BỘ TƢ PHÁP
B Ộ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
NGUYỄN KHẮC THẮNG
NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA PHÁP LUẬT TRONG VIỆC BẢO ĐẢM
SỰ THAM GIA TRỰ C TIẾP CỦA NHÂN DÂN
VÀO QUẢN LÝ NHÀ NƢ ỚC Ở NƢ ỚC TA HIỆN N AY
CHUYÊN NGÀNH: Lý luận và Lịch sử nhà nƣớc và pháp luật
MÃ SỐ
: 60 38 01
LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
NGƢỜI HƢỚNG DẪN: PGS.TS. NGUYỄN VĂN ĐỘNG
HÀ NỘI, NĂM 2006
NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
CNXH
: Chủ nghĩa xã hội
XHCN
: Xã hội chủ nghĩa
HĐND
: Hội đồng nhân dân
UBND
: Ủy ban nhân dân
MỤC LỤC
Trang
Mở đầu
1
Chương 1: Cơ sở lý luận cho việc nâng cao vai trò của pháp luật bảo
đảm sự
tham gia trực tiếp của nhân dân vào quản lý nhà nƣớc dƣới chế độ xã
hội chủ nghĩa
1.1.
5
Sự tham gia trực tiếp của nhân dân vào quản lý nhà nước - một biểu hiện sinh
động của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
1.2.
5
Vai trò của pháp luật trong việc bảo đảm sự tham gia trực tiếp của nhân dân vào
quản lý nhà nước
20
Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực hiện pháp lu ật về sự tham gia trực tiếp
của nhân dân vào quản lý nhà nƣớc ở nƣớc ta hiện nay
2.1.
Những quy định chủ yếu của pháp luật hiện hành về sự tham gia trực tiếp của
nhân dân vào quản lý nhà nước
2.2.
27
27
Thực trạng thực hiện pháp luật về sự tham gia trực tiếp của nhân dân vào quản lý
nhà nước
38
Chương 3: Phƣơng hƣớng nân g cao vai trò của pháp luật trong việc bảo đảm sự
tham gia trực tiếp của nhân dân vào quản lý nhà nƣớc
3.1.
51
M ột số quan điểm có tính ngun tắc về nâng cao vai trị của p háp luật trong việc
bảo đảm sự tham gia trực tiếp của nhân dân vào quản lý nhà nước ở nước ta hiện
nay
3.2.
51
Phương hướng nâng cao vai trò của pháp luật trong việc bảo đảm sự tham gia trực
tiếp của nhân dân vào quản lý nhà nước
Kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo
54
70
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Xây dựng và không ngừng phát huy nền dân chủ xã hội chủ nghĩa luôn được Đảng
và Nhà nước ta xác định là nhiệm vụ chiến lược xuyên suốt sự nghiệp đổi mới và phát
triển đất nước. Trong Cư ơng lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, Đảng ta khẳng định: “Toàn bộ tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị nước ta
trong giai đoạn mới là nhằm xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa, bảo đảm quyền lực thu ộc về nhân dân” [10, tr.127]. Điều 2 Hiến pháp năm 1992
của nước ta cũng ghi rõ: "Nhà nước C ộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam là Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực
nhà nước thuộc về nhân dân...".
Bên cạnh đó, để đảm bảo quyền làm chủ thực sự của nhân dân, Điều 53 Hiến pháp
năm 1992 khẳng định: “Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội...”.
V.I.Lênin cũng đã từng chỉ rõ: “Phát triển chế độ dân chủ một cách đầy đủ, nghĩa là việc
làm cho toàn thể quần chúng nhân dân tham gia thực sự bình đẳng và rộng rãi vào mọi
cơng việc của nhà nước” [23, tr.80].
Sự tham gia của nhân dân vào quản lý nhà nước được biểu hiện ở hai hình thức là
trực tiếp và gián tiếp. Trong đó, hình thức tham gia gián tiếp thông qua các thiết chế đại
diện cũng rất cần thiết và đã được thực tiễn ghi nhận. Tuy nhiên, xét một cách khách
quan, hình thức tham gia gián tiếp khơng thể phản ánh được ý chí chung của nhân dân
một cách hoàn toàn đầy đủ và sâu sắc. Do đó, việc tham gia trực tiếp vào quản lý nhà
nước của công dân sẽ tạo ra khả năng lấp đầy những "khoảng trống" của sự tham gia
gián tiếp và làm hoàn thiện hơn nền dân chủ trong xã hội XHCN.
