Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (230.22 KB, 32 trang )

CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP
1.1.Tổng quan về tài chính doanh nghiệp
1.1.1. Khái niệm
Tài chính doanh nghiệp được hiểu là các mối quan hệ về mặt giá trị được
biểu hiện bằng tiền trong lòng một doanh nghiệp và giữa nó với các chủ thể có liên
quan ở bên ngoài mà trên cơ sở đó giá trị của doanh nghiệp được tạo lập.
Các quan quan hệ tài chính chủ yếu bao gồm:
Thứ nhất: Quan hệ giữa doanh nghiệp với Nhà nước.
Tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế phải thực hiện các
nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước (nộp thuế cho ngân sách Nhà nước). Ngân
sách nhà nước cấp vốn cho doanh nghiệp nhà nứơc và có thể góp vốn với công ty
liên doanh hoặc cổ phiếu (mua cổ phiếu) hoặc cho vay (mua trái phiếu) tuỳ theo
mụch đích yêu cầu quản lý đối với ngành kinh tế mà quyết định tỷ lệ góp vốn cho
vay nhiều hay ít.
Thứ hai: Quan hệ giữa doanh nghiệp với các chủ thể kinh tế khác.
Từ sự đa dạng hoá hình thức sở hữu trong nền kinh tế thị trường, đã tạo ra các
mối quan hệ kinh tế giữa doanh nghiệp với các doanh nghiệp khác (doanh nghiệp
cổ phần hay tư nhân), giữa doanh nghiệp với các nhà đầu tư, cho vay, với bạn hàng
và khách hàng thông qua việc hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ trong hoạt
động sản xuất - kinh doanh các doanh nghiệp bao gồm các quan hệ thanh toán tiền
mua bán vật tư, hàng hoá phí bảo hiểm, chi trả tiền công, cổ tức, tiền lãi trái phiếu:
giữa doanh nghiệp với ngân hàng, các tổ chức tín dụng phát sinh trong quá trình
doanh nghiệp vay và hoàn trả vốn, trả lãi cho ngân hàng, các tổ chức tín dụng.
Thứ ba: Quan hệ trong nội bộ doanh nghiệp.
Gồm quan hệ kinh tế giữa doanh nghiệp với các phòng ban, phân xưởng và tổ
đội sản xuất trong việc nhận tạm ứng, thanh toán tài sản, vốn liếng.
Gồm quan hệ kinh tế giữa doanh nghiệp với cán bộ công nhân viên trong quá
trình phân phối thu nhập cho lao động dưới hình thức tiền lương, tiền thưởng, tiền
phạt và lãi cổ phần.
Những quan hệ kinh tế trên được biểu hiện trong sự vận động của tiền tệ
thông qua việc hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ, vì vậy thường được xem là


