Tải bản đầy đủ (.docx) (38 trang)

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ LẬP VÀ PHÂN TÍCH BÁO CÁO TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (220.24 KB, 38 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ LẬP VÀ PHÂN TÍCH BÁO CÁO TÀI CHÍNH DOANH
NGHIỆP
1.1. Tổng quan về Báo cáo tài chính
1.1.1. Khái niệm Báo cáo tài chính
Báo cáo tài chính là những báo cáo tổng hợp nhất về tình hình tài sản, vốn chủ sở
và công nợ cũng như tình hình tài chính, kết quả kinh doanh trong kỳ của doanh nghiệp.
Nói cách khác, báo cáo tài chính là phương tiện trình bày khả năng sinh lời và thực trạng
tài chính của doanh nghiệp cho những người quan tâm (chủ doanh nghiệp, nhà đầu tư, nhà
cho vay, cơ quan thuế và cơ quan chức năng…).
Báo cáo tài chính là hệ thống báo cáo được lập theo chuẩn mực và chế độ kế toán
hiện hành phản ánh các thông tin kinh tế, tài chính chủ yếu của đơn vị. Theo đó, báo cáo
tài chính chứa đựng những thông tin tổng hợp nhất về tình hình tài sản, nguồn vốn chủ sở
hữu và công nợ cũng như tình hình tài chính, kết quả kinh doanh trong kỳ của doanh
nghiệp. Nói cách khác, báo cáo tài chính là phương tiện trình bày thực trạng tài chính và
khả năng sinh lời của doanh nghiệp cho những người quan tâm (chủ doanh nghiệp, nhà
đầu tư, nhà cho vay, cơ quan thuế và các cơ quan chức năng…).
1.1.2. Hệ thống báo cáo tài chính Việt Nam qua một số thời kỳ
- Giai đoạn 1: Giai đoạn quản lý kinh tế theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan
liêu bao cấp (trước năm 1986)
Trong giai đoạn này, thông tin trên Báo cáo tài chính thể hiện các chỉ tiêu thực hiện
thu – chi, để tổ chức sản xuất theo kế hoạch đề ra trong giới hạn Ngân sách nhà nước phân
bổ.
Hệ thống báo cáo kế toán trong giai đoạn này đã đáp ứng tốt yêu cầu quản lý tập
trung và phục vụ tốt cho công tác kiểm soát, chỉ đạo của cơ quan chức năng Nhà nước.
Tuy nhiên, hệ thống báo cáo kế toán như trên ngày càng bộc lộ nhiều nhược điểm.
Số lượng bảng biểu quá nhiều, cùng với các chỉ tiêu kinh tế phức tạp đòi hỏi cả người lập
và đọc báo cáo phải có trình độ nhất định trong khi công tác đào tạo cán bộ kế toán chưa
thực sự tương xứng với yêu cầu trên. Hơn nữa, kỳ lập báo cáo lại ngắn và liên tục (tháng,
quý, 6 tháng, năm). Với đội ngũ cán bộ ít, trình độ có hạn, các báo cáo được lập trong điều
kiện này chỉ mang tính đối phó, thiếu chính xác, không đảm bảo độ trung thực mà thông
tin cần có. Do đó, ta thấy công tác lập báo cáo trong giai đoạn này là không khoa học.


- Giai đoạn 2: Giai đoạn đổi mới cơ chế quản lý kinh tế (từ năm 1986 đến nay)
Trong những năm đầu đổi mới, từ 1986 – 1990, nền kinh tế nước ta gặp vô vàn khó
khăn. Để phù hợp với sự vận động khách quan của nền kinh tế, Nhà nước ta đã thực hiện
chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế: từ cơ chế quản lý kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế
thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhằm đáp ứng
yêu cầu đổi mới công tác kế hoạch hóa và công tác quản lý kinh tế - tài chính của Nhà
nước trong giai đoạn này, chế độ Báo cáo Thống kê – Kế toán định kỳ đã được ban hành
theo quyết định số 13-TCTK/PPCĐ ngày 13/01/1986 của Tổng cục trưởng Tổng cục
Thống kê. Đối với lĩnh vực kế toán, có 9 biểu, các đơn vị phải lập và gửi báo cáo định kỳ
quý, 6 tháng, năm.
Tuy số lượng báo cáo đã giảm và cũng không yêu cầu bắt buộc phải lập báo cáo
theo tháng, song 9 vẫn là tương đối lớn, số lượng các chỉ tiêu vẫn còn nhiều, rườm rà,
không cần thiết cho hoạt động quản lý và quan trọng hơn cả là vẫn được thực hiện tập
trung, mang nặng tính hình thức, chưa thật sự hữu ích cho bản thân đơn vị, thông tin kế
toán chủ yếu vẫn được dùng cho việc kiểm soát, chỉ đạo của cấp trên và các cơ quan chức
năng của Nhà nước.
Từ 1990 – 1995, giai đoạn này sự cần thiết phải thay đổi cơ chế quản lý kinh tế mới
được nhận thức đầy đủ, những chủ trương phát triển kinh tế - xã hội, đổi mới cơ chế quản
lý kinh tế theo hướng hạch toán và kinh doanh xã hội chủ nghĩa được cụ thể hóa, đưa vào
cuộc sống. Trong giai đoạn này, hệ thống Báo cáo kế toán chỉ còn 4 báo cáo định kỳ:
• Bảng tổng kết tài sản (lập theo quý, năm)
• Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh (lập theo năm)
• Chi phí sản xuất theo yếu tố (lập theo năm)
• Bản giải trình kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh (lập theo năm)
Các doanh nghiệp quốc doanh phải nộp các báo cáo cho cơ quan Tài chính, cơ quan
chủ quản, cơ quan Thống kê và cơ quan Ngân hàng liên quan. Thời gian lập, nộp các báo
cáo cũng đã “thoáng” hơn, các chỉ tiêu trong từng báo cáo đã phần nào được đơn giản hóa,
phục vụ thiết thực hơn cho việc quản trị doanh nghiệp.
Tuy nhiên, thông tin trên các Báo cáo kế toán trong thời gian này chưa thật sự phù
hợp với thông lệ quốc tế vì chúng ta chưa đi sâu vào nghiên cứu vấn đề hòa hợp quốc tế.

