Tải bản đầy đủ (.pdf) (39 trang)

Công bằng xã hội và công bằng phân phối ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (485.44 KB, 39 trang )

VIỆN NGHIÊN CỨU QUẢN LÝ KINH TẾ TRUNG ƯƠNG
TRUNG TÂM THÔNG TIN – TƯ LIỆU

----------------------------------------------------------------------------CÔNG BẰNG XÃ HỘI VÀ CÔNG BẰNG PHÂN PHỐI
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
MỤC LỤC
A. MỘT SỐ NHẬN THỨC VÀ KINH NGHIỆM CHUNG ..............................2
1. Khái quát về công bằng xã hội ......................................................................2
2. Khái quát về công bằng phân phối ...............................................................4
3. Thực hiện công bằng xã hội...........................................................................5
3.1. Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ......................5
3.2. Thực hiện nguyên tắc “Chỉ thực hiện được công bằng xã hội nếu biết
thực hiện bất công” ...........................................................................................7
3.3. Các yếu tố và các chính sách để đạt được công bằng xã hội.....................8
4. Kinh nghiệm của một số nước về thực hiện công bằng xã hội................ 13
4.1. Kinh nghiệm của Thụy Điển................................................................... 13
4.2. Kinh nghiệm của Trung Quốc................................................................. 17
B. CÔNG BẰNG CƠ HỘI VÀ CÔNG BẰNG PHÂN PHỐI Ở VIỆT NAM...... 20
1. Thực trạng công bằng cơ hội và công bằng phân phối ở Việt Nam............... 20
1.1. Những thành tựu ..................................................................................... 20
1.2. Những yếu kém và khuyết điểm ............................................................. 24
2. Nguyên nhân của những yếu kém, khuyết điểm ...................................... 29
3. Quan điểm và giải pháp thực hiện công bằng xã hội trong những năm
tới....................................................................................................................... 31
3.1. Quan điểm gắn tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội...................... 31
3.2. Các giải pháp nhằm đảm bảo thực hiện công bằng xã hội ..................... 33
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................. 38
CIEM - Trung tâm Thông tin – Tư liệu

1



A. MỘT SỐ NHẬN THỨC VÀ KINH NGHIỆM CHUNG
1. Khái quát về công bằng xã hội
Công bằng xã hội là một khái niệm có tính lịch sử cụ thể, nó có nội hàm
khác nhau trong những hồn cảnh, điều kiện khác nhau. Hiểu một cách khái quát,
“Công bằng xã hội nói tới một xã hội đạt được sự cơng bằng ở mọi khía cạnh của
đời sống xã hội. Đó là một xã hội có thể cho phép mọi cá nhân và nhóm xã hội
được đối xử cơng bằng và hưởng thụ cơng bằng những lợi ích của xã hội” (Từ
điển Wikipedia)1. Các thuật ngữ Đối xử công bằng và hưởng thụ cơng bằng cũng
có thể được diễn giải theo các nghĩa khác nhau ở những hồn cảnh, điều kiện
khác nhau.
Cơng bằng xã hội cũng có thể được hiểu là một giá trị cơ bản định hướng
cho việc giải quyết mối quan hệ giữa người với người trong tất cả các lĩnh vực
của đời sống xã hội theo nguyên tắc: cống hiến về vật chất và tinh thần ngang
nhau cho sự phát triển xã hội thì được hưởng thụ ngang nhau những giá trị vật
chất và tinh thần do xã hội tạo ra, phù hợp với khả năng hiện thực của xã hội. Đó
là một giá trị cơ bản trong các quan hệ xã hội như: quan hệ giữa mức độ lao động
và mức độ thu nhập; quan hệ giữa quyền sở hữu tư liệu sản xuất và quyền định
đoạt sự sản xuất và phân phối; quan hệ giữa mức độ phạm tội và mức độ bị trừng
phạt; quan hệ giữa các thành viên của xã hội với hoàn cảnh kinh tế, mức độ phát
triển trí lực khác nhau và cơ hội tham gia vào quá trình giáo dục, khám chữa
bệnh, hưởng thụ các sản phẩm văn hóa, nghệ thuật, thể dục - thể thao...
Thừa nhận nội dung cơ bản nhất của công bằng xã hội là xử lý hợp lý nhất
quan hệ giữa quyền lợi và nghĩa vụ trong điều kiện, hoàn cảnh nhất định, các nhà
kinh tế học thường sử dụng hai khái niệm về công bằng, gồm: (1) Công bằng theo
chiều ngang, tức là đối xử như nhau với người có đóng góp như nhau; và (2)
Cơng bằng theo chiều dọc, tức là đối xử khác nhau với người có khác biệt bẩm
sinh hoặc có điều kiện xã hội khác nhau (do khả năng và kỹ năng lao động khác
nhau, cường độ làm việc khác nhau, sự khác nhau về nghề nghiệp, sự khác nhau
về giáo dục và đào tạo, thừa kế và chiếm hữu tài sản khác nhau, gánh chịu rủi ro

khác nhau…).
Như vậy, có thể hiểu bản chất của công bằng xã hội là sự tương xứng (sự
phù hợp) giữa một loạt các khía cạnh khác nhau trong quan hệ giữa cái mà cá
nhân, nhóm xã hội làm cho tập thể, cho xã hội hoặc cho cá nhân, nhóm xã hội
1

Có tại: />CIEM - Trung tâm Thông tin – Tư liệu

2


khác với cái mà họ được hưởng từ tập thể, xã hội hay từ cá nhân, nhóm xã hội
khác. Cái mà cá nhân làm có thể là điều tốt lành cho xã hội (lao động, cống hiến,
nghĩa vụ, công lao...) hoặc cũng có thể là điều xấu, có hại cho xã hội (thí dụ, tội
phạm...). Cịn cái mà cá nhân được hưởng có thể là tiền cơng, phần thưởng, quyền
lợi, địa vị xã hội, sự đánh giá, ghi công của xã hội... và cũng có thể là sự trừng
phạt bằng những hình thức từ thấp đến cao.
Ngày nay, cơng bằng xã hội được xem xét ở nhiều phương diện như: kinh
tế, chính trị, pháp quyền, đạo đức, văn hóa, xã hội... Trong đó, yếu tố có tính nền
tảng là cơng bằng về phương diện kinh tế, tức là sự phù hợp tương xứng giữa lao
động, đóng góp của cá nhân, nhóm xã hội vào q trình sản xuất với sự hưởng thụ
những kết quả của quá trình sản xuất ấy. Một biểu hiện cụ thể của công bằng xã
hội về khía cạnh kinh tế là cơng bằng phân phối (chủ yếu về thu nhập và phúc lợi
xã hội). Khía cạnh chính trị, pháp quyền của cơng bằng xã hội là sự tương xứng,
chẳng hạn, giữa công lao của những người đi chiến đấu, hy sinh cho sự nghiệp
giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ tổ quốc với sự đánh giá, ghi công, đền
đáp của xã hội, hoặc giữa sự thiệt hại mà cá nhân gây ra cho xã hội với những
hình phạt của xã hội đối với họ. Cơng bằng xã hội cịn được xem xét ở nhiều khía
cạnh khác của đời sống xã hội, cụ thể như:
- Công bằng về thể lực nhờ hệ thống y tế có khả năng bảo đảm cho sức

khỏe của mọi người dân được chăm sóc và bảo vệ; quan tâm đến việc chăm sóc
sức khỏe cho các đối tượng chính sách, các nhóm người yếu thế, dễ bị tổn thương
trong xã hội; thực hiện bảo hiểm y tế đến toàn dân.
- Công bằng về học vấn và kỹ năng nghề nghiệp nhờ hệ thống giáo dục và
đào tạo có khả năng bảo đảm cho mọi người dân ai cũng được học hành; người
nghèo được nhà nước và cộng đồng giúp đỡ có cơ hội học tập; phát triển các
trường phổ thơng nội trú dành cho con em đồng bào dân tộc thiểu số; có chính
sách hỗ trợ đặc biệt đối với những học sinh có năng khiếu nhưng hồn cảnh sống
khó khăn được theo học ở bậc cao…
- Công bằng về quyền lao động, bao gồm cơng bằng về quyền có việc làm
và quyền tự do lựa chọn việc làm, đảm bảo rằng mọi người lao động đều được
tuyển dụng, đều được làm việc để sinh sống và cống hiến. Công bằng về quyền
lao động cũng bao hàm công bằng về triển vọng và khả năng thăng tiến trong lập
nghiệp và hành nghiệp của người lao động. Theo đó, người lao động được làm
việc trong môi trường tốt, được tạo điều kiện thuận lợi để phát triển nghề nghiệp,
CIEM - Trung tâm Thông tin – Tư liệu

3


có cạnh tranh, thi đua lành mạnh, và được thưởng công xứng đáng về những
thành quả đạt được trong lao động.
- Công bằng về các quyền con người và quyền cơng dân, có nghĩa là đảm
bảo sự cơng bằng trong việc thực hiện các quyền cơ bản của con người như:
quyền tự do tư tưởng; các quyền tự do chính trị (bao gồm quyền đại diện tại các
thể chế dân chủ, quyền tự do ngôn luận và tự do báo chí, quyền tự do hội họp);
quyền tự do lập hội; và các quyền tự do khác theo quy định của pháp luật. Cơng
bằng về các quyền con người cũng có nghĩa là bảo đảm sự công bằng cho mọi
người dân trong việc tham gia các quyết định của nhà nước và kiểm tra công việc
của nhà nước.