các quan hệ tiền tệ. Những quan hệ này một mặt phản ánh rõ doanh nghiệp là một
đơn vị kinh tế độc lập, chiếm địa vị chủ thể trong quan hệ kinh tế, đồng thời phản
ánh rõ nét mối liên hệ giữa tài chính doanh nghiệp với các khâu khác trọng hệ
thống tài chính nước ta.
Tài chính doanh nghiệp có các chức năng sau: Chức năng tạo vốn, luân
chuyển vốn; chức năng phân phối thu nhập bằng tiền; chức năng kiểm tra.
1.1.2. Vị trí, vai trò tài chính doanh nghiệp
Tài chính doanh nghiệp là một bộ phận cấu thành của hệ thống tài chính quốc
gia và là khâu cơ sở của hệ thống tài chính.
Nếu xét trên phạm vi của một đơn vị sản xuất – kinh doanh thì tài chính doanh
nghiệp được coi là một trong những công cụ quan trọng để quản lý sản xuất – kinh
doanh của đơn vị. Bởi mọi mục tiêu, phương hướng sản xuất kinh doanh chỉ có thể
thực hiện được trên cơ sở phát huy tốt các chức năng của tài chính doanh nghiệp từ
việc xác định nhu cầu vốn cho sản xuất – kinh doanh tạo nguồn tài chính để đáp ứng
nhu cầu đã xác định khi có đủ vốn phải tổ chức sử dụng hợp lý, tiết kiệm và có hiệu
quả xác định giá thành đồng vốn đến việc phải theo dõi, kiểm tra, quản lý chặt chẽ
các chi phí sản xuất - kinh doanh theo dõi tình hình tiêu thụ sản phẩm, tính toán bù
đắp chi phí sử dụng đòn bảy tài chính kích thước, nâng cao hiệu quả sản xuất - kinh
doanh thông qua việc phân phối lợi nhuận của doanh nghiệp cho người lao động
trong doanh nghiệp.
Nếu xét trên góc độ của hệ thống tài chính nước ta thì tài chính doanh nghiệp
được coi là một bộ phận của hệ thống tài chính, trong đó ngân sách nhà nước giữ
vai trò chủ đạo, các định chế tài chính trung gian (hệ thống tín dụng, hệ thống bảo
hiểm) có vai trò hỗ trợ tài chính các tổ chức xã hội và hộ dân cư bổ sung nhằm
tăng nguồn lực tài chính cho nền kinh tế, còn tài chính doanh nghiệp là khâu cơ sở
của hệ thống. Sự hoạt động có hiệu quả của tài chính doanh nghiệp có tác dụng
củng cố hệ thống tài chính quốc gia.
Tài chính doanh nghiệp bao gồm: tài chính của các đơn vị, tổ chức sản xuất -
kinh doanh hàng hoá và cung ứng dịch vụ thuộc mọi thành phần kinh tế.
Tài chính doanh nghiệp có những vai trò sau đây:

- Tài chính doanh nghiệp là một công cụ khai thác thu hút các nguồn tài chính
nhằm đảm bảo nhu cầu vốn cho đầu tư kinh doanh của doanh nghiệp.
- Tài chính doanh nghiệp có vai trò trong việc sử dụng vốn tiết kiệm và có
hiệu quả.
- Tài chính doanh nghiệp được sử dụng như một công cụ để kích thích, thúc
đẩy sản xuất kinh doanh.
- Tài chính doanh nghiệp là một công cụ quan trọng để kiểm tra các hoạt động
sản xuất của doanh nghiệp.
1.1.3. Các báo cáo tài chính doanh nghiệp
Báo cáo tài chính là một trong các báo cáo được lập dựa vào phương pháp
kế toán tổng hợp số liệu từ các sổ sách kế toán, theo các chỉ tiêu tài chính phát sinh
tại những thời điểm hoặc những thời kỳ nhất định. Các báo cáo tài chính phản ánh
một cách hệ thống tình hình tài sản của đơn vị tại những thời điểm, kết quả hoạt
động kinh doanh và tình hình sử dụng vốn trong những thời kỳ nhất định; đồng
thời được giải trình, giúp cho các đối tượng sử dụng thông tin tài chính nhận biết
được thực trạng tài chính, tình hình sản xuất kinh doanh của dơn vị để đề ra các
quyết định phù hợp.
Hệ thống các báo cáo tài chính ở nước ta bao gồm:
- Bảng cân đối kế toán. Mẫu B.01- DN.
- Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh. Mẫu số B.02 – DN.
- Báo cấo lưu chuyển tiền tệ. Mẫu số B.03 – DN.
- Bản thuyết minh các báo cáo tài chính. Mẫu số B.09 – DN.
1.1.3.1.Bảng cân đối kế toán (BCĐKT)
BCĐKT là báo cáo tổng hợp, cho biết tình hình tài chính của doanh nghiệp
tại những thời điểm nhất định.
Kết cấu của bảng được chia thành 2 phần : tài sản và nguồn vốn, được trình
bầy dưới dạng 1 phía (bảng cân đối báo cáo) hoặc 2 phía (bảng cân đối kế toán).
Bảng cân đối kế toán cung cáp thông tin tài chính chủ yếu phục vụ cho công
tác tài chính của công ty. Đây là báo cáo tài chính phản ánh tương đối trung thực và
chính xác tình hình tài sản và nguồn hình thành tài sản của công ty.

