo, vận dụng trong
quá trình nâng cao chất lượng hoạt động kiểm toán nội bộ tại Ngân hàng trung ương
Lào.
- Trên cơ sở đánh giá thực trạng, luận văn đã đưa ra định hướng và những giải
pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng hoạt động kiểm toán nội bộ tại Ngân hàng
trung ương của Lào đến năm 2025, tầm nhìn 2030. Những giải pháp đề xuất trên là
phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của CHDCND Lào vì vậy nó có tính khả thi
khi vận dụng ở nước Lào giai đoạn sắp tới.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho
công tác nghiên cứu và giảng dạy tài chính – ngân hàng, tài liệu tham khảo cho hoạt
động thực tiễn của các cơ quan, những người đang tham gia công tác trong ngành
ngân hàng không chỉ của Lào mà còn cả đối với giới nghiên cứu Việt Nam.
7. Kết cấu của luận văn



9

Ngoài Phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, kết cấu
của luận văn gồm 3 chương, 11 tiết. Cụ thể:
Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn về kiểm toán nội bộ của Ngân hàng Nhà
nước.
Chương 2. Thực trạng hoạt động kiểm toán nội bộ tại Ngân hàng Nhà nước
Lào.
Chương 3. Định hướng và giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động kiểm
toán nội bộ tại Ngân hàng Nhà nước Lào.


10

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ KIỂM TOÁN NỘI BỘ
CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC
1.1. Những vấn đề cơ bản về kiểm toán
1.1.1. Khái niệm về kiểm toán
Kiểm tốn có lịch sử phát triển lâu đời trên thế giới. Kiểm tốn có lịch sử phát
triển vào khoảng hơn 5.500 năm trước đây với những dấu hiệu thể hiện sự kiểm tra
đơn giản thông qua việc đánh dấu bên cạnh các con số ghi nhận giao dịch trên các
vật để ghi chép của con người trong nền văn minh Mesopotamian cổ đại 1. Một
người ghi nhận giao dịch và một người khác kiểm tra việc ghi nhận giao dịch. Sau
này, hoạt động kiểm tra này được sử dụng rất nhiều tại Ai Cập cổ đại, Ba Tư và La
Mã cổ đại. Ở La Mã cổ đại, công việc kiểm tra được giao cho các “auditus” (tiếng
Latin là nghe). Những người được kiểm tra gọi là các “quaestors” (có nghĩa là
những người được kiểm tra). Kiểm toán là hoạt động xác minh và bày tỏ ý kiến về

đối tượng được kiểm tốn do các kiểm tốn viên có trình độ nghiệp vụ tương xứng
thực hiện trên cơ sở hệ thống pháp lý có hiệu lực.
Mặc dù vậy, khái niệm về kiểm tốn hiện nay vẫn chưa có sự thống nhất giữa
các quốc gia, các học giả. Liên đồn kế tốn Quốc tế (IFAC) đã định nghĩa: “Kiểm
toán là việc các kiểm tốn viên độc lập kiểm tra và trình bày ý kiến của mình về bản
báo cáo tài chính”. Theo tác giả ALVIN AREN và JAMES K. LOE Bbecker, phát
biểu trong giáo trình kiểm tốn hiện đại của mình: "Kiểm tốn là q trình mà theo
đó một cá nhân độc lập, có thẩm quyền thu thập và đánh giá các bằng chứng về các
thơng tin có thể định lượng có liên quan đến một tổ chức kinh tế cụ thể, nhằm mục
đích xác định và báo cáo mức độ phù hợp giữa các thơng tin số lượng đó với các
chuẩn mực đã được thiết lập "2. Trong giáo dục và đào tạo kiểm tốn tại Cộng hịa
Pháp “Kiểm tốn là việc nghiên cứu và kiểm tra các tài khoản niên độ của một tổ
chức do một người độc lập, đủ danh nghĩa gọi là kiểm toán viên, tiến hành để
khẳng định rằng những tài khoản đó phản ánh đúng đắn tình hình tài chính thực tế,
1

Lê Thị Ngọc Phương (2017), Kiểm toán hoạt động do kiểm toán nội bộ thực hiện tại Tập đồn Bưu chính
Viễn thơng Việt Nam, Luận án Tiến sĩ kinh tế, Trường Đại học Thương mại, tr.36.
2
ALVINA, ARENS, JAMESK, LOEBBECKE (2009), Auditing, tr.18.


11

khơng che dấu gian lận và chúng được trình theo mẫu chính thức của luật định”.
Lại có quan điểm khác cho rằng kiểm tốn là q trình do các chun gia có trình
độ nghiệp vụ thích hợp, được pháp luật thừa nhận, tiến hành để thu thập, xét đoán
các bằng chứng về các thơng tin có thể định lượng được, liên quan đến quá trình
hoạt động của một đơn vị kinh tế, để xác định mức độ phù hợp giữa các thơng tin có
thể định lượng được với các chuẩn mực đã thiết lập và lập báo cáo kết luận về mức

độ phù hợp này3.
Trên cơ sở này, có thể rút ra khái niệm kiểm toán theo quan điểm chung nhất
về kiểm tốn, thể hiện tính đầy đủ về kiểm toán của các nhà kiểm toán chuyên
nghiệp thế giới như sau: "Kiểm toán là một chức năng quản lý, là một q trình mà
trong đó, các kiểm tốn viên có thẩm quyền, những người được đào tạo để có trình
độ thích hợp, tiến hành một cách độc lập việc thu thập, xác minh, đánh giá các
bằng chứng về các thông tin số lượng liên quan đến các hoạt động kinh tế - tài
chính của một đơn vị và tổ chức kinh tế, nhằm xác định và báo cáo mức độ phù hợp
của các thơng tin số lượng đó với các chuẩn mực về kinh tế, về tài chính và kế toán
đã được thiết lập và được pháp luật thừa nhận”.
Đối tượng được kiểm tốn tuỳ theo loại hình kiểm tốn. Hiện có rất nhiều tiêu
thức để phân loại kiểm tốn, phổ biến là hai tiêu thức: phân loại kiểm toán theo
chức năng và phân loại kiểm toán theo chủ thể tiến hành. Nếu phân loại theo chức
năng, toàn bộ các cơng việc kiểm tốn hiện nay thực hiện theo ba chức năng: kiểm
toán hoạt động, kiểm toán tuân thủ, kiểm tốn báo cáo tài chính. Nếu phân loại theo
chủ thể tiến hành, kiểm toán được phân ra làm 3 loại: kiểm toán Nhà nước, kiểm
toán độc lập, và kiểm toán nội bộ.
Các cá nhân độc lập thực hiện kiểm toán là kiểm tốn viên và phải là người có
đủ khả năng để hiểu các chuẩn mực đã được xây dựng và có đủ những thẩm quyền
khi thực hiện kiểm tốn để có thể thu thập được đầy đủ những bằng chứng xác thực
phục vụ cho q trình kiểm tốn. Kiểm toán viên phải là người độc lập về quan hệ
kinh tế và quan hệ gia đình với người đứng đầu đơn vị được kiểm tốn. Kiểm tốn
viên phải có phẩm chất trung thực, vô tư, khách quan trong công việc.