Từ năm 1995 đến nay, giai đoạn này được đánh dấu bởi những bước chuyển đổi
kinh tế mạnh mẽ sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa dưới sự chỉ
đạo của nhà nước. Xu thế toàn cầu hóa mạnh mẽ đặt đất nước ta vào thế không ngừng thay
đổi các chính sách kinh tế để hội nhập với quốc tế. Đứng trước xu thế đó, hệ thống kế toán
nói chung và hệ thống Báo cáo kế toán phải từng bước thay đổi cho phù hợp với tình hình
phát triển chung của đất nước và phải được thay đổi đồng bộ, triệt để cả về nội dung lẫn
hình thức để phục vụ tốt nhu cầu quản lý trong nền kinh tế thị trường, phù hợp với các
nguyên tắc, chuẩn mực, thông lệ quốc tế.
Trong giai đoạn này, hệ thống Báo cáo kế toán được sửa đổi, bổ sung nhiều lần,
song nhìn chung, hệ thống Báo cáo kế toán được quy định thống nhất và ngày càng phù
hợp với thông lệ quốc tế với 4 biểu mẫu kế toán báo cáo phải lập là:
• Bảng cân đối kế toán
• Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh
• Báo cáo lưu chuyển tiền tệ
• Bản thuyết minh báo cáo tài chính
Riêng Báo cáo lưu chuyển tiền tệ, từ năm 2003 mới bắt buộc phải lập, nộp. Ngoài
ra, tùy thuộc vào yêu cầu thông tin kế toán của bản thân doanh nghiệp mà có thể nộp thêm
một số báo cáo nội bộ khác.
Từ năm 2000, để cập nhật hơn nữa những nhu cầu của nền kinh tế đang đổi mới,
phát triển, Bộ tài chính vẫn không ngừng nghiên cứu, cải tiến nâng cao vai trò cung cấp
thông tin cho các Báo cáo tài chính, 26 Chuẩn mực kế toán được ban hành, cùng với các
thông tư hướng dẫn kèm theo.
So với giai đoạn trước đây, hệ thống Báo cáo tài chính hiện nay là một bước đột
phá căn bản, nó không chỉ khắc phục được những nhược điểm của hệ thống báo cáo trước
đó mà còn được xây dựng trên cơ sở các nguyên tắc và Chuẩn mực kế toán quốc tế phục
vụ thiết thực hơn cho các cơ quan quản lý Nhà nước và nhiều đối tượng khác. Nó phản ánh
đầy đủ hơn các sự kiện kinh tế tài chính phát sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp nên tạo được niềm tin từ phía người sử dụng và thực sự phát huy vai trò
quan trọng trong công tác quản lý tài chính, kế toán.
Nền kinh tế còn nhiều biến đổi, trong tương lai, hệ thống Báo cáo tài chính cũng

như hệ thống kế toán sẽ còn phải thay đổi để phù hợp hơn, đáp ứng nhu cầu của các đối
tượng quan tâm trong và ngoài doanh nghiệp.
1.1.3. Ý nghĩa, vai trò của Báo cáo tài chính
1.1.3.1. Ý nghĩa của Báo cáo tài chính
Xã hội loài người càng phát triển thì mức độ quan tâm đến hoạt động sản xuất càng
tăng, nghĩa là càng cần thiết phải tăng cường quản lý sản xuất. Hạch toán kế toán ra đời và
phát triển nhằm đáp ứng đòi hỏi khách quan đó của bản thân quá trình sản xuất cũng như
của xã hội.
Hạch toán kế toán, thực chất là nghiên cứu tài sản trong mối quan hệ với nguồn
hình thành và quá trình vận động của tài sản trong các tổ chức, các đơn vị bằng hệ thống
các phương pháp nghiên cứu khoa học, bao gồm: phương pháp chứng từ, phương pháp đối
ứng tài khoản, phương pháp tính giá, phương pháp tổng hợp – cân đối kế toán.
Tổng hợp – cân đối kế toán là phương pháp khái quát tình hình tài sản, nguồn vốn,
kết quả kinh doanh và các mối quan hệ kinh tế khác thuộc đối tượng hạch toán trên những
mặt bản chất và trong các mối quan hệ cân đối vốn có của đối tượng hạch toán kế toán mà
bằng các phương pháp khác (chứng từ, tính giá, đối ứng tài khoản) không thể thực hiện
được. Hình thức biểu hiện cụ thể của phương pháp này là hệ thống các bảng tổng hợp cân
đối thường gọi là các Báo cáo kế toán. Tùy theo mục đích, đối tượng cung cấp thông tin,
Báo cáo kế toán được chia thành Báo cáo tài chính và Báo cáo quản trị.
Trong đó, Báo cáo tài chính là những báo cáo tổng hợp nhất về tình hình tài sản,
vốn chủ sở hữu và công nợ cũng như tình hình tài chính, kết quả kinh doanh trong kỳ của
doanh nghiệp. Nó là phương tiện trình bày khả năng sinh lợi và thực trạng tài chính cho
những người quan tâm, chủ yếu là các thành viên bên ngoài doanh nghiệp, qua một hệ
thống các chỉ tiêu có mối quan hệ chặt chẽ với nhau do Nhà nước quy định và mang tính
pháp lệnh.
Như vậy, Báo cáo tài chính được hình thành từ nhu cầu cung cấp thông tin tổng
quát, hữu ích về thực trạng của doanh nghiệp. Báo cáo tài chính là phương tiện nối doanh
nghiệp với các đối tượng quan tâm. Với ý nghĩa hết sức to lớn như vậy, việc lập và trình
bày Báo cáo tài chính là công việc không thể thiếu trong mỗi chu kỳ hoạt động của doanh
nghiệp.