1.1.3.2. Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh
Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh là báo cáo tổng hợp cho biết tình hình
tài chính của doanh nghiệp tại những thời kỳ nhất định. Đó là kết quả hoạt động
sản xuất, kinh doanh của toàn doanh nghiệp, kết quả hoạt động theo từng loại hoạt
động kinh doanh ( sản xuất, kinh doanh; đầu tư tài chính; hoạt động bất thường).
Ngoài ra, báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh còn cho biết tình hình thực hiện
nghĩa vụ đối với Nhà nước của doanh nghiệp trong kỳ kinh doanh đó.
Dựa vào số liệu trên báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, người sử dụng
thông tin có thể kiểm tra, phân tích và đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp trong kỳ; so sánh với các kỳ trước và với các doanh nghiệp khác
cùng ngành để nhận biết khái quát kết quả hoạt động của doanh nghiệp trong kỳ và
xu hướng vận động, nhằm đưa ra các quyết định quản lý, quyết định tài chính phù
hợp.
1.1.3.3. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ (BCLCTT)
BCLCTT là một trong bốn báo cáo tài chính bắt buộc mà bất kỳ một doanh
nghiệp nào cũng phải lập để cung cấp cho người sử dụng thông tin của doanh
nghiệp. Nếu BCĐKT cho biết những nguồn lực của cải (tài sản) và nguồn gốc của
những tài sản đó; và báo cáo kết quả kinh doanh cho biết thu nhập và chi phí phát
sinh để tính được kết quả lãi, lỗ trong một kỳ kinh doanh, thì BCLCTT được lập để
trả lời các vấn đề liên quan đến các luồng tiền vào, ra trong doanh nghiệp, tình
hình tài trợ, đầu tư bằng tiền của doanh nghiệp trong từng thời kỳ.
BCLCTT cung cấp những thông tin cần thiết về những luồng vào, ra của tiền
và coi như tiền, những khoản đầu tư ngắn hạn có tính lưu động cao, có thể nhanh
chóng và sẵn sàng chuyển đổi thành một khoản tiền biết trước ít chịu rủi ro lỗ về
giá trị do những sự thay đổi về lãi xuất. Những luồng vào, ra của tiền và các khoản
coi như tiền được tổng hợp và chia thành 3 nhóm: lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động
sản xuất kinh doanh; lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động đầu tư và lưu chuyển tiền tệ
từ hoạt động tài chính và được lập theo phương pháp trực tiếp hoặc gián tiếp, kết
cấu BCLCTT được khái quát theo biểu sau:
Những thông tin từ BCLCTT và những thông tin ở báo cáo tài chính khác ,