3

Trần Thị Minh Hải (2011), Hồn thiện hoạt động kiểm tốn nội bộ tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Luận
văn Thạc sĩ Kinh tế, Học viện Ngân hàng, Hà Nội, tr.4



12

Việc thu thập và đánh giá các bằng chứng của kiểm tốn viên trong q trình
kiểm tốn nhằm xác định mức độ tương quan và phù hợp giữa các thông tin có thể
định lượng của đơn vị được kiểm tốn với các chuẩn mực đã được xây dựng.
Để tiến hành được một cuộc kiểm tốn thì các kiểm tốn viên phải có thơng
tin có thể định lượng được, bao gồm các thơng tin về tài chính và các thơng tin khác
được phản ánh qua các thống kê, báo cáo, các thơng tin về kế tốn, quyết tốn, các
loại sổ sách, các loại băng đĩa từ dùng để lưu trữ các thơng tin…
Các chuẩn mực áp dụng trong kiểm tốn là các quy định, quy phạm pháp luật,
các biện pháp nghiệp vụ, các chuẩn mực về các nghiệp vụ đã được xây dựng, các
quy định, chuẩn mực về kiểm toán quốc tế và của Việt Nam.
Sau giai đoạn thực hiện kiểm toán là lập báo cáo kết quả kiểm toán. Tuỳ thuộc
vào loại hình kiểm tốn, các báo cáo kiểm tốn có thể khác nhau về nội dung, bản
chất nhưng trong mọi trường hợp nó phải cung cấp cho người sử dụng về mức độ
tương quan giữa các thông tin đã kiểm toán với các chuẩn mực đã xây dựng. Tuỳ
thuộc vào các loại kiểm toán và các cuộc kiểm toán, báo cáo kiểm tốn có thể được
gửi cho các đối tượng có nhu cầu sử dụng khác nhau của các cuộc kiểm toán.
Ở các nước tư bản phát triển, hoạt động kiểm tốn phát triển rất nhanh chóng
và mạnh mẽ. Ở Mỹ có hơn 45.000 hãng kiểm tốn chun nghiệp, trong đó có 6
hãng xun quốc gia đặt văn phịng ở tất cả các thành phố lớn của Mỹ và nhiều
nước khác trên thế giới. Ở Pháp có 24 văn phịng kiểm tốn khu vực và 2.500 văn
phịng cơ sở trực tiếp làm dịch vụ và hơn 10.000 nhân viên làm nghề kiểm tốn
chun nghiệp. Ở Trung Quốc đã có trên 600 cơng ty và văn phịng kế tốn, kiểm
tốn, tư vấn… của Trung ương và địa phương (trong đó có 28 Cơng ty do các Sở
Tài chính thành lập) với tổng số nhân viên làm nghề kiểm toán 10.000 người. Ở
Philippin đã có 15.000 nhân viên làm việc ở các tổ chức kiểm tốn chun nghiệp.
Ở Hồng Kơng có khoảng trên 100 văn phịng kiểm tốn và tư vấn, trong đó có văn
phịng lớn với hơn 1.000 nhân viên… Ở các nước nói trên và nhiều nước khác, luật
pháp quy định rõ quyền hạn, trách nhiệm của các tổ chức kiểm toán và kiểm toán

viên, thừa nhận sự khách quan, độc lập của kiểm toán, chấp nhận giá trị pháp lý của
các tài liệu có chữ ký của kiểm toán viên.
* Mối quan hệ giữa kiểm toán với kế toán.


13

Kế tốn là q trình ghi sổ, phân loại và tổng hợp các nghiệp vụ kinh tế một
cách có hệ thống, nhằm mục đích cung cấp thơng tin tài chính cho q trình ra
quyết định. Kế tốn - với tư cách là một công cụ để quản lý nền tài chính Quốc gia
nói chung và cơng tác tài chính trong một doanh nghiệp, một tổ chức kinh tế nói
riêng, hạch toán kế toán đã đem lại những tác dụng to lớn trong việc tăng thu nhập,
tiết kiệm chi phí trong quản lý kinh doanh, kinh tế tài chính có hiệu quả. Chức năng
của hạch toán kế toán là cung cấp thông tin số lượng một số loại nhất định mà nhà
quản lý và những người khác có thể sử dụng để ra quyết định.
Mặc dù các thông tin kinh tế mà hạch toán kế toán đã đưa ra là cơ sở cho việc
ra quyết định của chủ doanh nghiệp, cơ sở cho việc hoạch định và thực thi các chính
sách kinh tế, cơ sở cho các bộ phận b ên ngoài doanh nghiệp quan tâm để ra quyết
định kinh doanh. Song thơng tin nào là đúng đắn, là có căn cứ, có độ chính xác cao,
điều này lại hồn tồn phụ thuộc vào hệ thống kiểm tra, kiểm soát, kiểm toán Nhà
nước, kiểm toán nội bộ cũng như hệ thống kiểm toán độc lập. Điều này để lên giữa
kiểm toán và kế tốn có mối quan hệ hữu cơ với nhau, ở chỗ, nếu kế tốn là q
trình ghi chép, phản ánh, tổng hợp và phân tích các nghiệp vụ kinh tế phát sinh thì
kiểm tốn lại là q trình phân tích, nhận định, đánh giá, kiểm định, kết luận về độ
chính xác của các thơng tin đó. Xét trên một khía cạnh nào đó của mối quan hệ này
thì nhận thấy rằng: sẽ khơng có q trình kiểm tốn nếu khơng có kế tốn, mặt khác
những thơng tin mà kế tốn đã đưa ra thơng qua q trình hạch tốn các nghiệp vụ
kinh tế phát sinh khơng được kiểm tốn viên kiểm tra, xác nhận tính trung thực,
đúng đắn thì những thơng tin ấy chưa hẳn đã đảm bảo tính pháp lý, hợp thức cao
của nó. Hiện nay, hoạt động kiểm tốn cịn rất mới mẻ cho nên việc lầm lẫn giữa hai