1.1.3.2. Vai trò của Báo cáo tài chính
Trước năm 1986, Nhà nước thực hiện quản lý nền kinh tế theo cơ chế tập trung bao
cấp, các đơn vị chỉ duy nhất thực hiện điều hành tổ chức sản xuất kinh doanh theo đúng kế
hoạch nhận được mà không xuất phát từ tình hình thực tế của đơn vị mình. Do vậy, thông
tin trên các Báo cáo tài chính chỉ dùng để nhà nước kiểm tra công tác thực hiện kế hoạch
và Chế độ Kế toán thống kê của xí nghiệp. Báo cáo tài chính phục vụ cho một đối tượng
duy nhất, đó là Nhà nước. Chính vì vậy, đối tựong sử dụng Báo cáo tài chính và nhu cầu
thông tin kinh tế từ Báo cáo tài chính không đa dạng, phong phú, chưa thực sự hữu ích cho
quá trình kinh doanh của bản thân doanh nghiệp cũng như toàn bộ nền kinh tế.
Sau đại hội VI năm 1986, cùng với sự đổi mới cơ chế quản lý kinh tế sang cơ chế
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước, các doanh
nghiệp trong nền kinh tế trở thành những thực thể kinh doanh hàng hóa độc lập, tự tìm
kiếm các đối tác kinh doanh, tự chủ về mặt tài chính, tự quyết định phương hướng, xây
dựng kế hoạch và tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh theo nhu cầu thị trường trong
khuôn khổ luật pháp Nhà nước quy định. Do đó, trong mối ràng buộc giữa lợi ích kinh tế
và quan hệ pháp lý giữa các đối tượng tham gia kinh doanh trên thị trường, hoạt động của
một doanh nghiệp có thể ảnh hưởng tới rất nhiều đối tượng khác có quan hệ với họ, nên
nhu cầu cung cấp thông tin kinh tế dễ hiểu, đáng tin cậy, hợp pháp từ hệ thống Báo cáo tài
chính là một yêu cầu tất yếu đối với những đối tượng quan tâm.
Vai trò cung cấp thông tin của các Báo cáo tài chính là tương đương nhau. Các Báo
cáo tài chính được lập có mối quan hệ tương hỗ lẫn nhau. Các bộ phận cấu thành của các
báo cáo phản ánh theo các khía cạnh khác nhau của cùng một số các chỉ tiêu, sự kiện kinh
tế. Mỗi Báo cáo tài chính riêng biệt cung cấp cho người đọc một khía cạnh hữu ích khác
nhau nhưng không có loại báo cáo nào chỉ phục vụ cho một mục đích riêng biệt hoặc cung
cấp mọi thông tin cần thiết có thể đáp ứng mọi yêu cầu sử dụng. Khi xem xét, tìm kiếm
thông tin đòi hỏi phải có sự kết hợp giữa các Báo cáo tài chính. Đó chính là mối liên hệ hệ
thống của các Báo cáo tài chính.
Trong giai đoạn hiện nay, hệ thống Báo cáo tài chính được lập nhằm giúp những
người ra quyết định đánh giá chính xác thực trạng tài chính và tiềm năng của doanh
nghiệp, lựa chọn phương án kinh doanh tối ưu trên cơ sở đánh giá khả năng tạo ra các

