Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (105.94 KB, 6 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
ThS. BÙI KHÁNH VÂN
Từ năm 2003 đến nay, xuất khẩu gạo
của Việt Nam luôn đứng thứ hai trên thế
giới. Năm 2009 xuất khẩu lên tới sáu
triệu tấn gạo. 90% lượng gạo xuất khẩu
sản xuất tại Đồng bằng sông Cửu Long.
Song, thu nhập của người trồng lúa ở
vùng này chỉ tương đương với hộ cận
nghèo. Đó là một nghịch lý!
Ngày 12 tháng 3 năm 2010, Thủ
tướng chính phủ ban hành công văn số
430/TTg-KTN gửi Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nơng thơn, Bộ Cơng thương,
Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư;
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Tổng
công ty Lương thực miền Nam, Tổng
công ty Lương thực miền Bắc, Hiệp hội
Lương thực Việt Nam, Ủy ban nhân dân
các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương. Nội dung công văn yêu cầu:
1. Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương chỉ đạo các
doanh nghiệp kinh doanh lương thực
của tỉnh và trên địa bàn tổ chức mua hết
lúa hàng hóa cho nông dân theo giá
2. Bộ Tài chính chủ trì phối hợp với
Bộ Nơng nghiệp và Phát triển nông thôn
khẩn trương ban hành quy định và
hướng dẫn phương pháp xác định chi
phí sản xuất, tính giá thành sản xuất lúa,
để Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương làm căn cứ xác định
chi phí, tính giá thành sản xuất lúa và
cơng bố giá mua lúa hàng hóa trên địa
bàn.
3. Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương cơng bố giá mua
lúa bảo đảm lãi ít nhất là 30% so với giá
thành sản xuất ngay từ đầu vụ sản xuất
để các tổ chức, cá nhân mua lúa hàng
hóa cho người trồng lúa theo giá đã
cơng bố; có trách nhiệm kiểm tra giám
sát và xử lý việc thực hiện mua lúa theo
giá đã công bố.
trong việc mua lúa của nông dân theo
giá đã công bố.
5. Hiệp hội Lương thực Việt Nam
thống nhất với các thành viên Hiệp hội
về số lượng và thời gian mua tạm trữ lúa
Như vậy theo chỉ đạo của Chính
phủ, người trồng lúa có thể có lãi ít nhất
30% so với giá thành sản xuất. Nếu làm
được như vậy, chúng ta sẽ giải quyết hài
hịa lợi ích giữa người trồng lúa với tổ
chức, cá nhân tiêu thụ lúa hàng hóa,
nhất là ở đồng bằng sơng Cửu Long.
Điều đó cho thấy sự quan tâm và trách
nhiệm của Chính phủ tới nông nghiệp,
nông dân và nông thôn.
Tuy nhiên thực tế người nơng dân
đã được hưởng lợi ra sao, có đúng như
kỳ vọng của Chính phủ và hy vọng của
nơng dân khơng, cịn nhiều điều phải
bàn. Vấn đề đầu tiên là tính giá thành
Việc này cho đến vẫn chưa được các
nhà khoa học và quản lý tìm ra lời giải
cuối cùng.
động, giá trị sản phẩm phụ để loại trừ
khỏi chi phí sản xuất chính... Từ những
Tuy nhiên, nhiều nông dân
ĐBSCL cho rằng, việc công bố giá
thành sản xuất lúa hiện nay có 2 bất cập
lớn:
<i><b>Thứ nhất, về sự chậm trễ, có</b></i>
<i><b>một số ý kiến cơ bản sau:</b></i>
- Tại cuộc họp bàn kế hoạch xuất
khẩu gạo và tiêu thụ lúa hè thu năm
2010 ở An Giang, tháng 6/2010, Hiệp
hội Lương thực Việt Nam (VFA) cho
biết, đến nay Bộ Tài chính vẫn chưa ban
hành giá thành sản xuất lúa đông xuân
2009-2010.
- VFA cho rằng, vụ đông xuân, cơ
quan chức năng chậm trễ trong việc
công bố giá, nên VFA đã tự đưa ra giá
để các doanh nghiệp thành viên thu
mua. Việc làm này bị chỉ trích là “vừa
đá bóng vừa thổi cịi”.
- Trong khi các doanh nghiệp chờ
giá của Bộ Tài chính để thu mua lúa thì
Bộ lại chờ giá thành sản xuất của các
Như vậy, chính sách của Chính
phủ rất đúng đắn về mặt chính trị, kinh
tế và xã hội, song không phát huy hiệu
lực và hiệu quả trên thực tế. Vấn đề phải
chăng là do những hạn chế trong cơ chế
điều hành của Chính phủ? Nội dung
công văn số 430/TTg-KTN xác định rất
rõ nhiệm vụ của từng bộ, địa phương và
hiệp hội, song không rõ quy trình thực
hiện, cơ chế trách nhiệm, biện pháp chế
tài, nên tình trạng “vơ trách nhiệm tập
thể” là điều tất yếu!
<i><b>Thứ hai, về phương pháp tính giá</b></i>
<i><b>thành, có một số thơng tin phản hồi</b></i>
<i><b>đáng được quan tâm:</b></i>
- Sau khi có cơng văn 430 của Thủ
tướng Chính phủ, các cơ quan liên quan
cũng chưa thống nhất được cách tính giá
thành cũng như xác định giá bán và
người nông dân vẫn phải chờ đợi. Việc
lãi lỗ từ hạt lúa hoàn toàn phụ thuộc vào
thời tiết cũng như giá mua từ các doanh
nghiệp thu mua lúa gạo.