khái niệm này là không thể tránh khỏi. Vì vậy thơng qua q trình nghiên cứu và
phân tích có hệ thống, có khoa học thì sẽ đảm bảo được sự hiểu biết chính xác về
hai loại cơng cụ quản lý kinh tế này.
1.1.2. Vai trò, chức năng của kiểm tốn
* Vai trị:
Hoạt động của bất kỳ một Quốc gia, một tổ chức kinh tế nào đều nhằm tiến tới
sự hoàn thiện và sự phát triển cao , tuy nhiên đây là một lý tưởng, bởi lẽ sự biến
động của môi trường kinh tế - xã hội là tất yếu xảy ra và có tác động tích cực hay


14

tiêu cực tới kết quả hoạt động của quốc gia, của tổ chức kinh tế đó. Nói như vậy để
khẳng định rằng, những kết quả và những hậu quả của một quá trình hoạt động và
phát triển của một pháp nhân, một chủ thể kinh tế là tất yếu. Sự thất thoát tài sản, sự
xụp đổ một chế độ, đổ vỡ chiến lược kinh doanh và những thành tựu kinh tế đạt
được là hai mặt đối lập luôn tồn tại trong một thể thống nhất. Vấn đề đặt ra là, làm
thế nào để hạn chế tới mức thấp nhất những rủi ro có thể xảy ra đối với các chủ thể
kinh tế trong hoạt động và phấn đấu trên con đường tiến tới mục đích của mình.
Câu hỏi này được đặt ra không chỉ đối với các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền mà
là vấn đề quan tâm chung của toàn xã hội. Nhận thức được điều này, các nhà quản
lý và hoạch định chính sách kinh tế ở tầm Quốc gia và xuyên Quốc gia đã xây dựng
và áp dụng các công cụ quản lý kinh tế - xã hội. Trong đó, kiểm tốn là một cơng cụ
quan trọng không thể thiếu trong hệ thống các công cụ quản lý nền tài chính, tiền tệ,
ổn định chính trị xã hội Quốc gia, Quốc tế.
Kiểm tốn khơng phải là hoạt động “tự thân” và “vị thân”. Kiểm toán sinh ra
từ yêu cầu của quản lí và phục vụ cho u cầu của quản lí. Từ đó có thể thấy rõ ý
nghĩa, tác dụng của kiểm toán trên nhiều mặt:
Thứ nhất, kiểm toán tạo niềm tin cho “những người quan tâm”. Trong cơ chế
thị trường, có nhiều người quan tâm tới tình hình tài chính và sự phản ánh của nó

trong tài liệu kế tốn, bao gồm: Các cơ quan nhà nước; Các nhà đầu tư; Các nhà
quản trị doanh nghiệp và các nhà quản lí khác; Người lao động; Khách hàng, nhà
cung cấp và những người quan tâm khác... Có thể nói việc tạo ra niểm tin cho
những người quan tâm là yếu tố quyết định sự ra đời và phát triển của kiểm toán với
tư cách là một hoạt động độc lập.
Thứ hai, kiểm tốn góp phần hướng dẫn nghiệp vụ và củng cố nề nếp hoạt
động tài chính kế tốn nói riêng và hoạt động của đơn vị kiểm tốn nói chung. Mọi
hoạt động, đặc biệt là hoạt động tài chính, đều bao gồm những mối quan hệ đa
dạng, luôn biến đổi và được cấu thành bởi hàng loạt nghiệp vụ cụ thể. Tính phức tạp
của hoạt động này càng tăng lên bởi quan hệ chặt chẽ giữa các quan hệ tài chính với
lợi ích con người. Trong khi đó, thơng tin kế tốn là sự phản ánh của hoạt động tài
chính. Ngồi việc chứa đựng những phức tạp của các quan hệ tài chính, thơng tin kế
tốn cịn là sản phẩm của q trình xử lí thông tin bằng phương pháp kĩ thuật rất đặc


15

thù. Do đó, nhu cầu hướng dẫn nghiệp vụ và củng cố nề nếp trong quản lí tài chính
càng có đòi hỏi thường xuyên và ở mức độ cao hơn.
Thứ ba, kiểm tốn góp phần nâng cao hiệu quả và năng lực quản lí.
Kiểm tốn khơng chỉ có chức năng xác minh rõ độ tin cậy của thơng tin mà
cịn tư vấn về quản lí nhằm kinh doanh hiệu quả và hạn chế rủi ro. Trong điều kiện
hiện nay, hệ thống pháp lý chưa hoàn chỉnh, kinh nghiệm và chuyên gia quản lý giỏi
theo cơ chế thị trường chưa nhiều các doanh nghiệp đứng trước một cơ chế thị
trường đầy phức tạp và cạnh tranh gay gắt về lợi nhuận. Trong điều kiện đó, để ổn
định, kinh doanh hiệu quả, phát triển đúng hướng… chỉ có thể tiến hành trên cơ sở
sử dụng đồng bộ và hiệu quả các công cụ quản lý, đặc biệt là kiểm toán.
Như vậy, kiểm toán là hoạt động tất yếu phải tồn tại, là công cụ quản lý hữu
hiệu của Nhà nước, là một trong các công cụ quản lý quan trọng trong các doanh
nghiệp, các tổ chức kinh tế, là phương tiện không thể thiếu của bên thứ ba khi sử

dụng để đưa ra quyết định kinh doanh đúng đắn cho mình. Ho ạt động kiểm toán là
cần thiết, đảm bảo hiệu quả trong mọi công tác kinh tế cũng như phi kinh tế trong
xã hội.
* Chức năng:
Bản chất của kiểm toán, nếu xét ở góc độ chung nhất, chính là sự kiểm tra độc
lập từ bên ngoài được thực hiện bởi một lực lượng có trình độ kĩ năng chun mơn
cao, chịu trách nhiệm hồn tồn về mặt pháp lí và kinh tế đối với các nhận xét của
mình về độ tin cậy của các thông tin được thẩm định.
Từ bản chất của kiểm tốn có thể thấy kiểm tốn có chức năng cơ bản là xác
minh và bày tỏ ý kiến.
Thứ nhất, chức năng xác minh
Chức năng xác minh nhằm khẳng định mức độ trung thực của tài liệu, tính
pháp lí của việc thực hiện các nghiệp vụ hay việc lập các báo cáo tài chính. Xác
minh là chức năng cơ bản nhất gắn liền với sự ra đời, tồn tại và phát triển của hoạt
động kiểm toán. Bản thân chức năng này không ngừng phát triển và được thể hiện
khác nhau tuỳ đối tượng cụ thể của kiểm toán.