giúp cho người sử dụng phân tích, đánh giá khả năng tạo ra các luồng tiền trong
tương lai, khả năng thanh toán các khoản nợ, khả năng chi trả tiền lãi cổ phần...
Đồng thời những tin này còn giúp cho người sử dụng nó xem xét sự khác nhau
giữa lãi thu được và các khoản thu chi bằng tiền.
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ phản ánh 3 mục thông tin chủ yếu.
- Lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động đầu tư.
- Lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động tài chính.
1.1.3.4. Thuyết minh báo cáo tài chính
Thuyết minh các báo cáo tài chính lập được nhằm cung cấp các thông tin về
tình hình sản xuất, kinh doanh chưa có trong hệ thống các báo cáo tài chính, đồng
thời giải thích thêm một số chỉ tiêu mà trong các báo cáo tài chính chưa được
trình bầy, giải thích một cách rõ ràng và cụ thể.
Mẫu thuyết minh các báo cáo tài chính có thể do nhà nước qui định, có thể
một phần do doanh nghiệp lập để tiện cho công tác quản lý và phân tích tài chính
doanh nghiệp.
1.1.4. Các chỉ tiêu phản ánh tình hình tài chính doanh nghiệp
1.1.4.1. Nhóm chỉ tiêu an toàn tài chính
a. Khả năng thanh toán hiện hành (Curent Ratio)
Chỉ tiêu này cho biết khả năng thanh toán đáp ứng các khoản nợ đến hạn
của doanh nghiệp là cao hay thấp (phải thanh toán trong vòng 1 năm hay 1 chu kỳ
kinh doanh). Tính hợp lý của độ lớn hệ số thanh toán ngắn hạn phụ thuộc vào
ngành nghề kinh doanh. Hệ số này nói lên doanh nghiệp có bao nhiêu đồng tài sản
có thể chuyển đổi để đảm bảo có thể thanh toán một đồng nợ đến hạn trả. Nếu hệ
số này cao điều đó chứng tỏ doanh nghiệp luôn sẵn sàng thanh toán các khoản nợ
và ngược lại. Tuy nhiên hệ số này quá cao sẽ làm giảm hiệu quả sử dụng vốn vì
doanh nghiệp đã đầu tư quá nhiều vào tài sản lưu động. Qua thực tế chúng ta thấy
thường hệ số này bằng hoặc lớn hơn bằng 2 là tốt hơn.
Khả năng thanh toán hiện thời =
Tài sản lưu động và ĐTNH

Tổng nợ ngắn hạn
b. Khả năng thanh toán nhanh (Quick Ratio)
Khả năng thanh toán nhanh là mối quan hệ giữa số tài sản dùng để thanh
toán nhanh với tổng số nợ ngắn hạn của đơn vị.
Khả năng thanh toán nhanh =
TSLĐ và ĐTNH – Hàng tồn kho
Tổng nợ ngắn hạn
Nếu tỷ lệ này quá nhỏ thì doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn trong việc thanh
toán công nợ. Tuy nhiên, độ lớn của tỷ lệ này cũng phụ thuộc vào ngành nghề kinh
doanh và kỳ hạn thanh toán các món nợ phải thu, phải trả trong kỳ.
c. Khả năng thanh toán lãi vay:
Lãi vay phải trả là khoản chi phí cố định, nguồn để trả lãi vay là lợi nhuận
gộp sau khi đã trừ đi chi phí quản lý kinh doanh và chi phí bán hàng. So sánh giữa
nguồn để trả lãi với lãi vay phải trả cho chúng ta biết doanh nghiệp đã sẵn sàng trả
tiền lãi vay tới mức nào.
Hệ số này dùng để đo lường mức độ lợi nhuận có được do sử dụng vốn để
đảm bảo trả lãi cho chủ nợ. Nói cách khác, hệ số thanh toán lãi vay cho chúng ta
biết được số vốn đi vay đã sử dụng tốt tới mức nào và đem lại một khoản lợi nhuận
là bao nhiêu, có đủ bù đắp lãi vay không.
Khả năng thanh toán lãi vay =
Lợi nhuận trước lãi vay và thuế
Lãi vay
1.1.4.2. Nhóm chỉ tiêu sinh lợi
a. Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu (ROS)
Tỷ số này cho biết cứ 100 đồng doanh thu thuần có bao nhiêu đồng lợi
nhuận sau thuế. Tỷ số càng lớn thì khả năng sinh lợi của công ty càng cao và
ngược lại. Sự biến động của tỷ số này phản ánh sự biến động về hiệu quả
Tỷ số lợi nhuận trên
doanh thu
=