- Việc tập hợp để đưa ra giá thành
sản xuất lúa thường chỉ tính dựa vào các
khâu phân bón, giống, làm đất, chăm
sóc... mà qn tính ngày cơng lao động
và những biến động giá cả vật tư, yếu tố
thời tiết là chưa chính xác. Nơng dân bị
thiệt thịi!
sông Cửu Long khắc nghiệt hơn. Theo
đánh giá của các địa phương, năm 2010,
thời tiết không thuận, cộng thêm giá
phân bón, thuốc BVTV, cơng lao động,
lúa giống, phơi sấy… đều tăng cao gấp
đôi so với vụ lúa đông xuân nên chắc
chắn giá thành sẽ tăng nhiều. Vụ hè thu
vừa qua thương lái thu mua lúa từ nông
dân chỉ từ 3.800- 3.900 đồng/kg thì chắc
chắn nơng dân khơng có lãi.
- Khi tính giá thành lúa, nhiều địa
phương đã bỏ qua tiền thuê đất và chi
phí vốn vay. Theo biểu mẫu điều tra chi
phí và giá thành sản xuất lúa đông xuân
2009 – 2010 mà Kiên Giang cơng bố thì
chỉ có 2 loại chi phí chính được tính đến
là chi phí vật chất và chi phí lao động.
Chi phí vật chất gồm: công làm đất,
giống, phân bón, thuốc BVTV, xăng
dầu bơm tưới, dụng cụ lao động…Chi
phí lao động gồm: sửa bờ, bơm tưới,
đất phổ biến hiện nay tại Kiên Giang từ
5-15 giạ/công (1000m2))
- Sản xuất nông nghiệp mang tính
vùng, khơng chỉ về sản phẩm, chất
lượng sản phẩm mà cịn về chi phí. Giá
thành lúa không như nhau trên những
vùng sinh thái khác nhau về điều kiện
nơng hóa thổ nhưỡng, khí hậu thời tiết,
cơ sở hạ tầng kinh tế-kỹ thuật phục vụ
nông nghiệp. Chẳng hạn, huyện U Minh
Thượng của Kiên Giang, do điều kiện
sản xuất khó khăn, lúa năng suất thấp
(chỉ 3,98 tấn/ha) nên giá thành rất cao,
bình qn 4.109 đồng/kg.
- Nơng dân khơng thể có lãi 30%,
ngay cả khi Chính phủ ấn định giá mua
lúa đông xuân vừa qua là 4000 đồng/kg.
Thực tế rõ ràng là, doanh nghiêp không
tham mưu cho Thủ tướng chỉ đạo các
doanh nghiệp thu mua lúa đảm bảo
cho nơng dân có lãi 30% trở lên, Chi
cục BVTV đã tổ chức điều tra dự tính
giá thành sản xuất vụ lúa Hè Thu năm
2010 theo đề nghị của Cục Trồng trọt
quy định.
<b>Kết quả điều tra giá thành ở các nhóm giống như sau:</b>
Đơn vị tính: đồng; Định mức: 1000 m2
<b>Hạng mục</b>
<b>Nhóm</b>
<b>giống đặc</b>
<b>sản</b>
<b>Tỷ lệ</b>
<b>(%)</b>
<b>Nhóm</b>
<b>giống chất</b>
<b>lượng cao</b>
<b>Tỷ lệ</b>
<b>(%)</b>
<b>Nhóm</b>
<b>giống chất</b>
<b>lượng trung</b>
<b>bình</b>
<b>Tỷ lệ</b>
<b>(%)</b>
Chi phí đầu tư :
1. Chi phí sửa
chữa bờ bao, kênh
mương, san bằng
ruộng
80.000 5,16 80.000 5,29 80.000 5,25
2. Chi phí giống 120.000 8,22 90.000 5,95 90.000 5,91
3. Chi phí phân
bón
435.400 28,11 368.000 24,34 400.500 26,29
4. Chi phí vận
chuyển phân
5. Lãi mua chịu
vật tư
6. Chi phí thuốc
BVTV
179.000 11,56 179.000 11,84 193.000 12,67
7. Chi phí nhiên
liệu
0 0 0
8. Chi phí thuê
mướn lao động,
dịch vụ máy nông
nghiệp
735.000 47,45 795.000 52,57 760.000 49,89
<b>Hạng mục</b>
<b>Nhóm</b>
<b>giống đặc</b>
<b>sản</b>
<b>Tỷ lệ</b>
<b>(%)</b>
<b>Nhóm</b>
<b>giống chất</b>
<b>lượng cao</b>
<b>Tỷ lệ</b>
<b>(%)</b>
<b>Nhóm</b>
<b>giống chất</b>
<b>lượng trung</b>
<b>bình</b>
<b>Tỷ lệ</b>
<b>(%)</b>
Tổng chi phí 1.549.000 1.512.200 1.523.500
Giá trị sản lượng 2.040.000 1.948.000 1.925.000
Lợi nhuận 490.600 435.850 401.500
Giá thành 1 kg
lúa 3.227 3.150 3.047
Kết quả tính tốn giá thành cho
thấy: giá thành lúa đặc sản: 3.227
Trên giác độ khoa học, có thể nêu
lên một số vấn đề để các cơ quan tham
mưu về nơng nghiệp cho Chính phủ và
cho các Chính quyền địa phương thảo
luận:
Trước hết, phải “gọi hết tên” các
khoản mục chi phí khi xây dựng bảng
kết cấu giá thành lúa cho nông dân. Các
khoản mục chi phí này phải tính đúng,
tính đủ như khi tính giá thành sản phẩm
của các doanh nghiệp.
Hai là, khơng thể có mức giá
mua, giá thành lúa ấn định chung cho
mọi vùng, địa phương có điều kiện tự
Ba là, có thể dùng hệ số điều
chỉnh để xác định giá thành lúa theo
mùa vụ.