16

Đối với kiểm tốn báo cáo tài chính, việc xác minh được thực hiện theo 2 mặt:
1/ Tính trung thực của các con số; 2/ Tính hợp thức của các biểu mẫu phản ánh tình
hình tài chính.
Đối với các thơng tin đã được lượng hố: Thơng thường, việc xác minh được
thực hiện trước hết qua hệ thống kiểm soát nội bộ. Kết quả cuối cùng khi đã xác
minh được điều chỉnh trực tiếp để có hệ thống thơng tin tin cậy và lập các bảng khai
tài chính. Theo đó, kiểm tốn trước hết là xác minh thơng tin.
Đối với các nghiệp vụ (hoạt động), chức năng xác minh của kiểm tốn có thể
được thực hiện bởi hệ thống ngoại kiểm hay nội kiểm. Sản phẩm của hoạt động xác
minh này thường là những biên bản. Ở lĩnh vực này, kiểm toán hướng vào việc thực

hiện chức năng thứ hai là bày tỏ ý kiến.
Thứ hai, chức năng bày tỏ ý kiến
Bày tỏ ý kiến là đưa ra ý kiến nhận xét của kiểm tốn viên về tính trung thực,
mức độ hợp lí của các thơng tin tài chính kế tốn.
Chức năng bày tỏ ý kiến có thể được hiểu rộng với ý nghĩa cả kết luận về chất
lượng thông tin và cả pháp lí, tư vấn qua xác minh:
- Tư vấn cho quản lí nhà nước trong việc phát hiện sự bất cập của chế độ tài
chính kế tốn, qua đó kiến nghị với các cơ quan quản lí nhà nước xem xét, nghiên
cứu, hoàn thiện cho phù hợp.
- Tư vấn cho việc quản lí của các đơn vị được kiểm tốn. Thơng qua việc chỉ
ra những sai sót, yếu kém của hệ thống kiểm sốt nội bộ, cơng tác quản lí tài chính,
kiểm tốn viên gợi mở, đề xuất các biện pháp khắc phục hoàn thiện đối với đơn vị.
Trong nhiều trường hợp, thơng qua kiểm tốn, các tổ chức đơn vị doanh nghiệp đã
kịp thời chấn chỉnh hệ thống kiểm sốt nội bộ, chế độ quản lí tài chính ở đơn vị
mình. Qua đó khai thác có hiệu quả hơn năng lực tài chính phát triển đơn vị.
1.1.3. Quy trình kiểm tốn
Các cuộc kiểm tốn có thể khác nhau về thời gian, nội dung, quy mơ , nhưng
nhìn chung đều phải trải qua một số bước cơ bản sau: Bước 1: lập kế hoạch; Bước
2: thực hiện kiểm tốn; Bước 3 : hồn tất và lập báo cáo kiểm toán. Đối với kiểm
toán nhà nước và kiểm toán nội bộ cịn có thêm Bước 4: theo dõi việc thực hiện
kiến nghị của kiểm toán.


17

- Bước 1: Lập kế hoạch:
+ Phát triển một chiến lược tổng thể và một phương pháp tiếp cân đối tượng
kiểm toán, trong một khuân khổ nội dung và thời gian dự kiến.
+ Việc lập kế hoạch để thực hiện được cuộc kiểm tốn thành cơng có hiệu quả
theo đúng thời gian dự kiến, đồng thời giúp cho việc phân công, một cách hợp lý,

giúp cho việc phối hợp giữa các kiểm toán viên với nhau và với các chuyên gia
khác.
+ Khi lập kế hoạch ngay khi nhận được giấy mời kiểm toán và trả lời thư mời
kiểm toán.
+ Việc lập kế hoạch là chuẩn mực của kiểm toán viên và dựa trên sự hiểu biết
về khách hàng trên lĩnh vực kinh doanh, cơ cấu tổ chức, ban giám đốc.
Kế hạch kiểm toán được xây dựng bao gồm các nội dung sau:
Kế hoạch nội dung: Mục tiêu kiểm toán; Khối lượng phạm vi cơng việc;
Phương pháp kiểm tốn dự kiến; Trình tự các bước trong kiểm tốn.
Kế hoạch nhân sự: Số lượng kiểm tốn viên; Trình độ chun mơn nghiệp vụ;
Tính độc lập của kiểm tốn viên; Phân cơng các kiểm tốn viên vào việc; Dự kiến
có mời chun gia.
Thời gian kiểm toán: Tổng quỹ thời gian; Bắt đầu kết thúc.
- Bước 2: Thực hiện kiểm toán: là giai đoạn tiến hành thực hiện nội dung
chương trình được lập. Thực chất là tiến hành các công việc cụ thể và bao gồm các
cơng việc:
+ Ghi nhận hiện trạng tình hình hoạt động doanh nghiệp.
+ Đánh giá hệ thống kế toán
+ Thực hiện các nội dung cụ thể trong chương trình kiểm toán chi tiết.
+ Sử dụng các kỹ thuật để thu thập các bằng chứng kiểm tốn
+ Ghi chép cơng việc kiểm toán viên để làm thành hồ sơ kiểm toán
+ Thảo luận bàn bạc về kết quả kiểm toán và thông nhất ý kiến với các nhà
quản lý
+ Soạn thảo các dự thảo báo cáo kiểm toán.
- Bước 3: hồn tất và lập báo cáo kiểm tốn:


18

+ Kiểm tốn viên chính, trưởng đồn kiểm tốn sẽ tổng hợp và đánh giá lại

tồn bộ cơng việc kiểm toán viên đã làm, nhằm: Đánh giá kế hoạch kiểm tốn được
thực hiện có hiệu quả hay chưa; xem xét các đánh giá, các phát hiện của kiểm toán
viên trong đồn có chính xác có đủ cơ sở, đủ bằng chứng thích hợp hay khơng; đánh
giá xem mục tiêu kiểm toán đã đạt được hay chưa.
+ Lập báo cáo kiểm tốn: Kết thúc q trình kiểm tốn.
Báo cáo kiểm tốn là văn bản được kiểm toán viên soạn thảo để trình bày ý
kiến của mình về tính trung thực, hợp lý về các thơng tin kiểm tốn hay( là sự phù
hợp của những thơng tin đó đã được xác lập). Đây là sản phẩm cuối cùng của cuộc
kiểm tốn, có vai trò hết sức quan trọng.
Các yếu tố của báo cáo kiểm tốn: Tên và địa chỉ của cơng ty kiểm toán; Số
hiệu báo cáo kiểm toán; Tiêu đề báo cáo kiểm toán; Người nhận báo cáo kiểm toán;
Mở đầu của báo cáo kiểm toán; Phạm vi và căn cứ thực hiện cuộc kiểm toán; ý kiến
của kiểm toán viên và cơng ty kiểm tốn về báo cáo tài chính đã được kiểm toán;
Địa chỉ và thời gian lập báo cáo kiểm toán; chữ ký và con dấu.
Báo cáo kiểm toán bao gồm các loại sau: (1) Báo cáo kiểm tốn chấp nhận
tồn bộ: Kiểm tốn viên đưa ra ý kiến chấp nhận tồn bộ các thơng tin kiểm tốn
trên tất cả các khía cạnh trọng yếu. (2) Báo cáo kiểm toán chấp nhận từng phần:
Kiểm toán viên đưa ra ý kiến chấp nhận từng phần đối với các thông tin được kiểm
toán. Phần chưa chấp nhận được thuộc hai dạng sau đây: Dạng tuỳ thuộc: khi kiểm
toán viên bị giới hạn về phạm vi kiểm toán , hoặc là các bằng chứng tài liệu quá
mập mờ, khiến kiểm toán viên chưa thể đưa ra những nhận xét, nhưng cũng chưa
đến mức ghi rõ ý kiến từ bỏ; Dạng ngoại trừ khi có sự bất đồng kiểm tốn viên với
nhà quản lý về thơng tin đó , nhưng trong q trình kiểm tốn khơng bị giới hạn
phạm vi. (3) Báo cáo kiểm toán đưa ra ý kiến trái ngược hay khơng chấp nhận khi
có sự bất đồng lơn giữa kiểm toán viên và các nhà quản lý. (4) Báo cáo kiểm toán từ
chỗ đưa ra ý kiến khi phạm vi kiểm toán bị giới hạn nghiêm trọng hoặc các bằng
chứng, các tài liệu quá mập mờ, khiến kiểm toán viên khơng kiểm tốn theo chương
trình đã định từ chối đưa ra báo cáo.
1.2. Những vấn đề cơ bản về kiểm toán nội bộ
1.2.1. Khái niệm kiểm toán nội bộ



19

Kiểm tốn nội bộ là một trong ba loại hình kiểm toán khi phân loại theo bộ
máy tổ chức và chủ thể thực hiện. Chính vì vậy, xu hướng phát triển và bản chất của
kiểm toán nội bộ mang những đặc trưng chung của kiểm tốn.
Hoạt động KTNB được hình thành và phát triển trước tiên ở Mỹ, sau này mới
phát triển sang các khu vực khác trên thế giới, và được thừa nhận ở trên 165 quốc
gia như một nghề nghiệp mang tính chuyên nghiệp. Cùng với sự phát triển năng
động và ngày một phức tạp của các nền kinh tế, vai trị và chức năng của Kiểm tốn
nội bộ trong việc đưa ra đảm bảo về việc đơn vị có thể kiểm sốt một cách hữu hiệu
rủi ro đã dần được công nhận trong tất cả các khu vực kinh tế công, kinh tế tư nhân
và cả các tổ chức phi lợi nhuận.
Trong giai đoạn đầu mới xuất hiện, KTNB chủ yếu tập trung vào lĩnh vực tài
chính kế toán với chức năng quan trọng nhất là phát hiện sai phạm. Với chức năng
này, kiểm tốn viên đóng vai trò là người giám sát hay kiểm tra viên về tài chính.
Trên phạm vi rộng hơn, KTNB được sử dụng chủ yếu như một hoạt động hỗ trợ của
ngoại kiểm nhằm giảm bớt cơng việc và chi phí cho hoạt động ngoại kiểm. Như
vậy, quan điểm về KTNB giai đoạn này tương đối đơn giản, KTNB được coi là hoạt
động nhằm thực hiện chức năng của kiểm tra kế tốn. Kiểm tra kế tốn là một thuộc
tính cố hữu, một chức năng của kế tốn.
Khi mơi trường kinh doanh thay đổi, các hoạt động càng ngày càng phức tạp
và đa dạng đã dẫn đến đòi hỏi phải đánh giá từng loại hoạt động trên nhiều khía
cạnh khác nhau. Ngồi việc đánh giá đến tính trung thực và hợp pháp của thông tin,
xem xét và phát hiện các sai phạm, nhà quản lý cần quan tâm đến tính kinh tế, tính
hiệu quả, hiệu lực của từng hoạt động, tìm kiếm các giải pháp hoàn thiện hoạt động.
Điều này dẫn đến xu hướng chuyển hoạt động của KTNB hướng đến hoạt động
quản lý nhiều hơn đặc biệt là hoạt động KTNB đã hướng đến cả các lĩnh vực phi tài
chính.

