Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

SO SÁNH HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI TỰ DO VIỆT NAM VÀ MỸ VỚI HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI TỰ DO VIỆT NAM VÀ EU… BẢO HỘ PHÁP LÝ TRONG CISG VÀ CHẾ TÀI VI PHẠM HỢP ĐỒNG TRONG LUẬT THƯƠNG MẠI 2005

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (80.79 KB, 8 trang )

Lớp học phần:

K43- LA002 – GĐ A210– T4
(2019)

Số thứ tự theo danh sách
lớp học phần

31171

HỌC PHẦN LTMQT1 – BÀI TIỂU LUẬN
GV phụ trách :

SO SÁNH BIỆN PHÁP BẢO HỘ PHÁP LÝ TRONG CISG VÀ CHẾ TÀI VI
PHẠM HỢP ĐỒNG TRONG LUẬT THƯƠNG MẠI 2005
Bài nghiên cứu này được hoàn thành vào ngày

BÀI NGHIÊN CỨU
1) So sánh các chế tài cụ thể trong CISG và Luật thương mại 2005
Quan hệ hợp đồng trong thương mại rất đa dạng và phức tạp. Khi hiện tượng vi
phạm hợp đồng ngày càng nhiều thì quan hệ hợp đồng thương mại là cơ sở đảm bảo
cam kết giữa các chủ thể thương mại, là sự bù đắp lại những tổn thất do hành vi
phạm của một bên về chế tài trong thương mại gây ra cho bên bị vi phạm. Chính vì
thế mà chế tài thương mại ra đời và ngày càng hoàn thiện hơn. Trong Luật thương
mại 2005 đã có nhiều tiến bộ để bắt kịp với xu hướng thương mại quốc tế như có
nhiều quy định đã được bổ sung có nét tương đồng với các Công ước mà Việt Nam
tham gia ( nổi bật là Công ước viên 1980- CISG).
CISG và Luật thương mại 2005 đều có quy định giống nhau về chế tài vi phạm gồm
có chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng, bồi thường thiệt hại và hủy hợp đồng khi
vi phạm hợp đồng.
Thứ nhất, chế tài hủy hợp đồng, trong Luật thương mại 2005 và CISG đều thống


nhất một điểm chế tài hủy hợp đồng là nghiêm khắc nhất và được áp dụng với
những vi phạm hợp đồng cơ bản. Mặc dù hai định nghĩa về vi phạm cơ bản Điều 3
khoản 13 và Điều 25 CISG không hoàn toàn giống nhau nhưng đều được hiểu -Vi
phạm cơ bản là vi phạm gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho bên bị vi phạm, làm cho
bên này không đạt được mục đích khi giao kết hợp đồng. Xử lý hậu quả của hủy
hợp đồng trong CISG và Luật thương mại 2005 giống nhau là như xử lý hợp đồng
vô hiệu. Đặc biệt trường hợp được hủy hợp đồng chỉ có trong CISG là khi bên vi
phạm khơng thực hiện nghĩa vụ trong thời hạn đã được gia hạn thêm (Khoản 1 Điều
49 và Khoản 1 Điều 64) hoặc ngay cả khi chưa thực hiện hợp đồng nếu có căn cứ
chứng minh hợp đồng sẽ bị vi phạm nghiêm trọng (Điều 72 CISG). Luật thương
mại 2005 có điểm hay mà CISG khơng có là “Phạt vi phạm hợp đồng”. Phạt vi
Trang 1/8