- Công bằng trong tiếp xúc và giao lưu với thế giới. Trong bối cảnh tồn
cầu hóa, người dân của mỗi quốc gia ngày càng có nhiều cơ hội quan hệ, giao lưu
với thế giới về cơng việc hoặc đời sống. Có thể nói rằng đây là những cơ hội quan
trọng để phát triển bản thân. Vì vậy, mỗi người dân hoặc nhóm xã hội cũng cần
được đảm bảo sự tiếp cận công bằng với những cơ hội này.
Như đã nêu trên đây, công bằng xã hội là một khái niệm có tính lịch sử cụ
thể, bên cạnh đó nó cịn là một khái niệm và một thực tiễn có sự phát triển. Lịch
sử lồi người là lịch sử phấn đấu khơng mệt mỏi cho sự công bằng và đi đến công
bằng xã hội từ cấp thấp đến cấp cao, từ cho số ít đến cho số nhiều và cho mọi
người. Một xã hội nhân đạo và công bằng phải là một xã hội tạo ra cho mọi người
có những cơ may để họ tự phát triển, đem lại hạnh phúc cho bản thân họ và có
những đóng góp cho xã hội. Xã hội không thể lo đời sống một cách tỉ mỉ, cụ thể
cho từng thành viên, nhưng xã hội có thể tạo điều kiện để mọi người tự lo cho
cuộc sống của mình.
2. Khái qt về cơng bằng phân phối
Như đã nêu ở trên, cơng bằng phân phối là một hình thức biểu hiện cụ thể
của cơng bằng xã hội về khía cạnh kinh tế. Công bằng trong phân phối là sự phân
phối một cách hợp lý, phản ánh đúng tương quan giữa cống hiến và hưởng thụ,
giữa trách nhiệm và lợi ích. Tuy nhiên, đi vào cụ thể, quan niệm trên đây khơng
dễ thống nhất. Nó phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội, vào truyền
thống văn hoá cũng như quan niệm đạo đức ở mỗi nước. Trong xã hội ngày nay,
công bằng phân phối thường được đề cập đến ở những khía cạnh chủ yếu sau đây:
- Thứ nhất, công bằng trong phân phối thu nhập, cụ thể là phân phối tiền
lương, tiền công, lợi tức, lợi nhuận và tiền thuê các tài sản khác… Trong nền kinh
tế thị trường, nguyên tắc phân phối thường được áp dụng là phân phối theo yếu tố
CIEM - Trung tâm Thông tin – Tư liệu

4



lao động và các yếu tố sản xuất dựa trên cơ chế thị trường có sự điều tiết thích
đáng của nhà nước. Với nguyên tắc phân phối như vậy sẽ đảm bảo công bằng
kinh tế trong phân phối: “làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít”; và “đóng góp
như nhau, hưởng thụ như nhau”.
- Thứ hai, công bằng về hưởng thụ các phúc lợi xã hội, các dịch vụ công
(nhất là các dịch vụ cơ bản như y tế, giáo dục, thơng tin, văn hóa, giải trí...). Sự
cơng bằng cần được đảm bảo giữa các nhóm người trong xã hội, đặc biệt là giữa
nhóm người giàu và nhóm người nghèo, nhóm người yếu thế và dễ bị tổn thương,
bởi lẽ thực tế ở nhiều nước nhóm người giàu thường được hưởng thụ phúc lợi xã
hội nhiều hơn đáng kể so với các nhóm xã hội khác.
- Thứ ba, cơng bằng qua phân phối lại, từ vùng giàu đến vùng nghèo, từ
người giàu đến người nghèo, chú ý đặc biệt đến các nhóm yếu thế và dễ bị tổn
thương trong xã hội. Ở đây, vai trò điều tiết của nhà nước là đặc biệt quan trọng,
nhằm giảm bớt sự phân hoá giàu nghèo, duy trì khoảng cách thu nhập trong giới
hạn hợp lý, đảm bảo hài hoà mối quan hệ phát triển kinh tế và cơng bằng xã hội.
Nhà nước có thể sử dụng nhiều công cụ để thực hiện vai trị điều tiết của mình
như: thuế, ngân sách nhà nước, tín dụng nhà nước và hệ thống an sinh xã hội.
Tóm lại, phân phối là một khâu của q trình tái sản xuất, đồng thời là một
mặt quan trọng của quan hệ sản xuất trong một chế độ nhất định. Nó thể hiện ở
mối quan hệ lợi ích giữa các chủ thể phân phối. Việc thực hiện công bằng trong
phân phối là một trong những yếu tố cơ bản để có cơng bằng xã hội. Hay nói cách
khác, cơng bằng phân phối là yếu tố nền tảng của công bằng xã hội.
3. Thực hiện cơng bằng xã hội
Có thể nói rằng, cơng bằng là một khát vọng mang tính bản năng của con
người. Từ xa xưa nhân loại đã tìm kiếm một xã hội công bằng nhưng tới nay vẫn
chưa đạt tới. Ngày nay những cuộc đấu tranh của các thành viên xã hội nhằm đạt
tới sự công bằng vẫn thường xuyên diễn ra ở hầu hết các quốc gia và chắc cịn
tiếp diễn. Vì vậy, câu hỏi “Làm thế nào để thực hiện công bằng xã hội?” vẫn luôn
đặc biệt được quan tâm đối với hầu hết các quốc gia cũng như cộng đồng thế giới.
Phần dưới đây sẽ đề cập tới một số nội dung xoay quanh việc trả lời câu hỏi trên.

3.1. Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội
Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội là hai yếu tố cơ bản của sự phát
triển, đồng thời đó cũng là hai trong số những mục tiêu căn bản mà hầu hết các
quốc gia trên thế giới đã, đang và sẽ tiếp tục theo đuổi. Tuy nhiên, trên phương
CIEM - Trung tâm Thông tin – Tư liệu

5


diện lý thuyết cũng như trong thực tế, tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội
dường như là hai yếu tố mâu thuẫn nhau trong quá trình phát triển. Điều này từ
lâu đã đặt ra một vấn đề rất lớn, thu hút sự quan tâm của đông đảo các giới khác
nhau, liên quan đến việc xử lý mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng
xã hội. Mặc dù trong các điều kiện lịch sử cụ thể khác nhau, có sự ưu tiên khác
nhau cho tăng trưởng kinh tế hoặc công bằng xã hội, song một cách giải quyết đạt
được sự đồng thuận rộng khắp là cần kết hợp tăng trưởng kinh tế với công bằng
xã hội trong từng bước phát triển. Ngày nay, nhiều quốc gia trên thế giới đang nỗ
lực theo đuổi thực hiện cách giải quyết này, dựa trên những lý lẽ có cơ sở khoa
học và thực tiễn.
Trước hết, tăng trưởng kinh tế có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, liên quan đến
sự thịnh suy của một quốc gia. Vì vậy, chính phủ nước nào cũng ưu tiên các
nguồn lực của mình cho tăng trưởng kinh tế, coi đó là cái gốc, là nền tảng để giải
quyết mọi vấn đề khác. Trên cơ sở giải quyết được vấn đề tăng trưởng kinh tế,
nghĩa là tạo ra được nhiều của cải vật chất, người ta mới có thể giải quyết hàng
loạt vấn đề khác, đặc biệt là các vấn đề xã hội, như nâng cao mức sống của người
dân, tăng cường phúc lợi xã hội, giảm bớt tình trạng thất nghiệp, đảm bảo cho
mọi người có cơng ăn việc làm ổn định… Tuy nhiên, không phải lúc nào tăng
trưởng kinh tế cũng đồng hành hay là dẫn đến sự phát triển. Thậm chí có nơi, có
lúc, tăng trưởng kinh tế cịn đem đến thảm hoạ cho con người, nếu kết quả của
tăng trưởng kinh tế được sử dụng cho những mục đích phi nhân đạo, không trong

sáng. Một khi trong xã hội mà người ta chỉ duy nhất quan tâm đến tăng trưởng
kinh tế và bằng mọi giá để thúc đẩy sự tăng trưởng ấy thì điều đó có thể chứa
đựng những nguy cơ khó lường. Do vậy, để đạt được sự phát triển thì phải ln
có sự kết hợp tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội.
Giữa tăng trưởng kinh tế với cơng bằng xã hội có mối quan hệ tương tác
đặc biệt. Tăng trưởng kinh tế đem lại những giá trị vật chất to lớn chính là điều
kiện để thực hiện cơng bằng xã hội. Nếu khơng có những điều kiện kinh tế tối
thiểu thì cơng bằng xã hội rất khó được thực hiện. Kinh tế càng phát triển, càng
có điều kiện thuận lợi hơn để hoạch định và thực thi các chính sách cơng bằng xã
hội. Ngược lại, cơng bằng xã hội có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế.
Nhờ khả năng có thể tạo ra một xã hội hoà hợp, lành mạnh và ổn định – một xã
hội mà mỗi cố gắng, mỗi đóng góp đều được đánh giá một cách thoả đáng, cơng
bằng xã hội có thể tạo ra một xã hội hài hoà giữa những lợi ích cá nhân và cộng
đồng. Cơng bằng xã hội, trên thực tế, vừa là điều kiện quan trọng để tạo ra ổn
định xã hội, vừa là một động lực để tăng trưởng kinh tế. Chính vì vậy, cần phải
CIEM - Trung tâm Thông tin – Tư liệu

6


dựa vào công bằng xã hội để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Cũng có người nói một
cách hình ảnh rằng: để tạo ra kết quả là sự phát triển, thì tăng trưởng kinh tế cần
được coi là động lực vật chất, cịn cơng bằng xã hội được xác định như là một yếu
tố tinh thần có nghĩa đặc biệt.
Có một vấn đề cần lưu ý là không phải mọi nền kinh tế phát triển đến trình
độ cao đều tồn tại song song với một trình độ tương ứng về công bằng xã hội.
Nếu nghiên cứu riêng sự tăng trưởng kinh tế thì phải thừa nhận rằng, nền kinh tế
thế giới ngày càng tăng trưởng cao, của cải được sản sinh ra ngày càng nhiều,
nhưng đáng buồn là công bằng xã hội lại dường như bị vi phạm ngày càng
nghiêm trọng hơn. Loài người sản xuất nhiều của cải hơn, nhưng lồi người sống

với nhau dường như bất cơng hơn và vơ đạo đức hơn. Hơn 20 nước giàu có, trong
đó có những nước cực kỳ giàu có như Mỹ, Nhật Bản, vẫn không giải quyết được
công bằng xã hội.
Như vậy, vấn đề công bằng xã hội được đặt ra ở tất cả các nền kinh tế có
trình độ phát triển khác nhau, trong đó vấn đề kết hợp tăng trưởng kinh tế với cơng
bằng xã hội càng có ý nghĩa trọng yếu đối với các nước đang phát triển. Có thể
thấy rằng, ngay khi điều kiện của một nền kinh tế cịn khó khăn, người ta vẫn có
thể đặt ra và giải quyết tốt vấn đề công bằng xã hội. Nếu trong tư duy chính trị,
người ta ln coi công bằng xã hội là một động lực của sự phát triển thì mơ hình xã
hội chắc chắn sẽ phải được thiết kế theo một phương án công bằng để xã hội có
khả năng đạt được sự phát triển bền vững.
3.2. Thực hiện nguyên tắc “Chỉ thực hiện được công bằng xã hội nếu
biết thực hiện bất công”
Trong tiếng Việt, khi nói tới cơng bằng, người ta thường liên tưởng đến "sự
bằng nhau”, tức là sự bình đẳng. Thực ra, cơng bằng và bình đẳng tuy có liên
quan với nhau, nhưng đó là hai khái niệm và hai thực tiễn khác nhau. Cơng bằng
có khía cạnh bình đẳng, đồng thời có khía cạnh bất bình đẳng. Bình đẳng về
quyền và nghĩa vụ cơng dân trước pháp luật, bình đẳng về nhân phẩm, chủng tộc,
giới tính, tín ngưỡng tơn giáo chống lại mọi sự kỳ thị, phân biệt đối xử là những
yêu cầu của công bằng xã hội. Tuy nhiên, sự bất bình đẳng về hưởng thụ do sự
khơng ngang nhau về phẩm chất và năng lực trong lao động, cống hiến cũng là
một yêu cầu của công bằng xã hội.
Khi nêu ra một số dự báo về chủ nghĩa xã hội, C.Mác đã đề cập trong Phê
phán cương lĩnh Gôta rằng công bằng xã hội được thể hiện trong nguyên tắc
phân phối theo lao động. C.Mác chỉ ra rằng, trong xã hội xã hội chủ nghĩa, sau khi
CIEM - Trung tâm Thông tin – Tư liệu