Lợi nhuận sau thuế
Doanh thu
b. Tỷ suất sinh lợi của tài sản (ROA)
Chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lợi của 100 đồng giá trị tài sản bình quân
mà doanh nghiệp đã huy động vào sản xuất kinh doanh có khả năng tạo ra bao
nhiêu đồng lợi nhuận. Tỷ số này càng cao thể hiện sự sắp xếp phân bổ và quản lý
tài sản càng hợp lý và hiệu quả. Nhà nước, chủ nợ, cổ đông rất quan tâm tới chỉ số
này
Tỷ suất sinh lợi của tài sản (ROA) =
Lãi ròng
Tổng tài sản bình quân
c. Suất sinh lợi của vốn chủ sở hữu (ROE – Return On Equip )
Hệ số này phản ánh khả năng sinh lợi của 100 đồng vốn chủ sở hữu tham gia
tạo ra bao nhiêu đồng lãi ròng. Chủ sở hữu doanh nghiệp rất quan tâm tới hiệu quả
sử dụng vốn chủ sở hữu. Nếu chỉ tiêu này cao, sẽ thu hút được các nhà đầu tư, cho
phép doanh nghiệp mở rộng vốn và đảm bảo lợi ích của chủ doanh nghiệp. Vốn
chủ sở hữu là một phần của tổng nguồn vốn, hình thành nên tài sản. Suất sinh lợi
của vốn chủ sở hữu lệ thuộc vào suất sinh lợi của tài sản.
Suất sinh lợi của vốn chủ sở hữu (ROE) =
Lãi ròng
Vốn chủ sở hữu bình quân
1.1.4.3 Nhóm chỉ tiêu hoạt động
a. Năng suất sử dụng tổng tài sản
Chỉ tiêu này cho thấy hiệu quả sử dụng toàn bộ các loại tài sản của doanh
nghiệp. Nó thể hiện 100 đồng tài sản bình quân tham gia vào quá trình sản xuất
kinh doanh đã thu được bao nhiêu đồng doanh thu thuần. Sức sản xuất của tổng tài
sản càng lớn hiệu quả sử dụng tổng tài sản càng tăng và ngược lại
Năng suất sử dụng của tổng tài sản =
Tổng doanh thu thuần
Tổng tài sản bình quân

b. Năng suất sử dụng tài sản cố định
Phản ánh 100 đồng tài sản cố định bình quân tạo ra bao nhiêu đồng doanh
thu thuần. Tỷ số này cao phản ánh tình hình giá trị tài sản cố định chuyển dịch
nhanh vào giá trị sản phẩm, sớm hoàn thành kỳ luân chuyển vốn. Nếu tỷ số này
thấp chứng tỏ việc đầu tư tài sản cố định không hợp lý, vốn ứ đọng.
Năng suất sử dụng tài sản
cố định
=
Doanh thu thuần
Tài sản cố định bình quân
c. Năng suất sử dụng tài sản lưu động
Phản ánh 100 đồng tài sản lưu động bình quân tạo ra bao nhiêu đồng doanh
thu thuần. Tỷ số này cao phản ánh tình hình hoạt động của doanh nghiệp đã tạo ra
mức doanh thu cao và ngược lại.
Năng suất sử dụng tài sản
lưu động
=
Doanh thu thuần
Tài sản lưu động bình quân
d. Vòng quay hàng tồn kho (Inventory Turnover)
Số vòng quay hàng tồn kho là số lần mà hàng hoá tồn kho bình quân luân
chuyển trong kỳ. Số vòng quay hàng tồn kho càng cao thì việc kinh doanh được
đánh giá càng tốt bởi lẽ doanh nghiệp chỉ đầu tư cho hàng tồn kho thấp nhưng vẫn
đạt được doanh số cao.
Vòng quay hàng tồn kho =
Giá vốn hàng bán
Hàng tồn kho bình quân
e. Kỳ thu nợ (Collection Period)
Kỳ thu nợ bình quân hay thời gian thu tiền bình quân là số ngày của một
vòng quay các khoản phải thu, nhằm đánh giá việc quản lý của công ty đối với các