phạm hợp đồng là một trong những chế tài rất hữu hiệu đã được ghi nhận trong
LTM 2005 và áp dụng rộng rãi bởi giới doanh nhân Việt Nam, nhưng lại hồn tồn
khơng được chấp nhận bởi CISG.
Thứ hai, chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng, CISG và Luật thương mại 2005 quy
định về chế tài buộc thực hiện hợp đồng là chế tài cơ bản đối với bên vi phạm nghĩa
vụ hợp đồng. Điều 297 Luật thương mại 2005 và Điều 62 CISG thống nhất rằng bên
bị vi phạm lựa chọn một trong hai biện pháp: tiếp tục thực hiện nghĩa vụ hay thay
thế hàng hóa. Luật thương mại 2005 đã không chỉ ra được căn cứ để áp dụng thay
thế hàng hóa, mà cho phép bên bị vi phạm sử dụng biện pháp này trong trường hợp
hàng hóa bị vi phạm về chất lượng và họ khơng chấp nhận việc sửa chữa hàng hóa;
thậm chí bên vi phạm có thể dùng tiền để để thay thế nếu bên bị vi phạm chấp nhận.
Trong khi đó, CISG lại phân định rõ, điều kiện để bên bị vi phạm được áp dụng
biện pháp thay thế hàng hóa khi sự khơng phù hợp của hàng hóa cấu thành “vi
phạm cơ bản”, còn trong các trường hợp khác bên bị vi phạm chỉ được áp dụng biện
pháp sửa chữa hàng hóa, loại trừ khuyết tật của hàng hóa, và các trường hợp buộc
thực hiện nghĩa vụ cụ thể khác tại điều 47, 48.

Thứ ba, chế tài tạm ngừng thực hiện hợp đồng, đây như vũ khí để chống lại sự vi
phạm của một bên trong hợp đồng. Luật thương mại 2005 và CISG đều cho phép
một bên tạm ngừng việc thực hiện hợp đồng. Nhưng các căn cứ thực hiện chế tài
này lại không giống nhau: CISG trao quyền cho một bên có thể tạm ngừng thực
hiện hợp đồng nếu có dấu hiệu cho thấy bên kia sẽ không thực hiện một phần chủ
yếu nghĩa vụ của họ, cho đến khi bên kia chứng minh được ý định và khả năng thực
hiện nghĩa vụ tương ứng (Điều 71). Còn Luật Thương mại quy định hai trường hợp
tạm ngừng thực hiện hợp đồng là khi xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thỏa
thuận là điều kiện để tạm ngừng. thực hiện hợp đồng, hoặc một bên vi phạm cơ bản
nghĩa vụ hợp đồng (Điều 308, 309 LTM 2005). Như vậy theo CISG, một bên có thể
tạm ngừng thực hiện hợp đồng ngay cả trong trường hợp có vi phạm không cơ bản
miễn là chứng minh được việc áp dụng biện này là cần thiết. Cịn Luật thương mại
2005 có quy định về trường hợp đình chỉ thực hiện hợp đồng (Điều 310). Hậu quả
là các bên không tiếp tục thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng và có quyền địi lại lợi
ích do việc đã thực hiện phần nghĩa vụ của mình theo hợp đồng (Điều 311). Sự khác
biệt giữa hai chế tài là hủy hợp đồng làm cho hợp đồng mất hiệu lực từ thời điểm
giao kết, trong khi đình chỉ thực hiện hợp đồng làm cho hợp đồng chấm dứt từ thời
điểm một bên nhận được thông báo đình chỉ. CISG khơng có quy định phân biệt hai
hình thức chế tài bởi lẽ trên thực tế các giao dịch thương mại, xét theo mức độ vi
phạm và sự tương ứng của trách nhiệm hợp đồng thì đã có sự kết nối tạm ngừng
thực hiện nghĩa vụ và hủy hợp đồng.
Thư tư, trách nhiệm bồi thường thiệt hại, có tính thống nhất tương đối cao trong
nhiều văn bản pháp luật nội địa và điều ước quốc tế. Khoản 1, Điều 302 Luật
Trang 2/8


thương mại 2005 và Ðiều 74 CISG có thể thấy về cơ bản luật Việt Nam và CISG
đều quy định các thiệt hại được bồi thường bao gồm tổn thất và khoản lợi bị bỏ lỡ
mà một bên đã phải chịu do hậu quả của sự vi phạm hợp đồng của phía bên kia. Về
tính chất của thiệt hại được bồi thường, CISG nhấn mạnh đến tính có thể dự đốn