dòng tiền mặt, khả năng sinh lời, khả năng thanh toán, mức lợi nhuận,… Bởi vậy, thông tin
từ hệ thống Báo cáo tài chính và phân tích Báo cáo tài chính có vai trò quan trọng đối với
nhiều phía cả trong và ngoài doanh nghiệp.
Đối với các chủ doanh nghiệp và các nhà quản trị doanh nghiệp, họ quan tâm đến
nhiều mục tiêu khác nhau: tạo công ăn, việc làm, nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm bớt
chi phí, đóng góp phúc lợi xã hội, bảo vệ môi trường,… Tuy nhiên, doanh nghiệp chỉ có
thể tồn tại nếu đảm bảo được 2 thử thách sống còn và cũng là 2 mục tiêu cơ bản: kinh
doanh có lãi và thanh toán công nợ. Như vậy, vì mục đích tồn tại và phát triển, hơn ai hết,
các chủ doanh nghiệp và các nhà quản trị doanh nghiệp phải có đủ thông tin, hiểu rõ doanh
nghiệp và liên kết các thông tin với nhau về mọi mặt: tình hình tài chính, khả năng sinh lợi,
đánh giá rủi ro,… Từ đó, các nhà quản lý có thể đưa ra những quyết định đúng đắn nhất,
hiệu quả nhất cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Đối với các chủ ngân hàng và các nhà cho vay tín dụng, mối quan tâm chủ yếu của
họ chủ yếu là hướng vào khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Vì vậy, họ đặc biệt chú ý đến
số lượng tiền và các tài sản khá có thể chuyển đổi thành tiền nhanh để dự đoán khả năng
thanh toán của doanh nghiệp. Ngoài ra, họ cũng rất quan tâm đến khả năng tự chủ về tài
chính, khả năng tạo lợi nhuận của doanh nghiệp, vì đây là khoản bảo hiểm trong trường
hợp doanh nghiệp gặp rủi ro và là cơ sở cho việc doanh nghiệp hoàn trả vốn và lãi vay dài
hạn.
Đối với các nhà cung cấp vật tư, thiết bị, hàng hóa, dịch vụ, họ cần căn cứ để đưa ra
quyết định có thể cho khách hàng nào đó được mua chịu hàng, thanh toán chậm hay không.
Tương tự các chủ ngân hàng và các nhà cho vay tín dụng, nhóm người này cũng cần phải
biết khả năng thanh toán hiện tại và tương lai của doanh nghiệp.
Đối với các nhà đầu tư, mối quan tâm của họ hướng vào các yếu tố như sự rủi ro,
thời gian hoàn vốn, mức sinh lãi, khả năng thanh toán,… cũng như hiệu quả của việc điều
hành hoạt động và công tác quản lý doanh nghiệp. Những điều trên cung cấp thông tin
nhằm đảm bảo sự an toàn và tính hiệu quả cho các đầu tư.
Các cơ quan Tài chính, cơ quan Thuế, cơ quan Thống kê, đơn vị chủ quản,… dựa
vào hệ thống Báo cáo tài chính và tài liệu phân tích, họ đánh giá, kiểm tra, kiểm soát tình
hình hoạt động của doanh nghiệp, tính đúng đắn trong công tác kế toán cũng như tính tuân

thủ luật pháp của doanh nghiệp.
Người lao động trong doanh nghiệp cũng quan tâm đến quy mô, khả năng hoạt
động của doanh nghiệp ở thời điểm hiện tại và trong tương lai để có cơ sở đảm bảo mức
sống của họ.
Nói tóm lại, tất cả các đối tượng quan tâm đến doanh nghiệp, những người có
quyền lợi và trách nhiệm liên quan đến doanh nghiệp, mặt này hay mặt khác đều cần thông
tin liên quan đến những khía cạnh riêng trong bức tranh tài chính của doanh nghiệp đó.
Thông tin từ Báo cáo tài chính qua phân tích Báo cáo tài chính đáp ứng được một cách tốt
nhất những yêu cầu trên. Qua đánh giá thường xuyên tình hình tài chính dựa trên các Báo
cáo tài chính, các nhà quản trị doanh nghiệp và những đối tượng khác có thể nắm rõ thực
trạng của doanh nghiệp, thấy được các nhân tố ảnh hưởng và mức độ ảnh hưởng của từng
nhân tố đến tình hình của doanh nghiệp. Từ đó, họ có thể có những quyết định tối ưu và đề
ra những biện pháp hữu hiệu nhằm ổn định và tăng cường, phát huy khả năng hoạt động
của doanh nghiệp. Với ý nghĩa quan trọng như vậy, lập và phân tích Báo cáo tài chính là
công việc nên được thực hiện một cách cẩn thận sau mỗi chu kỳ hoạt động của doanh
nghiệp.
1.2. Nguyên tắc và nội dung lập Báo cáo tài chính
1.2.1. Những vấn đề cơ bản về thủ tục và nguyên tắc lập Báo cáo tài chính
Các Báo cáo tài chính được lập nhằm mục tiêu cung cấp thông tin tài chính hữu ích
cho các đối tượng quan tâm đến tình hình kinh tế, tài chính của một doanh nghiệp đề ra các
quyết định kinh tế. Tuy nhiên, không phải mọi đối tượng đều am hiểu quy trình ghi nhận
dữ liệu và xử lý thông tin kế toán. Vì vậy, để đảm bảo tính hữu ích và dễ hiểu của thông tin
kế toán trên Báo cáo tài chính, Nhà nước đã đưa ra những thủ tục và nguyên tắc nhất định
cần phải tuân thủ trong việc lập và trình bày Báo cáo tài chính.
Các yêu cầu lập và trình bày Báo cáo tài chính
Theo Chuẩn mực kế toán Việt Nam số 21 – Trình bày Báo cáo tài chính, việc lập và
trình bày Báo cáo tài chính phải tuân thủ yêu cầu trình bày một cách trung thực và hợp lý
tình hình tài chính, tình hình và kết quả kinh doanh và các luồng tiền của doanh nghiệp. Cụ
thể, khi lập và trình bày các Báo cáo tài chính doanh nghiệp cần đáp ứng các yêu cầu:
- Trung thực, hợp lý.