Theo Viện các kiểm toán viên nội bộ (the IIA), tổ chức nghề nghiệp dành cho
kiểm toán viên nội bộ thành lập năm 1941 có trụ sở chính tại Hoa Kỳ và hơn
122.000 hội viên trên toàn cầu đã định nghĩa về kiểm toán nội bộ, đồng thời, bổ
sung, sửa đổi theo sự phát triển của kinh tế thị trường. Từ năm 1978 đến nay đã có 5
lần sửa đổi, lần sửa đổi gần nhất là vào tháng 10/2010, được áp dụng vào


20

ngày1/1/2011, theo đó, “kiểm tốn nội bộ là hoạt động xác nhận và tư vấn mang
tính độc lập, khách quan được thiết lập nhằm tạo ra giá trị gia tăng, nâng cao hiệu
quả hoạt động của một tổ chức. Kiểm toán nội bộ giúp cho tổ chức đạt được các
mục tiêu của mình thơng qua việc tạo ra một cách tiếp cận có hệ thống, có tính kỷ
luật để đánh giá, nâng cao hiệu lực của quy trình quản trị doanh nghiệp, quy trình
kiểm sốt và việc quản lý rủi ro”4
Như vậy, xét về chủ thể thực hiện thì KTNB do các kiểm toán viên nội bộ
trong đơn vị tiến hành. Bởi vậy, trong một tổ chức nhất định thì KTNB có chức
năng độc lập, có nhiệm vụ kiểm tra, đánh giá những rủi ro mà tổ chức có thể gặp
phải, xem xét lại sự hoàn thiện của hệ thống kiểm soát nội bộ và đảm bảo rằng hệ
thống kiểm sốt nội bộ được thực hiện có hiệu lực, hiệu quả nhằm ngăn ngừa những
rủi ro có thể xảy ra.
Từ khái niệm kiểm tốn nội bộ có thể thấy một số vấn đề sau5:
Thứ nhất, KTNB là một bộ phận đặc biệt của hệ thống kiểm soát nội bộ trong
một đơn vị. KTNB là loại hình kiểm sốt có tính độc lập, nằm ngồi quy trình
nghiệp vụ và khơng phải là một phần bổ sung hoặc thay thế cho hoạt động kiểm
sốt hằng ngày. Tính độc lập của kiểm tốn viên nội bộ là yếu tố cốt lõi.
Thứ hai, rủi ro trong một tổ chức là điểm xuất phát của các kiểm tốn viên nội
bộ. Chi phí hành chính cho chức năng kiểm tốn rất cao, vì vậy các kiểm tốn viên
thường tập trung các nguồn lực của mình vào những khu vực rủi ro lớn nhất.
Thứ ba, điều cần quan tâm hàng đầu của kiểm toán viên nội bộ là hệ thống

kiểm sốt nội bộ của đơn vị có hoạt động hiệu quả không? Thực tiễn cho thấy việc
thiết lập một hệ thống kiểm sốt nội bộ hồn hảo thường rất tốn kém nên khi đánh
giá tính thích hợp của nó, kiểm tốn viên cần phải thận trọng trong việc góp ý kiến
cho hệ thống này.
KTNB phát triển theo trình độ phát triển của quản lý và yêu cầu của người
quan tâm đến thơng tin tài chính kế tốn. Theo đó, KTNB đã hình thành loại hình
kiểm tốn khác nhau đáp ứng được yêu cầu cụ thể của từng tổ chức và phù hợp với
môi trường kinh doanh ngày càng có nhiều thay đổi. Xét theo đối tượng cụ thể của
4

IPPF (2013), Revised Standards, International Standards for the Professional Practice of Internal auditing
(Standards), tr18.
5
Nguyễn Thị Hải Liên (2014), Kiểm toán nội bộ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ quản
lý Kinh tế, Trường Đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, tr.17-18.


21

kiểm tốn, KTNB hiện đại thường thực hiện loại hình kiểm tốn sau: Kiểm tốn tài
chính, kiểm tốn hoạt động và kiểm toán tuân thủ. Nghiên cứu sự phát triển ở trên
cho thấy KTNB có sự mở rộng đối tượng từ hoạt động tài chính sang các hoạt động
phi tài chính. Điều này dẫn đến sự thay đổi đáng kể về hình thức hoạt động và nội
dung của KTNB trong một tổ chức. Hoạt động của kiểm toán viên nội bộ được
chuyển dịch một cách mạnh mẽ từ hoạt động của một nhân viên tác nghiệp thông
thường sang vị thế cao hơn là một nhân viên đ ng vai trò kiểm sốt. KTNB có sự
chuyển dịch từ chức năng kiểm tra với tính chất hỗ trợ cho hoạt động ngoại kiểm
sang chức năng đánh giá, tư vấn, và xác nhận. Sự chuyển dịch đ đã hình thành sự
khác biệt rõ nét giữa các loại hình kiểm tốn theo đối tượng cụ thể. Trước đây,
KTNB chú trọng đến kiểm toán báo cáo tài chính thì kiểm tốn nội bộ hiện đại ngày

càng chú trọng nhiều hơn đến kiểm toán hoạt động6.
1.2.2. Rủi ro trong hoạt động của các tổ chức và tầm quan trọng của kiểm
toán nội bộ đối với hoạt động của tổ chức
Theo từ điển Tiếng Việt phổ thông: “Rủi ro là điều không lành mạnh, không
tốt bất ngờ xảy ra”. Trong mọi tổ chức, rủi ro được hiểu là tập hợp của các khả
năng xấu có thể xảy ra của một sự việc nào đó cũng như hậu quả của nó đối với
hoạt động của tổ chức. Trên thực tế, có rất nhiều loại rủi ro khác nhau được xâm
nhập từ bên ngoài cũng như phát sinh bên trong tổ chức. Rủi ro thường được phân
loại vào những nhóm chính như rủi ro chiến lược, rủi ro hoạt động, rủi ro tài chính,
như: sai sót, gian lận, trộm cắp, mất tài sản, vi phạm pháp luật, mất dữ liệu, những ý
kiến kém chất lượng, thông tin quản lý không đầy đủ…
Điều này đặt ra yêu cầu phải quản lý rủi ro. Có thể coi quản lý rủi ro trong một
tổ chức là một quy trình được thiết lập bởi hội đồng quản trị, ban quản lý và các cán
bộ có liên quan áp dụng trong q trình xây dựng chiến lược hoạt động của tổ chức,
thực hiện xác định những sự vụ có khả năng xảy ra gây ảnh hưởng đến tổ chức đồng
thời quản lý rủi ro trong phạm vi cho phép nhằm đưa ra mức độ đảm bảo trong việc
đạt được mục tiêu. Quản lý rủi ro đóng vai trị quan trọng trong hoạt động của hệ
thống kiểm soát nội bộ. "Một hệ thống kiểm soát nội bộ được coi là có hiệu lực khi
yếu tố đánh giá và quản lý rủi ro được thiết lập và hoạt động có hiệu quả. Hệ thống
6