trước của thiệt hại đối với bên vi phạm, cịn pháp luật Việt Nam lại nhấn mạnh tính
“trực tiếp” và “thực tế”. Sự khác biệt này cho thấy LTM 2005 cần chú trọng tới tính
dự đốn trước (và có căn cứ để chứng minh) của thiệt hại tương lai trong u cầu
bồi thường thiệt hại để đáp địi hỏi chính đáng của bên bị vi phạm và phù hợp với
thông lệ quốc tế. Có một điều đáng lưu ý là cả LTM 2005 và CISG đều không đề
cập đến bồi thường thiệt hại đối với những tổn thất có yếu tố phi tiền tệ
2) Bình luận cá nhân
Luật thương mai 2005 điều chỉnh các quan hệ thương mại nội địa, CISG điều chỉnh
các quan hệ thương mại quốc tế giữa các nước thành viên mà Việt Nam là thành
viên của Công ước viên 1980 nên những quy định Luật thương mại 2005 và CISG
có nhiều tương đồng. Bên canh đó, Luật thương mại Việt Nam chịu sự ảnh hưởng
lớn của trường phái pháp luật Civil law còn CISG chịu ảnh hưởng của Common law
nên có nhiều quan điểm rất khác nhau về chế tài vi phạm hợp đồng này khiến cho
việc hài hịa hóa là khơng thể thực hiện được.
Từ những phân tích, so sánh về các chế tài vi phạm trong hợp đồng của CISG và
Luật thương mại 2005, ta thấy rằng quy định về bồi thường thiệt hại, tạm ngừng
thực hiện hợp đồng và hủy hợp đồng trong Luật thương mại 2005 và CISG có nhiều
sự tương đồng và có những nguyên tắc cơ bản phù hợp với nhau.
Từ những so sánh ta thấy được trong mỗi quy định pháp luật điều có những hạn chế
riêng. Trước mắt,các doanh nghiệp khi ký kết hợp đồng thương mại cần cần xem
xét chọn luật phù hợp để áp dụng giúp tránh được những tranh chấp khơng đáng có
ảnh hưởng đến quyền lợi của mình. Về lâu dài cần hồn thiện những quy định pháp
luật để thuận tiện cho việc mua bán của các doanh nghiệp.
3) Tài liêu tham khảo
(1) So sánh các quy định về trách nhiệm do vi phạm hợp đồng trong Luật Thương
mại Việt Nam 2005 và Công ước Viên 1980, Phan Thị Thanh Thủy - Khoa Luật,
Đại học Quốc gia Hà Nội, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Luật học, Tập 30, Số 3
(2014) 50-60
(2) TS. Phan Thị Thanh Thủy, Bàn về mối quan hệ giữa phạt vi phạm và bồi
thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng trong pháp luật Việt Nam, Tạp chí Khoa học

Kiểm sát, số 2/2014, tr.27.
(3) Phạt vi phạm là chế tài được dụng phổ biến nhất ở Việt Nam và được ghi nhận
như biện pháp được chọn đầu tiên để xử lý đối với vi phạm hợp đồng. Xem Điều
292 LTM 2005.

Trang 3/8


SO SÁNH HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI TỰ DO VIỆT
NAM VÀ MỸ VỚI HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI TỰ DO VIỆT
NAM VÀ EU…
Nội dung bài nghiên cứu