khoản phải thu do bán chịu
Kỳ thu nợ bình quân =
Nợ phải thu bình quân
Doanh thu/360
1.1.5. Các nhân tố ảnh hưởng chỉ tiêu tài chính doanh nghiệp
1.1.5.1. Những nhân tố bên trong doanh nghiệp
Những yếu tố bên trong là những yếu tố mang tính chủ quan của các doanh
nghiệp. Trong phạm vi nghiên cứu ta chỉ xem xét các yếu tố ảnh hưởng tới chỉ
tiêu tài chính ở doanh nghiệp. Có thể dễ dàng nhận biết một số nhân tố như:
a. Hình thức pháp lý của tổ chức doanh nghiệp
Theo hình thức pháp lý tổ chức doanh nghiệp hiện hành, ở nước ta hiện có các
loại hình doanh nghiệp chủ yếu sau đây:
- Doanh nghiệp Nhà nước
- Công ty cổ phần
- Công ty trách nhiệm hữu hạn
- Doanh nghiệp tư nhân
- Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Những đặc điểm riêng về mặt hình thức pháp lý tổ chức doanh nghiệp giữa
các doanh nghiệp trên có ảnh hưởng lớn đến chỉ tiêu tài chính doanh nghiệp như
việc tổ chức, huy động vốn, sản xuất kinh doanh, việc phân phối lợi nhuận.
* Doanh nghiệp Nhà nước
Doanh nghiệp Nhà nước là một tổ chức kinh tế thuộc sở hữu Nhà nước, do
Nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc
hoạt động công ích, nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế – xã hội do Nhà nước
giao.
Doanh nghiệp Nhà nước được ngân sách nhà nước đầu tư toàn bộ hoặc một
phần vốn điều lệ ban đầu nhưng không thấp hơn tổng mức vốn pháp định của các
ngành nghề mà doanh nghiệp đó kinh doanh. Ngoài số vốn Nhà nước đầu tư,
doanh nghiệp được quyền huy động vốn dưới các hình thức như phát hành trái
phiếu, vay vốn, nhận góp liên doanh và các hình thức khác, nhưng không được làm

thay đổi hình thức sở hữu của doanh nghiệp. Việc phân phối lợi nhuận sau thuế (lợi
nhuận sau khi nộp thuế thu nhập doanh nghiệp) được thực hiện theo quy định của
Chính phủ.
* Công ty cổ phần
Công ty cổ phần là một công ty trong đó các thành viên cùng góp vốn dưới
hình thức cổ phần để hoạt động. Số vốn điều lệ của nó được chia thành nhiều phần
bằng nhau được gọi là cổ phần.
Hoạt động kinh doanh của công ty cổ phần có đặc điểm:
+ Công ty cổ phần là một thực thể pháp lý có tư cách pháp nhân, các thành
viên góp vốn vào công ty dưới hình thức mua cổ phiếu. Trong quá trình hoạt động,
công ty có thể phát hành thêm cổ phiếu mới để huy động thêm vốn (nếu có đủ các
điều kiện quy định), điều đó tạo cho công ty có thể dễ dàng tăng thêm vốn chủ sở
hữu trong kinh doanh.
+ Các chủ sở hữu có thể chuyển quyền sở hữu về tài sản của mình cho người
khác mà không làm gián đoạn các hoạt động kinh doanh của công ty và có quyền
được hưởng lợi tức cổ phần, quyền biểu quyết, quyền tham dự và bầu Hội đồng
quản trị.
+ Quyền phân chia lợi tức sau thuế thuộc các thành viên của công ty quyết
định.
+ Chủ sở hữu của công ty chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn trên phần vốn mà họ
đã góp vào công ty.
*. Công ty trách nhiệm hữu hạn
Công ty trách nhiệm hữu hạn là một loại công ty có ít nhất hai thành viên góp
vốn để thành lập và họ cũng chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn trên phần vốn đã góp
vào công ty. Đây cũng là ưu thế của công ty trách nhiệm hữu hạn so với loại hình
doanh nghiệp tư nhân.
Vốn điều lệ của công ty do các thành viên đóng góp, có thể bằng tiền (tiền
Việt Nam hoặc ngoại tệ), bằng tài sản hoặc bản quyền sở hữu công nghiệp. Các
phần vốn góp có thể không bằng nhau. Trong quá trình hoạt động, để tăng thêm
vốn, công ty có thể thực hiện bằng cách kết nạp thêm thành viên mới. Đây cũng là