7



đã khấu trừ đi những khoản cần thiết để duy trì sản xuất, tái sản xuất cũng như để
duy trì đời sống của cộng đồng, toàn bộ số sản phẩm của xã hội còn lại sẽ được
phân phối theo nguyên tắc: mỗi người sản xuất sẽ được nhận trở lại từ xã hội một
số lượng sản phẩm tiêu dùng trị giá ngang với số lượng lao động mà anh ta đã cung
cấp cho xã hội, sau khi đã khấu trừ số lao động của anh ta trong các quỹ xã hội2.
Đây là một nguyên tắc phân phối rất công bằng, bởi ở đây, tất cả những người sản
xuất đều có quyền ngang nhau đối với việc tham dự vào quỹ tiêu dùng của xã hội
khi làm một công việc ngang nhau. Mặc dù vậy, C.Mác cũng đã chỉ rõ rằng, trong
điều kiện của chủ nghĩa xã hội, sự phân phối cơng bằng đó chẳng những chưa loại
trừ được, mà vẫn cịn hàm chứa trong nó sự chấp nhận một tình trạng bất bình
đẳng nhất định giữa các thành viên trong xã hội, bởi “với một công việc ngang
nhau và do đó, với một phần tham dự như nhau vào quỹ tiêu dùng của xã hội thì
trên thực tế, người này vẫn lĩnh nhiều hơn người kia, người này vẫn giàu hơn
người kia...”3. Đó vừa là ưu việt, vừa là thiếu sót của nguyên tắc phân phối theo
lao động – một thiếu sót mà theo C.Mác là khơng thể tránh khỏi trong giai đoạn
đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa4.
Trong bối cảnh kinh tế - xã hội hiện nay, trở lại với hai khái niệm về công
bằng xã hội được sử dụng trong kinh tế học là công bằng theo chiều ngang và
cơng bằng theo chiều dọc, thì có thể thấy rõ rằng khơng có sự đối xử như nhau
đối với những người có đóng góp khác nhau hoặc những người có điều kiện xã
hội khác nhau. Điều đó có nghĩa rằng trong xã hội khơng có sự “cào bằng”, mà
cịn tồn tại sự bất bình đẳng nhất định giữa các cá nhân hoặc các nhóm xã hội.
Thực tế cũng cho thấy chưa ở đâu có sự cơng bằng tuyệt đối. Vấn đề đặt ra là
phải thực hiện và duy trì sự bất bình đẳng như thế nào cho hợp lý. Hay nói cách
khác, cần phải xác định một cách chuẩn xác “sự tương xứng” (sự phù hợp) trong
quan hệ giữa cái mà cá nhân, nhóm xã hội làm cho tập thể, cho xã hội hoặc cho cá
nhân, nhóm xã hội khác với cái mà họ được hưởng từ tập thể, xã hội hay từ cá
nhân, nhóm xã hội khác.
Nhà nước và cả xã hội đặc biệt chăm sóc các cháu nhỏ, giúp đỡ các cụ già,
dành ưu tiên thoả đáng cho người nghèo, người dễ bị tổn thương nạn nhân của

chiến tranh và thiên tai...., đó là biết thực hiện bất cơng để có cơng bằng xã hội.
3.3. Các yếu tố và các chính sách để đạt được cơng bằng xã hội
2

Xem: C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, t.19. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.30-34.
Xem: C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.19, tr.35.
4
Xem: C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., tr. 34-36.
8
CIEM - Trung tâm Thông tin – Tư liệu
3


3.3.1. Nhân tố cố kết và đồng thuận xã hội
Hiểu một cách khái quát đồng thuận xã hội là sự đồng tình, nhất trí của đa
số thành viên trong xã hội về một hoặc một số vấn đề nào đó trên cơ sở những
điểm tương đồng, trong lúc vẫn thừa nhận những điểm khác biệt với điều kiện
không làm ảnh hưởng đến mục tiêu chung. Đồng thuận xã hội là điều kiện khách
quan cho sự tồn tại của mỗi một hệ thống chính trị - xã hội. Đó là một phương
thức tập hợp lực lượng có tính khả thi nhất trong đời sống chính trị - xã hội của xã
hội hiện đại. Sự tập hợp lực lượng đó dựa trên những tiêu chí mà các giai cấp,
tầng lớp, các lực lượng xã hội dù có lợi ích khác nhau nhưng vẫn có thể gắn kết ở
mức độ nhất định và vẫn bảo tồn được những đặc thù riêng của mình, không biến
thành kẻ khác.
Trong đời sống xã hội, mỗi con người là một cá thể riêng tư, không ai
giống ai. Chính cái “khơng ai giống ai” đó của mỗi cá thể làm nên sự phong phú,
đa dạng, mn hình mn vẻ của xã hội. Đó cũng là tiền đề của phát triển, vì đa
dạng hóa cấu trúc là một nhân tố thúc đẩy sự tiến hóa. Cho nên, tạo ra sự đồng
thuận xã hội không phải là làm nghèo đi sự đa dạng, phong phú và khác biệt của
từng thành viên làm nên cộng đồng xã hội, mà ngược lại, nếu mỗi một thành viên,

mỗi cá nhân, mỗi nhóm xã hội đều góp được vào cộng đồng những nét bản sắc
riêng của mình thì sự đồng thuận xã hội được tạo ra nhờ sự liên kết những lợi ích
khác nhau mới thực sự bền vững. Đây là yếu tố không thể thiếu để đạt được công
bằng xã hội.
Muốn tạo ra cố kết và đồng thuận xã hội, chính sách quan trọng hàng đầu
cần thực hiện là chính sách đại đồn kết dân tộc nhằm xây dựng khối đại đoàn kết
dân tộc trên cơ sở đảm bảo những lợi ích tối cao của dân tộc. Trong xã hội, dân
tộc và quốc tế có rất nhiều mối quan hệ lợi ích chồng chéo: cá nhân và tập thể, gia
đình và xã hội, bộ phận và toàn thể, giai cấp và dân tộc, quốc gia và quốc tế…; vì
vậy, chính sách đại đồn kết dân tộc cần phải tập trung giải quyết đúng đắn những
mối quan hệ lợi ích này. Theo đó, cần xây dựng một xã hội dân chủ với một nhà
nước pháp quyền hoạt động có hiệu quả; xây dựng một nền kinh tế thị trường dựa
trên các quyền tự do về kinh tế; xây dựng một nền văn hóa cởi mở nhằm tạo động
lực cho sự phát triển; đặc biệt quan tâm đến các vấn đề như dân tộc và đồn kết
các dân tộc, tinh thần tự tơn dân tộc, tín ngưỡng và tơn giáo,…
3.3.2. Nhân tố phát triển kinh tế
Phát triển kinh tế là một trong những mục tiêu quan trọng hàng đầu mà các
quốc gia, ở mọi thời kỳ, luôn luôn theo đuổi. Phát triển kinh tế bao gồm sự tổng
CIEM - Trung tâm Thông tin – Tư liệu

9


hợp của nhiều nhân tố như: tăng trưởng kinh tế cao, thu nhập quốc dân tính trên
đầu người tăng liên tục, mức sống của đại đa số dân cư được cải thiện, thành quả
của tăng trưởng được phân phối một cách công bằng… Với ý nghĩa như trên, phát
triển kinh tế, trong đó tăng trưởng kinh tế là cốt lõi, kết hợp với công bằng xã hội
sẽ tạo ra sự phát triển tổng thể của quốc gia, của xã hội.
Như đã nêu trên đây, giữa tăng trưởng kinh tế và cơng bằng xã hội có mối
quan hệ tương tác đặc biệt. Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội được ví như

“đơi cánh” của sự phát triển. Nếu thiếu một trong hai yếu tố thì khơng thể có sự
phát triển bền vững. Báo cáo Phát triển Thế giới năm 1992 đã khẳng định: "Phát
triển là nâng cao phúc lợi của nhân dân. Nâng cao tiêu chuẩn sống và cải tiến
giáo dục, sức khỏe và bình đẳng về cơ hội là tất cả những thành phần cơ bản của
phát triển kinh tế. Bảo đảm các quyền chính trị và cơng dân là một mục tiêu phát
triển rộng hơn. Tăng trưởng kinh tế là một cách cơ bản để có thể có được sự phát
triển, nhưng trong bản thân nó là một đại diện rất khơng tồn vẹn của tiến bộ".
Do tầm quan trọng của mối quan hệ nêu trên, chính sách kết hợp giữa tăng trưởng
kinh tế với công bằng xã hội luôn luôn dành được sự ưu tiên của các chính phủ
cũng như cộng đồng quốc tế5.
Chính sách kết hợp tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội có những nội
dung khác nhau trong các hồn cảnh cụ thể khác nhau. Nhưng nhìn chung, chính
sách này thường tập trung vào một số nội dung chủ yếu sau đây:
- Thứ nhất, tạo điều kiện thuận lợi cho mọi chủ thể kinh tế, mọi tầng lớp
dân cư có cơ hội tiếp cận một cách công bằng với các yếu tố “đầu vào” của quá
trình sản xuất, kinh doanh; đồng thời được phân phối công bằng những kết quả
“đầu ra” của q trình ấy dựa trên ngun tắc phân phối thích hợp. Thí dụ, đối với
Việt Nam đang trong q trình phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN
hiện nay, thực hiện nguyên tắc phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu
5