- Lựa chọn và áp dụng các chính sách kế toán phù hợp với quy định của từng Chuẩn
mực kế toán. Trường hợp chưa có quy định ở chuẩn mực cũng như Chế độ kế toán hiện
hành thì doanh nghiệp phải căn cứ vào chuẩn mực chung để xây dựng các phương pháp kế
toán hợp lý nhằm đảm bảo Báo cáo tài chính cung cấp thông tin thích hợp với nhu cầu ra
các quyết định kinh tế của người sử dụng và cung cấp được các thông tin đáng tin cậy, khi:
• Trình bày trung thực, hợp lý tình hình tài chính, tình hình và kết quả kinh
doanh của doanh nghiệp.
• Phản ánh đúng bản chất kinh tế của các giao dịch và sự kiện không chỉ đơn
thuần là phản ánh hình thức hợp pháp của chúng.
• Trình bày khách quan không thiên vị.
• Tuân thủ nguyên tắc thận trọng.
• Trình bày đầy đủ trên mọi khía cạnh trọng yếu.
Ngoài ra, các Báo cáo tài chính phải cung cấp những thông tin bổ sung khi những
quy định trong Chuẩn mực kế toán không đủ để giúp cho người sử dụng hiểu được tác
động của những giao dịch hoặc những sự kiện cụ thể đến tình hình tài chính, tình hình và
kết quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Nguyên tắc lập và trình bày Báo cáo tài chính
Theo Chuẩn mực số 21 – Trình bày Báo cáo tài chính, khi lập và trình bày Báo cáo
tài chính phải tuân thủ những nguyên tắc sau:
Nguyên tắc hoạt động liên tục
Báo cáo tài chính phải được lập trên cơ sở giả định là doanh nghiệp đang hoạt động
liên tục và sẽ tiếp tục hoạt động kinh doanh bình thường trong tương lai gần, trừ khi doanh
nghiệp có ý định cũng như buộc phải ngừng hoạt động hoặc phải thu hẹp đáng kể quy mô
hoạt động của mình. Khi lập và trình bày Báo cáo tài chính, Giám đốc (hoặc người đứng
đầu) doanh nghiệp cần phải đánh giá về khả năng hoạt động liên tục của doanh nghiệp
bằng cách xem xét đến mọi thông tin có thể dự đoán được tối thiểu trong vòng 12 tháng tới
kể từ ngày kết thúc niên độ kế toán.
Khi đánh giá, nếu biết được có những điều không chắc chắn liên quan đến các sự
kiện hoặc các điều kiện có thể gây ra sự nghi ngờ lớn về khả năng hoạt động liên tục của
doanh nghiệp thì những điều đó phải được nêu rõ.

Nếu Báo cáo tài chính không được lập trên cơ sở hoạt động liên tục thì sự kiện này
cần được nêu rõ cùng với cơ sở dùng để lập Báo cáo tài chính và lý do khiến cho doanh
nghiệp không được coi là hoạt động liên tục.
Nguyên tắc cơ sở dồn tích
Doanh nghiệp phải lập báo cáo tài chính theo cơ sở kế toán dồn tích, ngoại trừ các
thông tin liên quan đến các luồng tiền.
Theo cơ sở kế toán dồn tích, các giao dịch và sự kiện được ghi nhận vào thời điểm
phát sinh, không căn cứ vào thời điểm thực thu, thực chi tiền và được ghi nhận vào sổ kế
toán và báo cáo tài chính của các kỳ kế toán liên quan. Các khoản chi phí được ghi nhận
vào Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh theo nguyên tắc phù hợp giữa doanh thu và chi
phí. Tuy nhiên, việc áp dụng nguyên tắc phù hợp không cho phép ghi nhận trên Bảng cân
đối kế toán những khoản mục không thoả mãn định nghĩa về tài sản hoặc nợ phải trả.
Nguyên tắc nhất quán
Nguyên tắc này yêu cầu việc trình bày và phân loại các khoản mục trong báo cáo tài
chính phải nhất quán từ niên độ này sang niên độ khác, trừ khi có sự thay đổi đáng kể về
bản chất các hoạt động của doanh nghiệp hoặc khi xem xét lại việc trình bày báo cáo tài
chính cho thấy rằng cần phải thay đổi để có thể trình bày một cách hợp lý hơn các giao
dịch và các sự kiện; hoặc một chuẩn mực kế toán khác yêu cầu có sự thay đổi trong việc
trình bày. Khi có thay đổi, thì doanh nghiệp phải phân loại lại các thông tin đảm bảo tính
so sánh của thông tin qua các thời kỳ và phải giải trình lý do và ảnh hưởng của sự thay đổi
đó trong phần VIII của Bản thuyết minh báo cáo tài chính.
Nguyên tắc trọng yếu và tập hợp
Theo nguyên tắc này, từng khoản mục trọng yếu phải được trình bày riêng biệt
trong báo cáo tài chính. Các khoản mục không trọng yếu thì không phải trình bày riêng rẽ
mà được tập hợp vào những khoản mục có cùng tính chất hoặc chức năng trong Báo cáo
tài chính hoặc trình bày trong Bản thuyết minh báo cáo tài chính.
Một thông tin được coi là trọng yếu nếu không trình bày hoặc trình bày thiếu chính
xác của thông tin đó có thể làm sai lệch đáng kể báo cáo tài chính, làm ảnh hưởng đến
quyết định kinh tế của người sử dụng báo cáo tài chính.
Tuy nhiên, có những khoản mục không được coi là trọng yếu để có thể được trình