Trong bối cảnh hội nhập Việt Nam đã vươn xa ra thế giới để
bắt đầu hội nhập. Bước đánh giá sự khởi đầu này là việc Việt nam đã
tham gia các sân chơi mang tính quốc tế như tham gia các hiệp định
thương mại tự do: Hiệp định thương mại tự do Việt Nam và Hoa Kỳ
(BTA) và Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA).
Các nội dung mà hiệp định thương mại tự do đề cập tới vấn
đề tự do hóa trong lĩnh vực dịch vụ và đầu tư, các biện pháp hạn chế
định lượng, các rào cản kỹ thuật, quyền sở hữu trí tuệ, cạnh tranh, mua
sắm chính phủ, lao động, bảo hiểm và môi trường… Về loại FTA của hai
hiệp định trên đối với Hiệp định BTA là hiệp định song phương giữa
Việt Nam và Hoa kỳ, còn hiệp định EVFTA là hiệp định đa phương giưã
Việt Nam và các nước EU. Cùng là hiệp định thương mại tự do nhưng
phạm vi quan hệ hai hiệp định khác nhau nên cũng có nhiều khác biệt
giữa hai hiệp định trên. Bên cạnh các điểm tương đồng, cũng có những
khác biệt cơ bản như sau:

1) Về cơ chế giải quyết tranh chấp

Đối với Hiệp định BTA, khuyến khích các bên sử dụng trọng
tài để giải quyết các tranh chấp phát sinh từ các giao dịch thương mại
được ký kết giữa các công dân và công ty của hai bên. Mỗi bên bảo đảm
Trang 4/8


tại lãnh thổ của mình có một cơ chế hiệu quả để công nhận và thi hành
các phán quyết trọng tài.
Đối với EVFTA, khuyến khích các bên lựa chọn một trong các hình thức
giải quyết tranh chấp thân thiện như: thương lượng, trung gian hòa giải
hoặc tham vấn. Cơ chế giải quyết tranh chấp này áp dụng đối với hầu hết
các Chương của Hiệp định (trừ Các cam kết trong Mục X -Thuế chống
bán phá giá, Mục XX -Tự vệ tồn cầu của Chương 3 Các biện pháp
phịng vệ thương mại; Các cam kết trong Mục 1 -Hành vi hạn chế cạnh
tranh, trong Điều x.5 Mục 2 -Trợ cấp của Chương 10 -Chính sách cạnh
tranh; Chương 13 Thương mại và Phát triển bền vững) và được đánh
giá trong một số mặt là nhanh và hiệu quả hơn cơ chế giải quyết tranh
chấp trong WTO. Là phương thức giải quyết tranh chấp cuối cùng, khi
các bên không giải quyết được tranh chấp bằng các hình thức khác; bao
gồm các quy trình và thời hạn cố định để giải quyết tranh chấp, theo đó
hai Bên trước tiên phải tham vấn, nếu tham vấn khơng đạt được kết quả
thì một trong hai Bên có thể yêu cầu thiết lập một Ban hội thẩm bao gồm
các chuyên gia pháp lý độc lập. EVFTA cũng dự liệu một cơ chế khác
mềm dẻo hơn: cơ chế trung gian, để xử lý các vấn đề liên quan tới các
biện pháp có ảnh hưởng tiêu cực đến đầu tư và thương mại song phương.

2) Sở hữu trí tuệ
Đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ của hai hiệp định trên
gồm: quyền tác giả và quyền liên quan; nhãn hiệu hàng hóa; kiểu dáng
cơng nghiệp; sáng chế; bí mật kinh doanh ( trong EVFTA quy định là bí

mật kinh doanh và giống cây trồng)

Chỉ dẫn địa lý là điểm khác biệt giữa EVFTA và BTA, chỉ
được quy định EVFTA không quy định trong BTA. Hiện nay EU và Việt
Nam hiện đều bảo hộ chỉ dẫn địa lý theo một cơ chế riêng, độc lập với
các đối tượng sở hữu trí tuệ khác, BTA lại bảo hộ chỉ dẫn địa lý như là
Trang 5/8


một loại của nhãn hiệu, theo cơ chế bảo hộ chung của nhãn hiệu. Chỉ dẫn
địa lý chỉ áp dụng đối với 4 nhóm sản phẩm: Rượu vang - Đồ uống có
cồn - Nơng sản - Thực phẩm.