Đối nghịch với tăng trưởng kinh tế gắn với cơng bằng xã hội, Chương trình phát triển Liên
hợp quốc (UNDP) đã đưa ra cảnh báo về 5 kiểu tăng trưởng cần phải tránh, gồm: (1) Tăng
trưởng không việc làm, là tăng trưởng kinh tế nhưng không mở rộng cơ hội tạo thêm việc làm
hoặc phải làm việc nhiều giờ và có thu nhập thấp; (2) Tăng trưởng không lương tâm, là tăng
trưởng mà thành quả của nó chủ yếu đem lại lợi ích cho người giàu, cịn người nghèo được
hưởng ít, thậm chí số người nghèo còn tăng thêm, khoảng cách giàu nghèo gia tăng; (3)Tăng
trưởng khơng có tiếng nói, tức là tăng trưởng kinh tế không kèm theo mở rộng nền dân chủ hay
là việc trao thêm quyền lực, chặn đứng tiếng nói khác và dập tắt những đòi hỏi được tham dự
nhiều hơn về xã hội và kinh tế; (4) Tăng trưởng không gốc rễ, là sự tăng trưởng đã khiến cho

nền văn hoá của con người trở nên khô héo; và (5) Tăng trưởng không tương lai, là tăng trưởng
mà thế hệ hiện nay phung phí những nguồn lực mà các thế hệ trong tương lai cần đến.
10
CIEM - Trung tâm Thông tin – Tư liệu


quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác
vào q trình sản xuất, kinh doanh.
- Thứ hai, thực hiện điều tiết thu nhập giữa những chủ thể tham gia vào quá
trình sản xuất, kinh doanh sao cho đảm bảo sự hài hòa về thu nhập giữa các chủ
thể này (thơng qua chính sách tiền lương, tiền công, v.v.). Đồng thời, cần thực
hiện chính sách phân phối lại thơng qua các sắc thuế để tạo ra nguồn thu cho ngân
sách nhà nước và phân bổ hợp lý các khoản chi từ ngân sách này cho đầu tư phát
triển và cho tiêu dùng.
- Thứ ba, có quy hoạch và kế hoạch cụ thể để cân đối hợp lý mức đầu tư
cho các vùng lãnh thổ khác nhau. Việc dành mức đầu tư cao hơn cho các vùng
kinh tế động lực là rất cần thiết nhằm tạo ra những "đầu tàu" kinh tế, song cũng
cần chú ý đầu tư thích đáng cho các vùng khác, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng
khó khăn, nhằm giảm dần khoảng cách về trình độ phát triển giữa các vùng này,
từng bước khắc phục tình trạng "bất cơng tự nhiên" và bất công do lịch sử để lại,
giữ vững ổn định chính trị - xã hội, bảo đảm sự phát triển bền vững.
- Thứ tư, thực hiện có hiệu quả các chính sách xã hội (xem phần 3.3.4).
- Thứ năm, quan tâm thực hiện một số nội dung quan trọng khác như: xóa
đói giảm nghèo, tạo việc làm cho người lao động; hạn chế tình trạng thu nhập bất
hợp lý, xử lý nghiêm minh các trường hợp thu nhập bất hợp pháp do tham nhũng,
ăn cắp của công, buôn lậu, lừa đảo, đầu cơ trên thương trường…
3.3.3. Nhân tố văn hóa, nhân văn, nhân ái6
Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội trong xã hội hiện đại không thể
tách rời phát triển văn hóa. Bởi lẽ, ở bất kỳ xã hội nào, văn hóa có liên quan đến
mọi lĩnh vực trong đời sống xã hội. Văn hóa như chất keo kết dính các mối quan

hệ kinh tế, chính trị - xã hội và ngược lại kinh tế, chính trị - xã hội có tác động trở
lại đối với văn hóa. Trong mối quan hệ ấy, kinh tế là nền tảng vật chất của xã hội;
chính trị là khoa học, nghệ thuật xây dựng, phát triển và quản lý đất nước; cịn
văn hóa - vốn mang bản chất nhân đạo, nhân văn và trí tuệ, cho nên nó là nền tảng
tinh thần, nguồn năng lượng và động lực mạnh mẽ của phát triển kinh tế - xã hội.
Hội nghị liên Chính phủ về chính sách văn hóa vì sự phát triển do UNESCO tổ
6

Văn hóa hiểu theo nghĩa rộng là sự hiểu biết, trí tuệ và tình cảm, năng lực và phẩm chất của
con người, do con người sáng tạo ra trong suốt chiều dài lịch sử. Nó thể hiện trình độ phát triển
của mỗi dân tộc, mỗi thời đại và là sự kết tinh những giá trị cao quý, tốt đẹp nhất trong các mối
quan hệ ứng xử giữa con người với con người, với xã hội và với tự nhiên. Cùng với thời gian,
văn hóa đã làm nên bản sắc riêng cho từng quốc gia, dân tộc.
11
CIEM - Trung tâm Thông tin – Tư liệu


chức tại Xtốckhôm (Thụy Điển), từ ngày 30/3-02/4/1998, đã khẳng định: “Sự
sáng tạo văn hóa là động lực tiến bộ của lồi người, sự đa dạng của văn hóa là
kho tàng quý báu nhất của nhân loại và là một yếu tố cần thiết của sự phát triển...
Sự phát triển của xã hội chính là sự phát triển của văn hóa, và sự thăng hoa của
văn hóa là đỉnh cao nhất của sự phát triển”. Vì lẽ đó, văn hóa, nhân văn, nhân ái
là nhân tố không thể thiếu của một xã hội phát triển, công bằng, văn minh.
Để văn hóa thực sự thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã
hội, trong lực lượng sản xuất, trong từng cá nhân có tri thức, trí tuệ, kỹ năng hoạt
động, trong trình độ và năng lực tổ chức nhà nước, trong doanh nghiệp,… chính
sách văn hóa đóng vai trị đặc biệt quan trọng. Chính sách phải gắn văn hóa với
các hoạt động kinh tế, khai thác tiềm năng kinh tế, tài chính hỗ trợ cho phát triển
văn hóa, đồng thời bảo đảm u cầu chính trị, tư tưởng của hoạt động văn hóa,
giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Chính sách văn hóa cần bảo đảm cho văn hóa thể

hiện rõ trong các hoạt động kinh tế, đồng thời thúc đẩy các hoạt động kinh tế tạo
điều kiện nhiều hơn cho sự nghiệp phát triển văn hóa. Chính sách văn hố cần
khuyến khích tính sáng tạo trong mọi loại hình văn hố, tạo điều kiện dễ dàng cho
việc tiếp cận và thực hiện các hoạt động văn hố cho tất cả cơng dân, khơng phân
biệt dân tộc, chủng tộc, giới tính, tuổi tác hay sự khuyết tật về thể xác và lý trí,
làm phong phú thêm bản sắc văn hố và sự gắn bó với nhau của từng cá nhân và
cả cộng đồng. Chính sách văn hố cần nhằm tới mục đích tăng cường sự hội nhập
xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống của tất cả mọi thành viên trong xã hội
mà khơng có sự phân biệt đối xử. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc
tế, sự đối thoại giữa các nền văn hoá cần phải được coi như một mục tiêu cơ bản
của các chính sách văn hố và của các cơ quan văn hoá cả ở tầm quốc gia và quốc
tế; sự tự do thể hiện trên phạm vi toàn cầu là điều kiện thiết yếu cho sự tương tác
này.
3.3.4. Nhân tố xã hội
Nhân tố xã hội có hàm nghĩa rộng và là nhân tố không thể thiếu khi đề cập
đến các vấn đề phát triển. Bản thân công bằng xã hội cũng thuộc nhân tố xã hội.
Để đạt được công bằng xã hội, mỗi quốc gia phải giải quyết hàng loạt vấn đề xã
hội như: giáo dục, y tế, dân số, việc làm, xóa đói giảm nghèo, an sinh xã hội, tệ
nạn xã hội, tình trạng bị gạt ra bên lề xã hội…; trong đó, an sinh xã hội7 được coi
7

Theo khái niệm của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO): “An sinh xã hội là sự bảo vệ của xã hội
đối với các thành viên của mình thông qua một loạt biện pháp công cộng, nhằm chống lại
những khó khăn về kinh tế và xã hội do bị ngừng hoặc giảm thu nhập, gây ra bởi ốm đau, thai
12
CIEM - Trung tâm Thông tin – Tư liệu


là vấn đề có ý nghĩa quan trọng hàng đầu. Ngày nay, các quốc gia cũng như cộng
đồng thế giới đặc biệt quan tâm đến việc thiết lập hệ thống an sinh xã hội có độ

bao phủ rộng, đảm bảo cho mọi người dân đều được bảo vệ. Việc thực hiện có
hiệu quả các chính sách xã hội sẽ góp phần bảo đảm thực hiện tốt an sinh xã hội.
Thực hiện chính sách xã hội trong nền kinh tế thị trường không phải là bao
cấp, ban ơn hoặc cào bằng, bình quân mà trước hết phải phân phối hợp lý, lấy
phân phối theo lao động và hiệu quả kinh tế làm ngun tắc chủ yếu. Đi đơi với
nó là phân phối tư liệu sản xuất, tạo công ăn việc làm, chăm lo y tế, giáo dục,
chăm sóc giúp đỡ những người dễ bị tổn thương, nhóm yếu thế trong xã hội.
Riêng về an sinh xã hội, do các đối tượng được hưởng an sinh xã hội thường rất
đa dạng, do đó hệ thống chính sách an sinh xã hội cần được mở rộng nhiều tầng
nấc để có thể bao phủ hết những đối tượng này, bao gồm những chính sách chủ
yếu sau đây:
(1) Chính sách ưu đãi xã hội nhằm bảo đảm mức sống ít nhất trên trung
bình cho những người có cơng với nước.
(2) Chính sách bảo hiểm xã hội nhằm huy động sự tích góp một phần thu
nhập của những người lao động lúc bình thường để dành chi tiêu cho những lúc
gặp khó khăn (thất nghiệp, bệnh tật, tuổi già...).
(3) Chính sách trợ cấp xã hội để trợ giúp những người yếu thế và dễ bị tổn
thương như người tàn tật, người già cô đơn, trẻ em mồ cơi lang thang cơ nhỡ...
(4) Chính sách cứu tế xã hội để cưu mang những người bị thiệt hại nặng do
thiên tai, địch họa hoặc rủi ro trong cuộc sống.
(5) Chính sách tương trợ xã hội nhằm phát huy truyền thống tương thân
tương ái, "lá lành đùm lá rách" trong cộng đồng để giúp nhau vượt qua khó khăn,
xóa đói giảm nghèo, cải thiện đời sống.
Trong nền kinh tế thị trường hiện đại, nhà nước không phải là chủ thể duy
nhất thực hiện chính sách xã hội. Bên cạnh nhà nước, chính sách xã hội cần được
xã hội hóa để thu hút sự tham gia của nhiều chủ thể xã hội khác nhau, huy động
các nguồn lực đa dạng trong xã hội nhằm nâng cao hiệu quả thực thi chính sách.
4. Kinh nghiệm của một số nước về thực hiện công bằng xã hội
4.1. Kinh nghiệm của Thụy Điển
sản, tai nạn lao động, thất nghiệp, thương tật, tuổi già và chết; đồng thời đảm bảo các chăm

sóc y tế và trợ cấp cho các gia đình đơng con”.
13
CIEM - Trung tâm Thông tin – Tư liệu