Lê Thị Ngọc Phương (2017), Kiểm toán hoạt động do kiểm toán nội bộ thực hiện tại Tập đồn Bưu chính
Viễn thơng Việt Nam, Luận án Tiến sĩ kinh tế, Trường Đại học Thương mại, tr.38


22

kiểm soát nội bộ vững mạnh sẽ đem lại cho tổ chức các lợi ích như: giảm bớt nguy
cơ rủi ro tiềm ẩn trong sản xuất kinh doanh, bảo vệ tài sản, tiền bạc, thơng tin...,
đảm bảo tính chính xác của các số liệu, đảm bảo mọi thành viên tuân thủ nội quy,

quy chế, quy trình hoạt động của tổ chức cũng như các quy định của luật pháp,
đảm bảo tổ chức hoạt động hiệu quả, sử dụng tối ưu các nguồn lực và đạt được
mục tiêu đặt ra…"7
Trên thực tế khơng có hệ thống kiểm sốt nội bộ nào được cấu trúc và vận
hành hồn hảo để có thể giảm rủi ro xuống bằng không. Một hệ thống kiểm soát nội
bộ tốt cũng chỉ giảm được rủi ro tới một mức độ nào đó. Điều này xuất phát từ
những hạn chế vốn có của hệ thống kiểm sốt nội bộ do các nguyên nhân8:
- Hệ thống kiểm soát nội bộ hữu hiệu đưa ra sự đảm bảo hợp lý nhưng khơng
tuyệt đối về việc bảo tồn tài sản, duy trì mức độ tin cậy của các thơng tin tài chính
và tuân thủ luật lệ, quy định. Sự đảm bảo hợp lý là khái niệm khẳng định rằng, cần
phải xây dựng, triển khai thực hiện hệ thống kiểm soát nội bộ để đem lại sự cân
bằng giữa rủi ro với mức độ kiểm soát cần thiết, sao cho đáp ứng được các mục tiêu
đề ra. Tuy vậy, nhà quản lý đặt yêu cầu đối với hệ thống kiểm soát nội bộ là phải
hiệu quả, tức là đồng nghĩa với chi phí cho hoạt động này phải nhỏ hơn lợi ích mà
nó mang lại.
- Xuất phát từ quan điểm hiệu quả nên hầu hết các thủ tục kiểm tra đều nhằm
vào các sai phạm dự kiến nên rất dễ bỏ qua những sai phạm đột xuất hay bất
thường.
- Sai phạm có thể xảy ra do kiểm soát viên thiếu thận trọng, sai lầm trong xét
đoán hoặc hiểu sai hướng dẫn của cấp trên.
- Sai phạm hay rủi ro có thể xảy ra do kiểm sốt viên thơng đồng với nhau
hoặc thơng đồng với các cá nhân khác trong cùng một đơn vị, hoặc thơng đồng với
bên ngồi đơn vị.
- Mỗi tổ chức hoạt động trong môi trường phát triển liên tục, do vậy rủi ro mà
tổ chức phải đối mặt cũng sẽ không ngừng thay đổi. Nếu các thủ tục kiểm sốt nội
bộ khơng cịn phù hợp với những thay đổi trong điều kiện môi trường mới của luật
7

Lê Thái Nam - Vụ KTNB Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2010), Giải pháp nâng cao chất lượng kiểm
soát, KTNB Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, tr. 7]

8
Nguyễn Thị Hải Liên (2014), Kiểm toán nội bộ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ quản
lý Kinh tế, Trường Đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, tr.14.


23

pháp, cơng nghệ, vấn đề bảo mật... thì hoạt động của hệ thống kiểm sốt nội bộ
cũng có thể trở nên kém hiệu quả hơn.
Những hạn chế này đã yêu cầu phải xây dựng hệ thống kiểm toán nội bộ - bộ
phận quan trọng của hệ thống kiểm soát nội bộ, có ý nghĩa lớn trong việc đánh giá
hiệu quả hoạt động của hệ thống kiểm soát nội bộ, cụ thể như sau:
Thứ nhất, đánh giá chất lượng của hoạt động kiểm soát nội bộ và nâng cao
hiệu quả kiểm sốt rủi ro.
Kiểm sốt nội bộ có vai trị quan trọng phát hiện và phòng ngừa rủi ro, bảo vệ
tổ chức hoạt động an toàn và hiệu quả. Tuy nhiên, để đánh giá chất lượng của hoạt
động kiểm soát nội bộ và kiểm soát tối đa các rủi ro, tổ chức phải dựa rất nhiều vào
hoạt động kiểm toán, đặc biệt là KTNB. Bao giờ cũng vậy, điểm xuất phát khởi
ngun của kiểm tốn viên nội bộ ln ln là việc đánh giá rủi ro trong tổ chức
nên KTNB có hiệu quả đồng nghĩa với việc tăng hiệu quả kiểm soát rủi ro của hệ
thống kiểm soát nội bộ trong tổ chức đó. KTNB đánh giá về tính đầy đủ, hiệu lực,
hiệu quả hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị được kiểm tốn, nhằm hồn thiện hệ
thống kiểm soát nội bộ, các biện pháp khắc phục tồn tại, nâng cao tính hiệu quả,
hiệu lực trong quản lý và sử dụng tiền và tài sản của đơn vị được kiểm tốn.
Mặt khác, KTNB có thể khơng chỉ đánh giá được những yếu kém của hệ thống
quản lý mà còn đánh giá cả các rủi ro trong và ngoài tổ chức.
Thứ hai, kiểm tra, thực hiện đánh giá và xác minh độc lập (kiểm sốt đặc biệt)
đối với thơng tin về các hoạt động diễn ra bên trong tổ chức.
Mặc dù là một bộ phận quan trọng của hệ thống kiểm soát nội bộ nhưng
KTNB thực hiện việc kiểm tra, đánh giá các thông tin về các hoạt động diễn ra bên

trong tổ chức một cách độc lập, khách quan, xác minh tính trung thực của thơng tin
dưới hình thức kiểm soát đặc biệt nhằm đem lại giá trị và cải tiến công tác quản lý
và tạo niềm tin cho những người quan tâm đến đối tượng kiểm toán. Báo cáo kết
quả KTNB vì thế giúp cho các nhà quản trị doanh nghiệp, các nhà đầu tư sử dụng
như một công cụ hỗ trợ xây dựng chiến lược hoạt động, đưa ra những quyết định
đúng đắn trong quá trình quản lý, sử dụng vốn có hiệu quả.
Thứ ba, phát hiện sớm, ngăn chặn tiêu cực, gian lận, sai sót trong quản lý và
điều hành hoạt động, nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực.