bày riêng biệt trên báo cáo tài chính, nhưng lại được coi là trọng yếu để phải trình bày
riêng biệt trong phần thuyết minh báo cáo tài chính.
Theo nguyên tắc trọng yếu, doanh nghiệp không nhất thiết phải tuân thủ các quy
định về trình bày báo cáo tài chính của các chuẩn mực kế toán cụ thể nếu các thông tin đó
không có tính trọng yếu.
Nguyên tắc bù trừ
Nguyên tắc này đòi hỏi khi ghi nhận các giao dich kinh tế và các sự kiện để lập và
trình bày Báo cáo tài chính không được phép bù trừ tài sản và công nợ phải trả, do vậy,
doanh nghiệp phải trình bày riêng biệt tất cả các khoản mục tài sản và công nợ trên Báo
cáo tài chính. Đối với các khoản doanh thu, thu nhập khác và chi phí chỉ được bù trừ khi
được quy định tại một Chuẩn mực kế toán khác hoặc các khoản lãi, lỗ và chi phí liên quan
phát sinh từ các giao dịch và các sự kiện giống nhau hoặc tương tự và không có tính trọng
yếu. Các khoản này cần được tập hợp lại với nhau phù hợp với quy định của nguyên tắc
trọng yếu và tập hợp. Các tài sản và nợ phải trả, các khoản thu nhập và chi phí có tính
trọng yếu phải được báo cáo riêng biệt.
Nguyên tắc có thể so sánh
Các thông tin bằng số liệu trong Báo cáo tài chính nhằm để so sánh giữa các kỳ kế
toán phải được trình bày tương ứng với các thông tin bằng số liệu trong Báo cáo tài chính
của kỳ kế toán trước kể cả thông tin diễn giải bằng lời nếu cần thiết cho người sử dụng
hiểu rõ được Báo cáo tài chính của kỳ hiện tại.
Khi thay đổi cách trình bày hoặc cách phân loại các khoản mục trong Báo cáo tài
chính thì phải phân loại lại các số liệu so sánh nhằm đảm bảo khả năng so sánh với kỳ hiện
tại. Nếu không thể thực hiện được việc phân loại lại các số liệu tương ứng mang tính so
sánh thì doanh nghiệp cần phải nêu rõ lý do và tính chất của những thay đổi nếu việc phân
loại lại các số liệu được thực hiện.
Những quy định chung về Báo cáo tài chính doanh nghiệp
Tất cả các doanh nghiệp thuộc các ngành, các thành phần kinh tế đều phải lập và
trình bày Báo cáo tài chính theo quy định của Luật kế toán, Chuẩn mực kế toán và Chế độ
kế toán hiện hành cùng các thông tư hướng dẫn đi kèm.
Hệ thống Báo cáo tài chính hiện hành được quy định bao gồm 4 biểu mẫu. Ngoài

ra, tùy thuộc yêu cầu của mỗi doanh nghiệp mà lượng Báo cáo kế toán có thể tăng lên.
Báo cáo tài chính của tất cả các loại hình doanh nghiệp phải được lập cho từng kỳ
kế toán năm. Riêng đối với doanh nghiệp Nhà nước thì phải lập thêm Báo cáo tài chính
giữa niên độ vào cuối mỗi quý của năm tài chính (không bao gồm quý IV). Các doanh
nghiệp có thể lập theo kỳ kế toán khác theo yêu cầu của pháp luật, của công ty mẹ hoặc
của chủ sở hữu. Báo cáo tài chính phải được người lập, kế toán trưởng và đại diện pháp
luật của đơn vị ký, đóng dấu của đơn vị. Người ký Báo cáo tài chính phải chịu trách nhiệm
về nội dung của báo cáo. Giám đốc hoặc người đứng đầu doanh nghiệp chịu trách nhiệm
về lập, trình bày Báo cáo tài chính.
Kỳ kế toán năm là năm dương lịch hoặc kỳ kế toán năm là 12 tháng tròn sau khi
thông báo cho cơ quan Thuế. Trường hợp đặc biệt, doanh nghiệp được phép thay đổi ngày
kết thúc kỳ kế toán năm dẫn đến việc lập Báo cáo tài chính cho một niên độ kế toán có thể
dài hơn hoặc ngắn hơn một năm dương lịch nhưng không được vượt quá 15 tháng. Khi đó,
doanh nghiệp phải nêu rõ trong Bản thuyết minh báo cáo tài chính, phần VIII. Những
thông tin khác về:
- Lý do phải thay đổi ngày kết thúc kỳ kế toán năm.
- Các thông tin so sánh kỳ này, kỳ trước và phải được điều chỉnh cho phù hợp với
kỳ báo cáo của niên độ báo cáo kỳ này.
Thời hạn nộp Báo cáo tài chính được quy định tại điều 31 Luật kế toán và điều 20
Nghị định kế toán đối với các loại hình doanh nghiệp, cụ thể như sau:
Đối với doanh nghiệp Nhà nước
Đơn vị kế toán phải nộp Báo cáo tài chính chậm nhất 30 ngày kể từ ngày kết thúc
kỳ báo cáo (đối với Báo cáo tài chính năm), 20 ngày (đối với Báo cáo tài chính quý). Tổng
công ty Nhà nước chậm nhất là 90 ngày (Báo cáo tài chính năm), 45 ngày (Báo cáo tài
chính quý).
Đơn vị kế toán trực thuộc tổng công ty Nhà nước phải nộp báo cáo năm, quý cho
tổng công ty theo thời hạn do tổng công ty quy định.
Đối với các loại hình doanh nghiệp khác
Đơn vị kế toán là doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp danh phải nộp Báo cáo tài
chính năm chậm nhất là 30 ngày, kể từ ngày kết thúc kỳ kế toán năm.