Vương quốc Thuỵ Điển nằm ở đông nam bán đảo Scanđinavi thuộc Bắc
Âu. Vào năm 1889, Đảng Dân chủ xã hội Thuỵ Điển thành lập, Vương quốc này
còn là một trong những nước lạc hậu nhất châu Âu, người ta gọi là nước của cướp
biển, phần lớn dân vốn là cướp biển và tội phạm bị các nước Tây Âu đày đến đây
cùng các hậu duệ của họ. Kinh tế Thụy Điển ngày ấy còn lạc hậu rất nhiều so với
nước Nga hồi Cách mạng Tháng Mười năm 1917. Từ năm 1920, khi Đảng Xã hội
Dân chủ xã hội (DCXH) Thuỵ Điển bắt đầu nắm chính quyền cho tới nay (tuy có
một số thời kỳ gián đoạn, nhưng Đảng này vẫn nắm quyền lãnh đạo đất nước lâu
hơn cả), Đảng này đã xây dựng Thuỵ Điển từ một nước lạc hậu trở thành một
nước có nền kinh tế phát triển và xã hội công bằng hàng đầu thế giới. Để đạt được
thành tựu ấy, từ lâu Thụy Điển đã thực hiện một chế độ phân phối tương đối công
bằng và một hệ thống an sinh xã hội hết sức hào phóng.
Nguyên tắc phân phối thực hành tại Thụy Điển trong nhiều thập kỷ qua tập
trung vào việc đảm bảo vừa có lợi cho việc huy động, phát huy đầy đủ tính tích
cực về mọi mặt của người dân, và nâng cao năng suất lao động, vừa không để
xuất hiện chênh lệch phân phối quá lớn. Các biện pháp chủ yếu được Thụy Điển
thực hiện là: trong lần phân phối đầu tiên phải kiên trì nguyên tắc ưu tiên hiệu
suất, nghĩa là người làm nhiều, cống hiến nhiều thì phải được phân phối nhiều,
ngược lại thì chỉ được phân phối ít; nhưng khi tái phân phối thì phải có sự điều
tiết hợp lý, sao cho mức hơn kém trong phân phối cuối cùng không quá lớn. Bởi
thế, cho tới nay ở Thụy Điển, sự chênh lệch về thu nhập thực tế của tuyệt đại đa
số dân chúng là không quá lớn. Thí dụ, lương của người lãnh đạo cao nhất trong
chính phủ so với lương của cơng chức nói chung, trước khi nộp thuế chênh lệch
có thể tới gấp 4-5 lần, nhưng sau khi nộp thuế, tỷ lệ chênh lệch chỉ cịn bằng 2-3
lần. Điều đặc biệt là, ngồi lương ra, họ khơng có bất kỳ phụ cấp cấp bậc và phụ

cấp chức vụ nào khác, cho nên tỷ lệ chênh lệch nói trên là rất nhỏ. Tại Thụy Điển,
cơ bản đã thanh toán xong cái gọi là sự cách biệt giữa thành thị với nông thôn,
giữa công nhân với nông dân, giữa lao động trí óc với lao động chân tay.
Về an sinh xã hội, có lẽ Thụy Điển là nước có chế độ phúc lợi hào phóng
nhất thế giới. Ngoài bốn loại bảo hiểm lớn được pháp luật quy định (bao gồm:
bảo hiểm hưu trí dưỡng lão, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, và bảo hiểm tai
nạn lao động), cịn có nhiều loại hình phúc lợi xã hội khác, nhiều đến mức người
ta hình dung Thụy Điển là nước mà người dân "từ khi lọt lòng đến khi chết" đều
được hưởng phúc lợi. Có thể kể ra một số loại hình phúc lợi xã hội tiêu biểu như:
(1) Chế độ dưỡng lão: người lao động về hưu được định kỳ lĩnh lương hưu
đủ sống, người già yếu khơng tự lo liệu cuộc sống được thì có thể vào ở trong
CIEM - Trung tâm Thông tin – Tư liệu

14


viện dưỡng lão của nhà nước, được hưởng sự chăm sóc y tế miễn phí, điều kiện
sống tại đây tương đương với khách sạn 3 sao.
(2) Chế độ bảo hiểm thất nghiệp: nếu người lao động thất nghiệp, họ được
định kỳ lĩnh tiền cứu tế thất nghiệp, được các trung tâm giới thiệu việc làm của
nhà nước miễn phí giới thiệu việc làm trong phạm vi toàn quốc; nếu nơi làm việc
mới cách xa chỗ ở hiện nay, nhà nước có thể giúp một phần kinh phí dọn nhà.
(3) Chế độ giáo dục: không những tất cả mọi người đều được đi học không
mất tiền suốt đời mà luật pháp còn quy định, từ nhà trẻ cho đến bậc trung học,
nếu trong lớp có một học sinh người nước ngồi, thì nhà trường phải bố trí một
giáo viên biết tiếng mẹ đẻ của em đó (dĩ nhiên đều là giáo viên kiêm nhiệm), mỗi
tháng phải lên lớp một số giờ nhất định bằng tiếng mẹ đẻ cho em này. Ở bậc đại
học, từ lúc vào học cho đến lúc tốt nghiệp, tuy có quy ước số năm học nhất định
nhưng pháp luật quy định, nếu học sinh nào tốt nghiệp rồi mà chưa tìm được cơng
việc thích hợp và khơng muốn rời nhà trường thì có thể tiếp tục học tập miễn phí.

(4) Chế độ sinh đẻ: phụ nữ sinh con được nghỉ đẻ 18 tháng có lương (12
tháng đầu hưởng 100% lương, 6 tháng cuối hưởng 90%). Nếu đến tháng thứ 18
lại có thai, sẽ tiếp tục được nghỉ tiếp hưởng 90% lương cho đến khi đứa trẻ ra đời
lại được hưởng chế độ nghỉ đẻ 18 tháng. Ngoài ra, nếu người vợ làm công việc
tương đối quan trọng không thể hoặc không muốn nghỉ ở nhà quá lâu như vậy, thì
hai vợ chồng có thể bàn bạc để chồng có thể nghỉ thay vợ.
(5) Chế độ nhà tù: người bị giam giữ hoặc tội phạm đang lĩnh án được nhà
nước ni ăn ở khơng mất tiền, ngồi ra, mỗi tháng còn được lĩnh một khoản tiền
mặt trợ cấp tuy không lớn nhưng cũng không phải là nhỏ lắm.
Để đảm bảo nguồn lực thực hiện những phúc lợi nêu trên, hệ thống an sinh
xã hội của Thụy Điển chủ yếu dựa vào thuế và sự đóng góp, và nền tảng này được
hỗ trợ tích cực bởi sự tăng trưởng kinh tế liên tục và việc làm đầy đủ của đất nước
(thất nghiệp chỉ dưới 4%). Tuy nhiên, vào những năm 90 của thế kỷ trước, hệ
thống an sinh xã hội ít nhiều bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng tài chính và thất
nghiệp, do vậy Chính phủ Thụy Điển đã tiến hành những cải cách để phù hợp với
tình hình mới. Năm 1999, Chính phủ Thụy Điển đã thực hiện các chiến lược hiện
đại hoá an sinh xã hội với 4 mục tiêu cơ bản, trong đó có mục tiêu quan trọng là:
“Tạo việc làm để nâng cao thu nhập, sau đó việc làm sẽ mang lại thu nhập an
sinh”. Biện pháp này của Thụy Điển được đánh giá là tích cực, nó khơng chỉ
mang lại trách nhiệm về tài chính và tổ chức cho hệ thống an sinh xã hội, mà cịn
mang lại những lợi ích cho hệ thống chăm sóc sức khỏe, ốm đau, bệnh tật…
CIEM - Trung tâm Thông tin – Tư liệu

15


Công bằng xã hội ở Thụy Điển cũng thể hiện rõ trong nhiều quy định pháp
luật có tác dụng hạn chế hữu hiệu sự nảy sinh các hiện tượng bất cơng xã hội. Thí
dụ, trước đây pháp luật quy định: trừ Quốc vương ra, bất cứ ai, kể cả Thủ tướng,
khi ra ngồi đều khơng được mang theo nhân viên bảo vệ. Chỉ từ sau khi Thủ

tướng kiêm Chủ tịch đảng DCXH Ơ-lơp Pan-mơ đã bị ám sát vào cuối năm 19888,
Thụy Điển mới sửa đổi luật, quy định Thủ tướng khi ra ngồi cũng có thể mang
theo nhân viên bảo vệ. Luật pháp Thụy Điển cũng quy định: trong cả nước, chỉ
một số rất ít cấp lãnh đạo như Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại
giao, Bộ trưởng Quốc phịng mới được nhà nước cấp ơ tơ cơng vụ, cịn tất cả các
quan chức khác chỉ được đi lại bằng các phương tiện giao thông công cộng hoặc
xe tư của mình. Quy định trên khơng chỉ giảm rõ rệt biên chế nhân viên cơ quan
nhà nước và chi phí, mà cịn ngăn chặn được tình trạng lợi dụng xe công làm việc
tư, cũng như các tác phong khơng lành mạnh khác. Pháp luật cịn quy định rõ:
trong cơng việc giao thiệp với khách nước ngồi, người lãnh đạo ở cấp nào thì
được nhận quà tặng trị giá bao nhiêu. Nếu được tặng món quà có giá trị cao hơn
mức quy định, thì người nhận q khơng được mang về nhà mà phải để ở phòng
làm việc, đến khi mãn nhiệm nếu muốn mang món quà đó về nhà thì phải được
người mới đương nhiệm đồng ý. Ngồi ra, sự giám sát công khai của công chúng
ở Thụy Điển cũng là một biện pháp hạn chế mạnh mẽ sự phát sinh và lan tràn các
hiện tượng bất công xã hội.
Nhờ những chế độ, chính sách nêu trên, đời sống cơ bản của mỗi người dân
Thụy Điển trong bất kỳ tình huống nào đều có sự bảo đảm cần thiết. Vì thế bộ
mặt xã hội nói chung là tốt đẹp, cuộc sống yên bình, trật tự, nền nếp. Tuy nhiên,
sự việc nào cũng có tính hai mặt của nó. Chế độ phúc lợi xã hội cao ở Thụy Điển
dựa vào chế độ thu thuế cao. Do thu thuế cao nên thu nhập tài chính nhà nước của
Thụy Điển chiếm gần 60% GDP, mức cao nhất thế giới, nghĩa là gần 3/5 của cải
toàn xã hội bị nhà nước tập trung vào tay mình, tỷ lệ để lại cho các doanh nghiệp
và người dân quá nhỏ, ảnh hưởng tới tính tích cực của doanh nghiệp và người lao
động. Đặc biệt là thuế suất luỹ tiến của thuế thu nhập, bậc cao nhất từng dùng
thuế suất trên 80% (hiện nay vẫn trên 70%), nghĩa là gần hết số tiền mà người lao
động có thu nhập cao( nghĩa là làm việc giỏi) kiếm được lại khơng được hưởng.
Điều đó dẫn đến trường hợp khi doanh nghiệp hoặc đơn vị cần hoàn thành một
8