24

KTNB có thể đem lại cho tổ chức được kiểm tốn rất nhiều lợi ích. Đây là
cơng cụ giúp phát hiện và cải tiến những điểm yếu trong hệ thống quản lý, do đó
sớm ngăn chặn được những sai sót, gian lận trong đơn vị để điều hành hoạt động tốt
hơn, tăng khả năng đạt được các mục tiêu hoạt động của tổ chức.
Các thống kê trên thế giới cho thấy các tổ chức có phịng KTNB thường có
báo cáo đúng hạn, báo cáo tài chính có mức độ minh bạch và chính xác cao, khả
năng gian lận thấp và cuối cùng là hiệu quả hoạt động (sử dụng các nguồn lực về
vốn, về nhân lực…) cao hơn so với các tổ chức khơng có phịng KTNB.
Thứ tư, là cơng cụ quản lý bổ sung cho công tác ngoại kiểm.
Trong quản lý người ta có thể sử dụng rất nhiều cơng cụ để kiểm tra, đánh giá
và xác minh tính trung thực của thơng tin. Nếu kiểm tốn độc lập thực hiện kiểm
tốn báo cáo tài chính là chủ yếu thì KTNB đóng vai trị là cơng cụ quản lý bổ sung
hữu hiệu. Bởi vì, các tổ chức hiện nay đang hầu hết phải chịu một áp lực rất lớn
trong việc nhận biết được tất cả các rủi ro mà mình phải đối mặt và phải lý giải
được cách thức làm thế nào để kiểm soát được các rủi ro đó ở mức độ chấp nhận
được. Vai trị của KTNB có xu hướng chuyển dịch từ vai trị truyền thống trong hoạt
động đánh giá công tác quản lý sang các hoạt động mang tính chất tư vấn và đưa ra
các đảm bảo khách quan cho các cấp quản lý.

KTNB không bị giới hạn như kiểm toán độc lập (chủ yếu kiểm tốn báo cáo
tài chính) mà tham gia trực tiếp vào tồn bộ chu trình quản trị bao gồm chu trình
hoạt động, thủ tục kiểm sốt nội bộ, quản trị rủi ro và cả báo cáo tài chính. Do phạm
vi tham gia và tác động rộng hơn, KTNB là công cụ bổ sung đắc lực cho cơng tác
ngoại kiểm.
Ngồi vai trị đánh giá tính hiệu lực, hiệu quả của hệ thống kiểm soát nội bộ
của đơn vị, mục tiêu của kiểm tốn nội bộ cịn hướng tới những mục tiêu sau đây:
- Đảm bảo thực hiện thành công các mục tiêu hoạt động của đơn vị.
- Đánh giá tính đúng đắn, trung thực của báo cáo tài chính.
- Đảm bảo sử dụng các nguồn lực tiết kiệm và hiệu quả, an toàn tài sản.
- Đánh giá việc tuân thủ pháp luật và những quy định trong hoạt động của đơn
vị.


25

Như vậy, mục tiêu của kiểm toán nội bộ là đánh giá về hiệu quả hoạt động
kiểm soát nội bộ nhằm bảo đảm độ tin cậy của báo cáo tài chính, hiệu lực của các
hoạt động, tuân thủ pháp luật, quy định, quy trình của Ngân hàng Nhà nước, bảo
đảm an toàn tài sản.
1.2.3. Nội dung và điều kiện cần thiết để hoạt động kiểm tốn nội bộ có hiệu
quả
KTNB có 2 chức năng cơ bản là cung cấp các dịch vụ đảm bảo và cung cấp
dịch vụ tư vấn: Các dịch vụ đảm bảo là hoạt động liên quan tới việc kiểm tra, đánh
giá, xác nhận các bằng chứng mang tính khách quan của kiểm tốn viên nội bộ,
nhằm đưa ra quan điểm hoặc những kết luận mang tính độc lập đối với một quy
trình, một hệ thống nào đó. Các dịch vụ tư vấn là đưa ra những lời khuyên, được
thực hiện theo yêu cầu cụ thể của đơn vị được kiểm tốn. Tính chất và phạm vi của
dịch vụ tư vấn phụ thuộc vào sự thỏa thuận giữa kiểm tốn viên và khách hàng, góp
phần hướng dẫn nghiệp vụ và củng cố nề nếp hoạt động tài chính kế tốn. Chức

năng của KTNB được cụ thể hóa thành các nhiệm vụ dưới đây:
- Kiểm tra, đánh giá độ tin cậy, hiệu lực và hiệu quả của hệ thống kiểm sốt
nội bộ từ đó tư vấn cho quản lý.
- Kiểm tra độ tin cậy của các thông tin quản lý, thơng tin tài chính, bao gồm cả
hệ thống thông tin điện tử và giao dịch điện tử.
- Kiểm tra, đánh giá tính tuân thủ pháp luật và các quy định nội bộ.
- Kiểm tra, đánh giá tính hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý rủi ro, các
biện pháp đảm bảo an toàn tài sản và sử dụng nguồn lực.
- Kiến nghị các biện pháp sửa chữa, khắc phục sai sót, đề xuất biện pháp hồn
thiện hệ thống kiểm soát nội bộ, hệ thống quản lý rủi ro.
Trong khi thực hiện các nhiệm vụ này, kiểm toán nội bộ phải đảm bảo tuân thủ
các nguyên tắc sau:
- Tuân thủ pháp luật, chuẩn mực KTNB và các quy định của đơn vị được kiểm
tốn;
- Đảm bảo tính độc lập về chun mơn nghiệp vụ;
- Đảm bảo tính trung thực, khách quan;
- Đảm bảo tính bí mật Nhà nước và bí mật của tổ chức được kiểm tốn;


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×