Đối với các đơn vị kế toán khác, thời hạn nộp Báo cáo tài chính năm chậm nhất là
90 ngày.
Đơn vị kế toán trực thuộc nộp Báo cáo tài chính năm cho đơn vị kế toán cấp trên
theo thời hạn do đơn vị kế toán cấp trên quy định.
Báo cáo tài chính của đơn vị kế toán phải nộp cho cơ quan Thuế, cơ quan Thống kê,
cơ quan đăng ký kinh doanh và cơ quan khác theo quy định. Đối với doanh nghiệp Nhà
nước còn phải nộp Báo cáo tài chính cho cơ quan Tài chính cùng cấp, đơn vị kế toán trực
thuộc còn phải nộp Báo cáo tài chính cho đơn vị kế toán cấp trên.
Để đảm bảo chất lượng thông tin cung cấp ra ngoài, các Báo cáo tài chính phải
được xác định bởi một bộ phận kiểm toán độc lập. Điều này được quy định rõ trong điều
34 Luật kế toán như sau:
- Báo cáo tài chính năm của đơn vị kế toán mà pháp luật quy định phải kiểm toán
thì phải được kiểm toán trước khi nộp cho cơ quan Nhà nước có thẩm quyền và trước khi
công khai.
- Đơn vị kế toán khi được kiểm toán thì phải tuân thủ đầy đủ các quy định của pháp
luật về kiểm toán.
- Báo cáo tài chính đã được kiểm toán khi nộp cho cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền thì phải có báo cáo kiểm toán đính kèm.
Báo cáo tài chính phải được lập và gửi kịp thời. Đây là yêu cầu có tính nguên tắc,
có như vậy, các thông tin hữu ích mới được sử dụng tổng hợp, phân tích, đánh giá kịp thời;
quyết định kinh tế được đưa ra đảm bảo tính thời sự, góp phần định hướng đúng đắn cho
doanh nghiệp trong kinh doanh, phát huy và khai thác kịp thời những tiềm năng, những cơ
hội trong kinh doanh của doanh nghiệp.
1.2.2. Nội dung cơ bản của các Báo cáo tài chính hiện hành
Hệ thống Báo cáo tài chính hiện hành thực hiện theo Chế độ Kế toán doanh nghiệp
ban hành tại Quyết định số 15/2006/QĐ-BTC ngày 20/03/2006 của Bộ trưởng Bộ tài chính
áp dụng cho tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi lĩnh vực, mọi thành phần kinh tế trong cả
nước từ năm tài chính 2006, bao gồm Báo cáo tài chính năm và Báo cáo tài chính giữa
niên độ. Hệ thống Báo cáo năm gồm có 4 biểu mẫu Báo cáo:
• Bảng cân đối kế toán, mẫu số B01 – DN.

• Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, mẫu số B02 – DN.
• Báo cáo lưu chuyển tiền tệ, mẫu số B03 – DN.
• Bản thuyết minh Báo cáo tài chính, mẫu số B09 – DN.
Trong quá trình kinh doanh nếu thấy cần thiết, các doanh nghiệp có thể bổ sung, sửa
đổi hoặc chi tiết các chỉ tiêu cho phù hợp với đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp nhưng phải được Bộ tài chính chấp thuận bằng văn bản.
Ngoài ra, để phục vụ yêu cầu quản lý kinh tế - tài chính, yêu cầu chỉ đạo, điều hành,
các doanh nghiệp có thể quy định thêm các báo cáo chi tiết khác. Đối với các doanh nghiệp
vừa và nhỏ vẫn tuân thủ các quy định chung còn những quy định, hướng dẫn cụ thể được
trình bày tại Chế độ kế toán doanh nghiệp vừa và nhỏ.
 Bảng cân đối kế toán: (Phụ lục 01: Bảng cân đối kế toán theo mẫu B01- DN của Quyết
định số 15/2006/QĐ-BTC ngày 20/03/2006 của Bộ trưởng Bộ tài chính)
Bảng cân đối kế toán là một Báo cáo tài chính phản ánh tổng quát tình hình tài sản
của doanh nghiệp theo giá trị tài sản và nguồn hình thành tài sản tại một thời điểm nhất
định. Theo quy định, thời điểm này là ngày cuối cùng của kỳ báo cáo. Số liệu trên Bảng
cân đối kế toán cho biết toàn bộ tài sản hiện có của doanh nghiệp theo cơ cấu tài sản và
nguồn hình thành tài sản đó.
Bảng cân đối kế toán được kết cấu dưới dạng bảng cân đối số dư các tài khoản và
sắp xếp trật tự các chỉ tiêu theo yêu cầu quản lý. Bảng cân đối kế toán được chia làm 2
phần: Tài sản và Nguồn vốn, có thể kết cấu theo kiểu 2 bên (Tài sản bên trái, Nguồn vốn
bên phải) hoặc kết cấu một bên (Tài sản phía trên, Nguồn vốn bên dưới).
Xét theo thời gian luân chuyển của tài sản, toàn bộ tài sản của doanh nghiệp được
chia thành 2 loại: Tài sản ngắn hạn và Tài sản dài hạn, được trình bày thành 2 phần trong
phần tài sản trên Bảng cân đối kế toán.
Phần nguồn vốn: phản ánh nguồn hình thành các loại tài sản của doanh nghiệp đến
cuối kỳ báo cáo. Các chỉ tiêu nguồn vốn thể hiện trách nhiệm pháp lý của doanh nghiệp về
số tài sản đang quản lý và sử dụng đối với nhà nước, cấp trên, các nhà đầu tư, các cổ đông,
ngân hàng, các tổ chức tín dụng, khách hàng, các đơn vị kinh tế khác, công nhân viên,…
Nguồn vốn được chia thành 2 loại: nợ phải trả và vốn chủ sở hữu.
Ngoài các chỉ tiêu trong phần chính, Bảng cân đối kế toán còn phản ánh các chỉ tiêu

ngoài bảng như: Tài sản thuê ngoài, ngoại tệ các loại, … Đây là những chỉ tiêu phản ánh
những tài sản tạm thời để ở doanh nghiệp nhưng không thuộc quyền sở hữu của doanh
nghiệp hoặc một số chỉ tiêu kinh tế đã được phản ánh ở các tài khoản trong Bảng cân đối
kế toán nhưng cần theo dõi để phục vụ yêu cầu quản lý.
 Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh (Phụ lục 02: Báo cáo kết quả hoạt động kinh
doanh theo mẫu B02 - DN của Quyết định số 15/2006/QĐ-BTC ngày 20/03/2006 của Bộ
trưởng Bộ tài chính)
Là báo cáo tài chính tổng hợp, phản ánh tổng quát tình hình và kết quả kinh doanh
trong một kỳ kế toán của doanh nghiệp, chi tiết theo hoạt động kinh doanh (hoạt động bán
hàng và cung cấp dịch vụ và hoạt động tài chính) và hoạt động khác.
 Báo cáo lưu chuyển tiền tệ (Phụ lục 03: Báo cáo lưu chuyển tiền tệ theo mẫu B03 - DN
của Quyết định số 15/2006/QĐ-BTC ngày 20/03/2006 của Bộ trưởng Bộ tài chính)
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ là Báo cáo tài chính tổng hợp phản ánh việc hình thành
và sử dụng lượng tiền phát sinh trong kỳ báo cáo của doanh nghiệp. Nó cung cấp các thông
tin về luồng tiền vào chủ yếu (từ hoạt động kinh doanh, bán tài sản, vay, nợ phải trả, đầu tư
của chủ sở hữu,…) và luồng tiền ra chủ yếu (quá trình hoạt động kinh doanh, mở rộng hoạt
động, thanh toán công nợ hay phân chia cho các chủ sở hữu,…) trong một kỳ nhất định.
Các thông tin này phục vụ cho việc giải thích, đánh giá các việc đầu tư và huy động vốn
quan trọng của một doanh nghiệp.
Nội dung của Báo cáo lưu chuyển tiền tệ là trình bày các khoản thu và chi của một
doanh nghiệp trong kỳ báo cáo trên cả 3 hoạt động: kinh doanh, đầu tư và tài chính theo
cách thức phù hợp với đặc điểm kinh doanh của doanh nghiệp. Việc phân loại như vậy
giúp cho người đọc báo cáo có thể đánh giá được sự ảnh hưởng của mỗi hoạt động tới tình
hình tài chính, tới lượng tiền và khoản tương đương tiền tạo ra trong kỳ kinh doanh và
cũng có thể dùng để đánh giá các mối quan hệ giữa các hoạt động nêu trên.
 Bản thuyết minh báo cáo tài chính (Phụ lục 04: Bản thuyết minh báo cáo tài chính theo
mẫu B09 - DN của Quyết định số 15/2006/QĐ-BTC ngày 20/03/2006 của Bộ trưởng Bộ
tài chính)
Bản thuyết minh báo cáo tài chính là một bộ phận hợp thành hệ thống Báo cáo tài
chính của doanh nghiệp, nhằm mục đích giải thích, bổ sung, thuyết minh những thông tin,

số liệu đã được trình bày trong Bảng cân đối kế toán, Báo cáo kết quả hoạt động kinh
doanh, Báo cáo lưu chuyển tiền tệ và các thông tin cần thiết khác theo yêu cầu của các

×