Hơm đó, sau giờ làm việc, ơng Pan-mơ cùng vợ đi tầu điện ngầm đến xem phim ở một rạp
chiếu bóng trong khu phố đơng vui nhất thủ đơ Xtốckhơm. Xem phim xong, hai người ra về,
khi đang đi bộ trên đường phố, sắp đến một ga tầu điện ngầm thì ơng Pan-mơ bị một kẻ lạ mặt
bắn chết.
16
CIEM - Trung tâm Thông tin – Tư liệu


cơng việc cần kíp thì ngồi 8 giờ làm việc ra, người lao động nói chung đều
khơng muốn làm ngồi giờ, vì thu nhập làm thêm mình chẳng được hưởng bao
nhiêu. Bên cạnh đó, chế độ phúc lợi cao rất dễ bị một số người lợi dụng kiếm
chác những khoản lợi ích họ khơng đáng được hưởng, thí dụ như cố gắng sinh
nhiều con để được hưởng trợ cấp thai sản… Những hạn chế này đang đặt ra
khơng ít vấn đề khiến Chính phủ Thụy Điển phải chú trọng giải quyết nhằm tiếp
tục cải cách hệ thống an sinh xã hội của mình.
4.2. Kinh nghiệm của Trung Quốc
Trung Quốc bắt đầu thực hiện cải cách, mở cửa từ năm 1978 và đang ra sức
xây dựng nền kinh tế thị trường XHCN. Trong hơn 30 năm cải cách và mở cửa,
Trung Quốc không ngừng theo đuổi mục tiêu công bằng xã hội gắn với sự phát
triển của sức sản xuất và hoàn thiện chế độ xã hội. Điều này đã được thể hiện
trong nhiều văn kiện quan trọng của Đảng và Nhà nước Trung Quốc, và từng
bước được hiện thực hóa.
Ngay từ khi bắt đầu cải cách và mở cửa, Trung Quốc tập trung vào nhiệm
vụ trung tâm là phát triển kinh tế, tạo ra nhiều của cải cho xã hội, và coi đây là
tiền đề để giải quyết các vấn đề xã hội và công bằng xã hội. Trung Quốc đã xác
định con đường đi lên CNXH của mình. Báo cáo Chính trị Đại hội XII ĐCS
Trung Quốc (1982) nêu: “Xã hội XHCN của chúng ta hiện nay vẫn ở trong giai
đoạn phát triển ban đầu”. Hội nghị Trung ương 3 khóa XII (1984) đã thơng qua
Quyết định về cải cách thể chế kinh tế, trong đó chỉ rõ: “Xã hội XHCN phải bảo
đảm từng bước nâng cao mức sống vật chất và văn hóa cho các thành viên xã hội,

đạt được mục tiêu cùng giàu có. Song, cùng giàu có khơng tương đương hoặc
khơng thể bình qn hồn tồn, quyết khơng thể tương đương hay là giàu có lên
với tốc độ như nhau trong cùng một thời gian của tất cả các thành viên xã hội…,
chỉ cho phép và khuyến khích một số vùng, một số doanh nghiệp, một số người
dựa vào lao động cần cù giàu có lên trước, như thế mới có tác dụng thu hút và
khuyến khích nhiều người, lơi kéo ngày càng nhiều người giàu có lên như các đợt
sóng”.
Đại hội XIII ĐCS Trung Quốc (1987) đã luận trình một cách hệ thống về
“Giai đoạn đầu của CNXH”, trong đó nhấn mạnh: “Chế độ kinh tế XHCN lấy chế
độ công hữu về tư liệu sản xuất và phân phối theo lao động làm chủ thể”. Đại hội
XIII cũng nhấn mạnh: “Chính sách phân phối của chúng ta vừa phải có lợi cho
các doanh nghiệp giỏi kinh doanh và các cá nhân chăm chỉ lao động giàu có lên,
mở rộng khoảng cách thu nhập một cách hợp lý, vừa phải phòng chống chênh
CIEM - Trung tâm Thông tin – Tư liệu

17


lệch giàu nghèo, kiên trì phương hướng cùng giàu có, dưới tiền đề thúc đẩy nâng
cao hiệu quả thể hiện cơng bằng xã hội”.
Hội nghị Trung ương 3 khóa XIV (1993) thông qua Quyết định về một số
vấn đề xây dựng thể chế kinh tế thị trường XHCN, trong đó chỉ rõ: “Lấy chế độ
công hữu làm chủ thể, nhiều thành phần kinh tế khác cùng phát triển…, xây dựng
chế độ phân phối thu nhập lấy phân phối theo lao động làm chính, ưu tiên hiệu
quả, quan tâm tới cơng bằng, khuyến khích một số vùng, một số người giàu có lên
trước, đi con đường cùng giàu có”.
Đại hội XV ĐCS Trung Quốc (1997) đã nhấn mạnh phải kiện toàn chế độ
dân chủ, tăng cường pháp chế và xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN. Báo cáo
Chính trị của Đại hội nêu rõ: “Cải cách thể chế kinh tế đi vào chiều sâu và sự
phát triển xuyên thế kỷ của cơng cuộc hiện đại hóa của Trung Quốc địi hỏi

chúng ta phải đẩy mạnh cải cách thể chế chính trị dưới tiền đề kiên trì bốn
nguyên tắc cơ bản: mở rộng dân chủ XHCN; kiện toàn pháp chế XHCN; quản lý
đất nước bằng pháp luật; và xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN”.
Đại hội XVI ĐCS Trung Quốc (2002) xác định tới năm 2020 hoàn thành
mục tiêu xây dựng toàn diện xã hội khá giả. Quyết định của Trung ương ĐCS
Trung Quốc về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường XHCN đưa ra “5 tính tốn
tổng thể”, gồm: “Thống nhất quy hoạch phát triển giữa thành thị và nông thôn,
giữa các vùng miền, giữa kinh tế và xã hội, giữa con người với tự nhiên, giữa
phát triển trong nước và mở cửa đối ngoại”. “5 tính tốn tổng thể” chính là
phương châm chỉ đạo đẩy mạnh cải cách mở cửa, hồn thiện thể chế kinh tế thị
trường XHCN, góp phần thúc đẩy xây dựng công bằng xã hội.
Đến Đại hội XVII ĐCS Trung Quốc (2007), “5 tính tốn tổng thể” nêu trên
đã được phát triển thành “10 tính tốn tổng thể”, trong đó bổ sung thêm “5 tính
tốn tổng thể” mới gồm: “Thống nhất quy hoạch phát triển giữa Trung ương với
địa phương, giữa lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể, giữa lợi ích trước mắt và lợi
ích lâu dài, giữa lợi ích cục bộ và lợi ích tổng thể, giữa đại cục trong nước và
quốc tế”. Có thể nói, “10 tính tốn tổng thể” đóng vai trị quan trọng trong thực
hiện cơng bằng xã hội ở Trung Quốc, là chủ trương lớn nhằm phối hợp giữa chính
sách kinh tế với chính sách xã hội, phối hợp phát triển vùng miền, giải quyết lợi
ích cá nhân và lợi ích tập thể…
Cụ thể hóa những chủ trương lớn nêu trên, Trung Quốc đã thực hiện nhiều
chính sách, biện pháp nhằm vừa đạt được phát triển kinh tế vừa có cơng bằng xã
hội. Về chế độ phân phối, Trung Quốc lấy phân phối theo lao động làm chủ thể,
CIEM - Trung tâm Thông tin – Tư liệu

18


các phương thức phân phối khác cùng tồn tại, kiên trì phân phối theo mức độ
tham dự của các yếu tố sản xuất. Ra sức nâng cao mức thu nhập của những người

thu nhập thấp, từng bước tăng tỷ trọng những người có thu nhập trung bình, điều
tiết có hiệu quả thu nhập quá cao, tăng cường quản lý giám sát đối với kết quả
phân phối thu nhập. Trên cơ sở phát triển kinh tế, từng bước nâng cao mức bảo
đảm cuộc sống thấp nhất và mức lương tối thiểu, giải quyết nghiêm túc vấn đề
khó khăn về nhà ở, y tế và học hành của con em thuộc tầng lớp thu nhập thấp nhất.
Xây dựng chế độ lương công chức quy phạm và thể chế quản lý lương. Hoàn
thiện quy chế phân phối thu nhập và cơ chế giám sát các đơn vị sự nghiệp, doanh
nghiệp nhà nước.
Về an sinh xã hội, Trung Quốc tiến hành xây dựng hệ thống an sinh xã hội
thích ứng với trình độ phát triển kinh tế, xác định hợp lý tiêu chuẩn và phương
thức bảo đảm. Hoàn thiện chế độ bảo hiểm dưỡng lão cơ bản cho công nhân
thành thị, bảo hiểm y tế, thất nghiệp, thương vong, thai sản… Tăng cường đầu tư
tài chính cho an sinh xã hội, huy động bằng nhiều kênh cho quỹ an sinh xã hội,
từng bước thực hiện tài khoản cho mỗi cá nhân. Giải quyết vấn đề an sinh xã hội
cho những người vào thành phố làm thuê. Coi trọng bảo đảm quyền lợi của phụ
nữ và trẻ em. Tăng cường xây dựng sự nghiệp phúc lợi xã hội, hoàn thiện cơ chế
trợ giúp xã hội và hệ thống cứu trợ xã hội, hỗ trợ các hoạt động trợ giúp xã hội
như từ thiện xã hội, cho tặng xã hội và quần chúng giúp đỡ lẫn nhau. Ngoài ra,
Trung Quốc cũng rất chú trọng xây dựng các tổ chức xã hội ngồi nhà nước, góp
phần hóa giải các mâu thuẫn xã hội, biểu đạt nguyện vọng và bảo vệ lợi ích của
các tầng lớp yếu thế, có lợi cho xử lý quan hệ giữa nhà nước với xã hội.
Quá trình 30 năm cải cách và mở cửa của Trung Quốc đã đem lại những
thành tựu to lớn cả về phát triển kinh tế và công bằng xã hội. GDP tăng trưởng
cao liên tục trong nhiều năm, đạt 7696,72 tỷ NDT năm 1998, tăng lên 13582,3 tỷ
NDT năm 2003 và 24661,9 tỷ NDT năm 2007 (gấp 3,2 lần năm 1998). Cơng tác
xóa đói giảm nghèo đạt nhiều kết quả quan trọng, giải quyết được vấn đề no ấm
cho hơn 200 triệu dân nghèo nông thôn. Số dân nghèo từ 250 triệu người năm
1978 giảm xuống còn 30 triệu người năm 2000, tỷ lệ nghèo nông thôn giảm từ
30,7% xuống còn khoảng 3% trong cùng thời kỳ. Nhiều mặt xã hội đã được cải
thiện rõ rệt, như về y tế, giáo dục, khoa học và công nghệ, thông tin, văn hóa, vui

chơi giải trí…
Tuy đạt được những thành tựu quan trọng nêu trên, song Trung Quốc cũng
gặp phải khơng ít khó khăn trong việc xây dựng cơng bằng xã hội. Một trong
những vấn đề rất đáng quan tâm là sự chênh lệch giàu nghèo, chênh lệch giữa
CIEM - Trung tâm Thông tin – Tư liệu