điểm thuận lợi cho công ty khi mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh.
Ngoài phần vốn góp của các thành viên, công ty có thể sử dụng các hình thức
khác để huy động vốn từ bên ngoài hoặc kết nạp thành viên mới, hoặc trích từ quỹ
dự trữ nhưng không được phép phát hành bất cứ loại chứng khoán nào.
Việc chuyển nhượng phần vốn góp giữa các thành viên được thực hiện tự do,
còn việc chuyển nhượng phần vốn góp cho người không phải là thành viên của
công ty phải được sự nhất trí của nhóm thành viên đại diện cho ít nhất ắ số vốn
điều lệ của công ty.
Việc phân phối lợi nhuận sau thuế do các thành viên quyết định và việc phân
chia lợi nhuận cho các thành viên tuỳ thuộc vào số vốn đã đóng góp.
* Doanh nghiệp tư nhân
Là một đơn vị kinh doanh có mức vốn không thấp hơn vốn pháp định, do một
cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ số tài sản của mình về mọi
hoạt động của doanh nghiệp.
Như vậy, chủ doanh nghiệp tư nhân là người bỏ vốn đầu tư bằng vốn của
mình và cũng có thể huy động thêm từ bên ngoài dưới hình thức đi vay. Trong
khuôn khổ của luật pháp, chủ doanh nghiệp tư nhân có quyền tự do kinh doanh và
chủ động trong mọi hoạt động kinh doanh. Loại hình doanh nghiệp này không
được phép phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào trên thị trường để tăng thêm vốn.
Như vậy, nguồn vốn của doanh nghiệp tư nhân là hạn hẹp, loại hình doanh nghiệp
này thường thích hợp với kinh doanh quy mô nhỏ.
Phần thu nhập sau thuế thuộc quyền sở hữu và sử dụng của chủ doanh nghiệp.
Trong hoạt động kinh doanh, chủ doanh nghiệp tư nhân tự chịu trách nhiệm bằng
toàn bộ tài sản của mình. Điều đó cũng có nghĩa là về mặt tài chính, chủ doanh
nghiệp phải tự chịu trách nhiệm vô hạn đối với các khoản nợ của doanh nghiệp.
Đây cũng là điều bất lợi của loại hình doanh nghiệp này.
* Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
Theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam quy định các hình thức đầu tư trực
tiếp từ nước ngoài vào Việt Nam gồm có doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp
100% vốn nước ngoài. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là doanh nghiệp

được thành lập tại Việt Nam, do các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư một phần hoặc
toàn bộ vốn nhằm thực hiện các mục tiêu chung là tìm kiếm lợi nhuận, có tư cách
pháp nhân, mang quốc tịch Việt Nam, tổ chức và hoạt động theo quy chế của công
ty trách nhiệm hữu hạn và tuân theo quy định của pháp luật Việt Nam.
Doanh nghiệp liên doanh có đặc điểm: Phần vốn góp của bên nước ngoài vào
vốn pháp định không hạn chế ở mức tối đa nhưng lại hạn chế ở mức tối thịểu, tức
là không được thấp hơn 30% của vốn pháp định, trừ những trường hợp do Chính
phủ quy định. Việc góp vốn của các bên tham gia có thể bằng tiền nước ngoài, tiền

×