3)Về cam kết mở cửa thị trường
Hiệp định thương mại tự do BTA và EVFTA, các bên trong
hiệp định đồng ý cắt giảm thuế quan và các hàng rào phi thuế quan đối
với thương mại hàng hoá. Các hạn ngạch, giấy phép và kiểm soát xuất
khẩu và nhập khẩu sẽ được loại bỏ.
Cam kết về hàng rào phi thuế quan, BTA và EVFTA đều có
cam kết về hàng rào kỷ thuật, các biện pháp vệ sinh dịch tễ
(SPS),...nhằm không tạo ra sự trở ngại đối với thương mại quốc tế.
Rào cản kỹ thuật đối với thương mại (TBT): Đối với BTA,
hai bên cam kết sẽ không soạn thảo, ban hành hoặc áp dụng những quy
định và tiêu chuẩn kỹ thuật. Còn EVFTA hai Bên thỏa thuận tăng cường
thực hiện các quy tắc của Hiệp định về các Rào cản kỹ thuật đối với
thương mại của WTO (Hiệp định TBT), trong đó Việt Nam cam kết tăng
cường sử dụng các tiêu chuẩn quốc tế trong ban hành các quy định về
TBT của mình.
Các biện pháp vệ sinh dịch tễ (SPS): Mọi biện pháp vệ sinh
hoặc vệ sinh thực vật không trái với các quy định của GATT 1994 chỉ

được áp dụng ở mức cần thiết để bảo vệ cuộc sống hoặc sức khoẻ của
con người, động vật hoặc thực vật, được dựa trên cơ sở các nguyên lý
khoa học.

4) Bình luận
Hai hiệp định thương mại tự do mà Việt Nam ký kết trên có
nhiều điểm tương đồng và khác biệt lớn. Đối với EVFTA là hiệp định đa
phương (ký kết với các nước trong khối liên minh EU) nên thời gian
Trang 6/8


đàm phán cho hiệp định trên 9 năm lâu hơn hiệp định BTA là hiệp định
song phương nên chỉ mất 4 năm đàm phán liên tục. Mỗi hiệp định đều có
những ưu điểm riêng như EVFTA là một FTA thế hệ mới toàn diện hơn
so với BTA cũng như các FTA mà Việt Nam đã ký kết trước. EVFTA có
những điểm nổi bật như mức cắt giảm thuế quan, quy tắc xuất xứ, SBS,
TBT, thuận lợi hóa thương mại và hải quan, dịch vụ đầu tư, mua sắm
công, cạnh tranh và DNNN. Sau khi ký kết BTA giữa Việt Nam với Hoa
Kỳ (2001) và gia nhập WTO, quá trình cải cách thể chế và kinh tế của
Việt Nam đã được thúc đẩy mạnh mẽ. Sau khi tham gia WTO, Việt Nam
đã ký kết một loạt các FTA với nhiều đối tác khác nhau, trong và ngồi
khn khổ ASEAN, gần đây nhất là TPP và EVFTA. Mặc dù các quy
định về các điều khoản này thường hơi mơ hồ và khó thi hành, nó vẫn
tạo cơ hội cùng hợp tác để giảm bớt các rào cản thương mại và chi phí
giao dịch liên quan.

Tài liệu tham khảo
1) Hiệp định EVFTA
2) Hiệp định BTA
3) Giới thiệu về Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ,

TRẦN THANH HẢI, Bài giảng trên Đài PT-TH Hà Nội
4) Tóm tắt sơ lược hiệp định thương mại tự do Việt Nam Liên Minh Châu Âu (EVFTA), trung tâm WTO và Hội nhận phịng
thương mại và cơng nghiệp Việt Nam (VCCI).
5) Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU: tác động thể
chế và điều chỉnh chính sách ở Việt Nam, chủ biên Nguyễn Đình Cung,
Trần Toàn Thắng, NXB Thế giới.s

Trang 7/8


Trang 8/8



×