19


thành thị- nơng thơn, giữa các vùng miền có xu hướng ngày càng gia tăng. Nếu
như năm 1997, chênh lệch về mức thu nhập bình qn giữa cư dân nơng thơn và
cư dân thành thị chỉ là 1:2,47 thì đến năm 2003 mức chênh lệch này lên tới 1:3,24
và năm 2007 lên tới 1:3,33. Vấn đề đáng quan tâm nữa là sự chậm chạp trong đổi
mới công tác xã hội. Từ cải cách mở cửa, Trung Quốc luôn coi trọng mục tiêu
“lấy xây dựng kinh tế làm trung tâm”, đề cao hiệu quả kinh tế. Do vậy, các chính
sách xã hội chưa đồng bộ với các chính sách kinh tế. Chế độ bảo hiểm y tế, an
sinh xã hội, việc làm, giáo dục… cịn đang đứng trước nhiều khó khăn. Bên cạnh
đó, cùng với q trình phát triển kinh tế thị trường, nhiều tầng lớp xã hội mới ra
đời, lợi ích giữa các tầng lớp xã hội khác nhau, nhiều trường hợp mâu thuẫn lợi
ích đã xảy ra. Những mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân ở một số nơi vẫn chưa
được giải quyết thỏa đáng. Hiện tượng không công bằng trong xã hội rõ nét, cần
phải áp dụng ngay các biện pháp để giúp đỡ những người ở tầng đáy về kinh tế và
xã hội.
Để khắc phục những khó khăn nêu trên, kiên trì theo đuổi mục tiêu cơng
bằng xã hội, ĐCS Trung Quốc đã khẳng định tiếp tục thực hiện những định
hướng cải cách quan trọng sau đây: hồn thiện thể chế kinh tế thị trường XHCN;
kiên trì quán triệt quan niệm phát triển khoa học9; đẩy mạnh xây dựng nơng thơn
mới XHCN; hồn thiện chế độ đại hội đại biểu nhân dân, xây dựng nhà nước
pháp quyền XHCN, kiện toàn hệ thống pháp luật, tư pháp; đẩy mạnh sự nghiệp xã
hội và xây dựng xã hội hài hịa XHCN.

B. CƠNG BẰNG CƠ HỘI VÀ CƠNG BẰNG PHÂN PHỐI Ở VIỆT NAM
1. Thực trạng công bằng cơ hội và công bằng phân phối ở Việt Nam
1.1. Những thành tựu
Qua hơn 20 năm đổi mới toàn diện đất nước, đời sống kinh tế - xã hội của
Việt Nam đã có những bước phát triển rõ rệt. Kinh tế tăng trưởng khá cao liên tục
trong nhiều năm, quyền tự do kinh tế được đề cao, chính trị dân chủ có tiến bội,
mơi trường văn hóa cởi mở, cùng với việc thực hiện các chính sách chú trọng tới
cơng bằng xã hội đã giúp cho Việt Nam từng bước hướng tới mục tiêu xây dựng
một đất nước “Dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Bên
cạnh tăng trưởng kinh tế, thì cơng bằng xã hội cũng được đánh giá là thành tựu
quan trọng mà Việt Nam đã đạt được trong những năm đổi mới vừa qua.
9

Quan niệm phát triển khoa học có nội hàm là phát triển, hạt nhân là lấy con người làm gốc,
yêu cầu cơ bản là toàn diện nhịp nhàng bền vững, phương thức cơ bản là tính tốn tổng thể.
20
CIEM - Trung tâm Thông tin – Tư liệu


1.1.1. Về công bằng cơ hội
Công bằng về cơ hội là một khía cạnh khá mới của cơng bằng xã hội. Từ
đầu những năm 1990, các chuyên gia hàng đầu của Chương trình Phát triển Liên
hợp quốc (UNDP) đã nhấn mạnh: “Nội dung cốt lõi của công bằng xã hội là công
bằng về cơ hội phát triển…”, thể hiện ở sự công bằng về khả năng tiếp cận các
nguồn lực phát triển đối với mỗi cá nhân hay mỗi nhóm xã hội.
Trong hơn 20 năm đổi mới, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã hết sức chú
trọng tạo cơ hội và năng lực cho người dân, đặc biệt là người nghèo, người dễ bị
tổn thương, người yếu thế trong xã hội, thơng qua nhiều chiến lược, chính sách,
chương trình, dự án. Trong đó, những vấn đề được quan tâm hàng đầu có liên
quan đến cơ hội tiếp cận với y tế, giáo dục, công ăn việc làm… nhằm nâng cao

sức khỏe, trình độ năng lực và thu nhập của người dân.
- Y tế là lĩnh vực có những tiến bộ quan trọng. Hệ thống y tế ngày càng
phát triển tạo điều kiện cho người dân có nhu cầu được hưởng thụ các dịch vụ
khám, chữa bệnh. Số lượng cán bộ ngành y tế tăng lên nhanh chóng, hệ thống
bệnh viện và cơ sở y tế được tăng cường trang bị máy móc, thiết bị và các nguồn
lực khám, chữa bệnh; mạng lưới y tế được tổ chức rộng khắp. Nhờ đó, những chỉ
tiêu về sức khỏe của người dân Việt Nam được nâng lên rõ rệt. Sức khỏe, dinh
dưỡng và tuổi thọ đều được nâng lên. Tuổi thọ trung bình năm 2008 đạt trên 71,5
tuổi, về đích trước so với mục tiêu đề ra đến năm 2010. Nhiều vấn đề xã hội khác
(như chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em, …) cũng có những chuyển biến tích cực.
- Cùng với y tế, giáo dục và đào tạo được coi là nhiệm vụ trọng tâm của
nâng cao chất lượng dân số và phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của q
trình cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. Những năm qua, nền giáo dục và
đào tạo của Việt Nam đã đạt được một số kết quả đáng ghi nhận về mặt số lượng.
Đến nay, tỷ lên trẻ em 3 – 5 tuổi đi học mẫu giáo đạt gần 50%, tỷ lệ nhập học
đúng tuổi bậc tiểu học đạt 93%, bậc trung học đạt 85% và bậc phổ thông đạt 50%.
Cả nước đã đạt chuẩn quốc gia về xóa mù chữ và phổ cập tiểu học từ năm 2002.
Đào tạo ở các bậc đại học, cao đẳng và đào tạo kỹ thuật cũng phát triển nhanh
chóng, với sự gia tăng các cơ sở đào tạo và tỷ lệ chi ngân sách cho giáo dục và
đào tạo. Số lượng các trường đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp đã
tăng từ 431 trường năm 2000 lên 568 trường vào năm 2006; hầu hết các tỉnh
(thành phố) đã có trường đại học, cao đẳng hoặc trung học dạy nghề.
- Cơ hội làm việc, nâng cao thu nhập và cải thiện đời sống của người dân
được nâng lên đáng kể. Đảng và Nhà nước chủ trương thực hiện đa dạng hóa các
CIEM - Trung tâm Thơng tin – Tư liệu

21


loại hình sở hữu và các thành phần kinh tế, đẩy mạnh phát triển các loại hình

doanh nghiệp, khuyến khích các hộ kinh doanh, và những người tự làm giàu cho
bản thân, gia đình và xã hội. Điều này đã khiến cho cơ hội để người dân tham gia
vào việc phát triển kinh tế được mở rộng hơn, phong phú hơn, đa dạng hơn tùy
thuộc vào điều kiện, năng lực của từng chủ thể. Trung bình mỗi năm, cả nước giải
quyết việc làm cho 1,2- 1,5 triệu người lao động, góp phần đáng kể vào việc nâng
cao mức sống của nhân dân.
- Hàng loạt chiến lược, chương trình mục tiêu quốc gia đã được ban hành
và thực hiện về các lĩnh vực như: dân số và kế hoạch hóa gia đình; nước sạch và
vệ sinh mơi trường nơng thơn; xóa đói giảm nghèo; dinh dưỡng; định canh định
cư… Những chiến lược và chương trình này khơng chỉ giúp giảm bất bình đẳng,
nâng cao thu nhập, mà cịn mở rộng cơ hội và nâng cao năng lực nắm bắt cơ hội
của người dân, đặc biệt là người nghèo, người dễ bị tổn thương và yếu thế.
Những kết quả trên cho thấy rằng, công cuộc phát triển ở Việt Nam đang
hướng tới con người và vì con người. Cơng cuộc đổi mới mang lại các cơ hội phát
triển cho đông đảo quần chúng nhân dân. Chỉ số phát triển con người (HDI) của
Việt Nam đã tăng lên trong những năm qua. Nếu như năm 2000 chỉ số HDI của
Việt Nam là 0,671, đến năm 2005 tăng lên 0,733 (theo Báo cáo Phát triển con
người năm 2007 của UNDP), với thứ hạng cao hơn trước. Chỉ số HDI của Việt
Nam tương đương với chỉ số này của nhiều nước có GDP bình qn đầu người
cao hơn Việt Nam.
1.1.2. Về công bằng phân phối
Trong thời kỳ trước đổi mới (trước năm 1986), Việt Nam thực hiện chế độ
phân phối mang tính bình qn. Bước vào thời kỳ đổi mới, nguyên tắc phân phối
ở Việt Nam đã thay đổi căn bản, nhấn mạnh đến phân phối theo kết quả lao động
và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn
lực khác nhau vào sản xuất, kinh doanh và thông qua phúc lợi xã hội. Đây là
nguyên tắc phân phối được đánh giá là công bằng, phù hợp với các điều kiện của
Việt Nam hiện nay. Các chính sách phân phối thường xuyên được cải cách cho
phù hợp với tính chất của nền kinh tế mới. Có thể kể một số thay đổi quan trọng
về chủ trương và chính sách phân phối như sau:

- Thứ nhất, Nhà nước đã chủ trương cải cách hệ thống thuế như là công cụ
chủ yếu để phân phối thu nhập quốc dân, điều tiết thu nhập giữa các tầng lớp dân
cư và đảm bảo công bằng xã hội. Việc cải cách hệ thống thuế trong thời gian vừa
qua đã từng bước làm cho hệ thống thuế phù hợp với thể chế kinh tế thị trường
CIEM - Trung tâm Thông tin – Tư liệu

22


định hướng xã hội chủ nghĩa, trở thành công cụ quản lý vĩ mơ của nhà nước, góp
phần quan trọng tạo ra sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, các tầng lớp dân
cư từ đó thúc đẩy đầu tư sản xuất tạo nguồn thu ổn định cho ngân sách nhà nước.
Đáng chú ý, Luật Thuế thu nhập cá nhân bắt đầu có hiệu lực từ tháng 1/2009 hứa
hẹn trở thành một cơng cụ điều tiết thu nhập có hiệu quả để góp phần thực hiện
cơng bằng xã hội.
- Thứ hai, năm 1996 lần đầu tiên Luật Ngân sách nhà nước đã được Quốc
hội thơng qua. Chính sách phân phối qua ngân sách đã được đổi mới theo hướng
vừa tập trung cho đầu tư phát triển, vừa hướng mạnh vào mục tiêu thực hiện công
bằng xã hội. Việc công nhận tồn tại thị trường lao động và tiền lương như phản
ánh giá cả sức lao động là sự thay đổi lớn về nhận thức của Đảng và Nhà nước ta.
- Thứ ba, cuộc cải cách tiền lương năm 1993 đã bước đầu đặt nền móng
cho tư duy mới về chính sách tiền lương trong nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN. Cơ cấu tiền lương tối thiểu chừng nào tiền tệ hoá các phần phân phối gián
tiếp trước đây ngoài tiền lương từ ngân sách cho người lao động như nhà ở, tem
phiếu, lương thực, thực phẩm, chất đốt, thuốc chữa bệnh, tiền học, chi phí đi lại,
cấp phát một số đồ dùng sinh hoạt cho một số đối tượng. Đó là một sự đổi mới
trong chính sách và chế độ tiền lương.
- Thứ tư, các chính sách an sinh xã hội cũng đã được hoàn chỉnh dần theo
hướng huy động mọi lực lượng trong xã hội, bao gồm Nhà nước, cộng đồng
người dân cùng thực hiện, nhằm xoá bỏ tình trạng bao cấp và làm giảm gánh nặng

cho ngân sách nhà nước.
- Thứ năm, những chính sách, biện pháp xố đói giảm nghèo thời gian qua
đã góp phần làm cho mức sống người nghèo được cải thiện và giảm tỷ lệ đói
nghèo.
Kết quả là, cùng với tăng trưởng kinh tế, kết quả thực hiện các chính sách
phân phối đã góp phần nâng cao thu nhập của các tầng lớp dân cư, giảm tỷ lệ hộ
nghèo đói giảm, cải thiện đời sống của nhân dân. Đặc biệt, do tác động của các
chính sách đầu tư, các chính sách xã hội cho những vùng nghèo và người nghèo,
nên thu nhập và đời sống của vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng nghèo và
người nghèo có được cải thiện. Cho đến nay, xóa đói giảm nghèo được coi là một
trong những thành công lớn nhất của công cuộc phát triển xã hội của Việt Nam.
UNDP đáng giá Việt Nam là một trong những nước điển hình trong việc thực
hiện các Mục tiêu Thiên niên kỷ về xóa đói giảm nghèo. Kết quả các cuộc điều
tra cho thấy, tỷ lệ nghèo đói (tính theo chuẩn quốc tế) của Việt Nam đã giảm đáng
CIEM - Trung tâm Thông tin – Tư liệu

23


kể từ 34,7% (1998) còn 19,5% (2004) và còn 14,7% (2007). Nếu theo chuẩn
nghèo cũ của Việt Nam thì tỷ lệ nghèo giảm nhanh từ 17,2% năm 2001 với 2,8
triệu hộ, đến cuối năm 2005 còn dưới 1,1 triệu hộ. Như vậy, trung bình mỗi năm
giảm 375 nghìn hộ nghèo, tương đương với tỷ lệ giảm 2,67%; và cho dù áp dụng
theo chuẩn nghèo nào thì tỷ lệ nghèo đói ở Việt Nam vẫn có xu hướng giảm
nhanh.
1.2. Những yếu kém và khuyết điểm
Cho dù đã đạt những thành tựu quan trọng trong việc thực hiện công bằng
xã hội, tuy nhiên, sự bất công bằng trong xã hội vẫn tồn tại khá phổ biến, nhất là
về thu nhập, về thụ hưởng những lợi ích của sự phát triển, về tiếp cận các dịch vụ
xã hội, các cơ hội phát triển… giữa các tầng lớp xã hội, các địa phương khác

nhau. Tỷ lệ nghèo đói trong dân cư, nhất là ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng
dân tộc thiểu số cịn cao. Người nơng dân, chiếm tỷ lệ lớn trong dân số nước ta,
vẫn là đối tượng chịu nhiều thua thiệt, trong đó đáng lưu ý là người nghèo, người
bị mất đất sản xuất và chưa được đào tạo nghề để ổn định cuộc sống. Công nhân
và một bộ phận trí thức cũng gặp khơng ít khó khăn trong cuộc sống hằng ngày
cũng như trong việc tiếp cận với các cơ hội phát triển.
1.2.1. Về công bằng cơ hội
Trong những năm đổi mới, tăng trưởng GDP bình quân của nước ta đạt
trên 7%/năm, một tỷ lệ tăng khá cao so với thế giới và khu vực, nhưng tiến bộ và
công bằng xã hội tăng bao nhiêu phần trăm thì chúng ta khơng thống kê được, dù
là ước tính. Qua nghiên cứu, hơn 20 năm đổi mới, vấn đề phát triển kinh tế đã đạt
được những thành tựu to lớn, trong khi đó vấn đề xã hội (trong đó có tiến bộ và
công bằng xã hội) chưa phát triển tương xứng, mặc dù chúng ta đã có nhiều cố
gắng giải quyết vấn đề bức bách này.
Không thể phủ nhận những chuyển biến tích cực trong việc cải thiện cơng
bằng xã hội, tuy nhiên vẫn cịn khơng ít vấn đề gây cản trở cơ hội tiếp cận các
dịch vụ xã hội của người dân. Cụ thể, theo Báo cáo Phát triển con người Việt
Nam năm 2001 về vấn đề nghèo đói và tiếp cận với các dịch vụ xã hội cơ bản,
trong số trên 10.000 xã của cả nước, có 1.498 xã thuộc diện nghèo đói, 687 xã
chưa có đường ơ tơ đến trung tâm xã, 591 xã thiếu phòng học cấp phổ thơng cơ
sở, 445 xã chưa có trạm y tế hoặc có trạm y tế bị xuống cấp nghiêm trọng, 760 xã
chưa có chợ, 941 xã chưa có điện, 594 xã có tỷ lệ trên 50% dân cư thiếu nước
sạch, dân cư chủ yếu sản xuất theo tập quán, năng suất lao động thấp, chi phí vận
chuyển cao.
CIEM - Trung tâm Thông tin – Tư liệu

24


Hệ thống y tế phát triển hơn nhưng vẫn còn tình trạng q tải tại các bệnh

viện lớn. Chi phí y tế cao, vì thế nhiều người nghèo có nhu cầu khám, chữa bệnh
chưa tiếp cận được với các dịch vụ y tế. Các bệnh viện công và tư hiện nay đang
rơi vào tình trạng chỉ phục vụ tốt cho những người có khả năng chi trả, trong khi
đó lại thờ ơ với việc phục vụ miễn phí cho người nghèo. Bên cạnh đó, Nhà nước
chưa có cơ chế bảo trợ cho người dân đương đầu với nhiều rủi ro trong cuộc
sống. Theo phân tích của Ủy ban thường vụ Quốc hội, hiện nay người giàu sử
dụng dịch vụ khám chữa bệnh tại tuyến tỉnh trở lên cao gấp 7 lần người nghèo.
Về khả năng tiếp cận với các dịch vụ giáo dục và đào tạo, nhiều nông dân
trẻ, con em nhà nghèo, nhất là ở những xã nghèo miền núi, vùng dân tộc, khơng
có điều kiện để học chữ, học nghề, khơng có điều kiện để tiếp cận và thừa hưởng
nền giáo dục có chất lượng cao. Từ đó, họ rất khó kiếm được việc làm với năng
suất và mức thu nhập tốt hơn, khơng thể tự nâng trình độ và năng lực của bản
thân mình. Trong khi đó, dân cư đô thị được tiếp cận nền giáo dục và đào tạo có
chất lượng cao, thậm chí con cái những gia đình khá giả có điều kiện tiếp cận với
nền giáo dục hiện đại ở nước ngoài.
Các cơ hội đầu tư cho giáo dục, chăm sóc sức khỏe và các dịch vụ khác chủ
yếu thuộc về những người giàu có. Theo số liệu thống kê, hiện có sự chênh lệch
khá lớn giữa các nhóm hộ giàu và nhóm hộ nghèo về các khoản chi phí ngồi ăn
uống. Năm 2004 số hộ giàu nhất có mức chi phí ngồi ăn uống, chi phí về chăm
sóc sức khỏe gấp 4,6 lần, chi văn hóa, thể thao, giải trí gấp 86,5 lần 10… Như vậy,
kinh tế thị trường dường như tạo điều kiện, cơ hội cho người giàu nhiều hơn trên
các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa, thơng tin, vui chơi giải trí…; ngược lại,
người có thu nhập thấp càng gặp khó khăn hơn trước sự bùng phát của vơ số các
loại hình dịch vụ.

1.2.2. Về cơng bằng phân phối
Tuy đã có những cải thiện về chế độ phân phối, song việc thực hiện phân
phối theo nguyên tắc thị trường ở nước ta cho đến nay còn nhiều hạn chế và chưa
triệt để. Những cuộc cải cách, đặc biệt cải cách tiền lương cịn mang tính nửa vời.
Điều đó làm rối loạn khâu phân phối, thu nhập bằng lương còn mang nặng dấu ấn

bình quân, chênh lệch giữa các mức lương rất nhỏ, xét về mặt giá trị không đáng
10

Kết quả điều tra mức sống hộ gia đình năm 2004, Tổng cục Thống kê
CIEM - Trung tâm Thông tin – Tư liệu

25


×