Trong nhiều năm qua, Đảng và Nhà nước ta ln thực hiện nhất qn chủ trương
dân chủ hóa m ọi mặt đời sống xã hội, đã đề ra nhiều chính sách, giải pháp tích cực
nhằm tạo điều kiện để nhân dân tham gia ngày càng đông đảo vào quản lý nhà nước và
xã hội. Tuy nhiên, trên thực tế, sự tham gia trực tiếp vào quản lý nhà nước của nhân dân
ở nước ta vẫn còn nhiều bất cập, hiệu quả chưa cao, nhiều lúc, nhiều nơi còn mang nặng
2
tính hình thức. Thực trạng đó có nhiều ngun nhân, trong đó phải kể đến sự hạn chế
của pháp luật thể hiện như: các quy định còn chung chung, mang nặng tính "khung",
tính "quan điểm"; các điều kiện pháp lý bảo đảm cho nhân dân thực hiện có hiệu quả
quyền tham gia trực tiếp vào quản lý nhà nước còn lỏng lẻo; cơ chế, trình tự, thủ tục
chưa được xác lập cụ thể, rõ ràng...
Sự tham gia trực tiếp của nhân dân vào quản lý nhà nước là mộ t biểu hiện sinh
động của phương thức “dân chủ trực tiếp”. Tuy nhiên, có thể thấy trong những năm qua,
“trên phương diện lý luận, vấn đề dân chủ trực tiếp vẫn chưa được nghiên cứu thấu đáo
so với vấn đề dân chủ đại diện” [39, tr.19]. Đặc biệt, “dân chủ trự c tiếp” dường như vẫn
thiếu những nội dung cụ thể và chưa có được những cơ sở pháp lý vững chắc trong thực
tiễn hiện nay ở nước ta.
Trước những yêu cầu mới đặt ra của sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền
Việt Nam XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, việc nâng cao hơn nữa vai
trò của pháp luật nhằm bảo đảm và phát huy quyền tham gia trực tiếp của nhân dân vào
quản lý nhà nước đang là nhiệm vụ cấp thiết. C hính từ những cơ sở lý luận và thực tiễn
nêu trên đã gợi ý cho tác giả chọn vấn đề "Nâng cao vai trò của pháp luật trong việc
bảo đảm sự tham gia trực tiếp của nhân dân vào quản lý nhà nư ớc ở nước ta hiện nay"
làm đề tài của luận văn tốt nghiệp cao học Luật, chuyên ngành Lý luận và Lịch sử nhà
nước và pháp luật.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Sự tham gia trực tiếp của nhân dân vào quản lý nhà nước là biểu hiện sinh động, cụ thể
của một nền dân chủ, là phương thức quan trọng để thực hiện dân chủ trong đời sống nhà
nước. Vì vậy, đề tài cũng nằm trong tình hình nghiên cứu về vấn đề dân chủ nói chung.
Đặc biệt là mảng nghiên cứu về mối quan hệ cũng như vai trò của pháp luật đối với việc
xây dựng nền dân chủ ở nước ta hiện nay. Về vấn đề này, đã có một số cơng trình
nghiên cứu được công bố như: N hà nước XHCN với việc xây dự ng nền dân chủ ở Việt
Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ triết học, tác giả: Đ ỗ Trung Hiếu, năm 2002; V ấn đề dân
chủ và các đặc trư ng của mơ hình tổng thể nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam ,
Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 2/2003, tác giả: GS.TS. Hoàng Văn Hảo; N guyên tắc
toàn quyền của nhân dân trong m ối quan hệ giữa Nhà nước và nhân dân dưới chủ nghĩa
3
xã hội, Tạp chí Luật học, số 1/1997, tác giả: PGS.TS. Nguyễn Văn Động... Ngồi ra cịn
có nhữ ng cơng trình khác đề cập cụ thể hơn về các hình thức tham gia trực tiếp vào quản
lý nhà nước của nhân dân như: Vấn đề xây dựng pháp luật về trưng cầu ý dân, Tạp chí
Luật học, số 6/2004, tác giả: PGS.TS. Trần M inh Hương; Góp phần hồn thiện quy
trình bầu cử Đại biểu HĐND ở nước ta hiện nay, Tạp chí Luật học, số 4/2004, tác giả:
TS. Lê Vương Long; N hân dân góp ý cho dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, Tạp chí
Luật học, số 2/2001, tác giả: Th.S. B ùi thị Đào, ... Các cơng trình nói trên ở những mức
độ khác nhau đã đề cập đến vấn đề tham gia trực tiếp của nhân dân vào quản lý nhà
nước và là những tư liệu tham khảo quan trọng của tác giả. Tuy nhiên, chưa có cơng
trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ, cụ thể và có hệ thống về vai trị của pháp luật
trong việc bảo đảm sự tham gia trực tiếp của nhân dân vào quản lý nhà nước ở nước ta
hiện nay.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu về vai trò của pháp luật và việc nâng cao vai trò của
pháp luật trong việc bảo đảm sự tham gia trực tiếp của nhân dân vào quản lý nhà nước ở
nước ta hiện nay.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu đề tài dựa trên cơ sở chủ nghĩa M ác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
M inh, những quan điểm cơ bản của Đảng và Nhà nước ta về dân chủ và pháp luật, cũng
như về vấn đề thực hiện nền dân chủ XHCN ở nước ta. Ngoài ra, tác giả cũng sử dụng
một số phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, điều
tra xã hội học...
5. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
- M ục đích của luận văn là đề xuất được các phương hướng nâng cao vai trò của
pháp luật bảo đảm thực hiện có hiệu quả sự tham gia trực tiếp của nhân dân vào quản lý
nhà nước, phù hợp với điều kiện thực tiễn và những yêu cầu đặt ra ở nước ta trong giai
đoạn hiện nay.
Để thực hiện được mục đích nêu trên, luận văn xác định các nhiệm vụ nghiên cứu
sau đây:
4
- Phân tích làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản, ý nghĩa và tầm quan trọng của sự
tham gia trực tiếp của nhân dân vào quản lý nhà nước trong xã hội XHCN.
- Phân tích vai trị của pháp luật trong việc bảo đảm sự tham gia trực tiếp của nhân
dân vào quản lý nhà nước ở nước ta.
- Đánh giá thực trạng vai trò của pháp luật trong việc bảo đảm sự tham gia trực tiếp
của nhân dân vào quản lý nhà nước ở nước ta hiện nay; chỉ ra các nguyên nhân chủ yếu
của thực trạng trên.
- Đề xuất những phương hướng nâng cao vai trò của pháp luật trong việc bảo đảm
sự tham gia trực tiếp của nhân dânvào quản lý nhà nước ở nước ta.
6. Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn
- Làm rõ khái niệm, nội dung, đặc điểm, nguyên tắc và m ục đích, ý nghĩa của sự
tham gia trực tiếp của nhân dân vào quản lý nhà nước - một biểu hiện sinh động của nền
dân chủ XHCN.
- Làm rõ về mặt lý luận vai trò của pháp luật trong việc bảo đảm thực hiện dân chủ
nói chung và bảo đảm sự tham gia trực tiếp của nhân dân vào quản lý nhà nước nói
riêng.
- Trên cơ sở phân tích và đánh giá thực trạng, luận văn đưa ra được một số phương
hướng, giải pháp góp phần nâng cao vai trò của pháp luật trong việc bảo đảm và phát
huy sự tham gia trực tiếp của nhân dân vào quản lý nhà nước ở nước ta.
7. Kết cấu của luận văn: Ngoài phần mở đầu, mục lục và danh mục tài liệu tham
khảo, luận văn bao gồm 3 Chương, 6 tiết.
5
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CH O VIỆC NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA PHÁP
LUẬT BẢO ĐẢM SỰ THAM GIA TRỰC TIẾP CỦA NH ÂN DÂN VÀO
QUẢN LÝ NH À NƢỚC DƢỚ I CHẾ ĐỘ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
1.1 . SỰ THAM GIA TRỰC T IẾP CỦ A NHÂN DÂN V ÀO QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC
– MỘT BIỂU HIỆN SINH ĐỘNG CỦA NỀN DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
1.1.1. Khái niệm về sự tham gia trực tiếp của nhân dân vào quản lý nhà
nƣớc
Trong lịch sử nhân loại, kể từ khi nhà nước ra đời, mối quan hệ giữa nhà
nước với nhân dân ln được xem là vấn đề chính trị cơ bản của mọi chế độ xã
hội. Quá trình phát triển của mối quan hệ này cũng phản ánh những bước tiến của
lồi người trong sự nghiệp đấu tranh vì dân chủ và tiến bộ xã hội.
Trước khi xuất hiện nhà nước, xã hội loài người được tổ chức theo mơ hình
thị tộc - bộ lạc và hoạt động dựa trên các nguyên tắc tự quản cộng đồng. Lúc bấy
giờ đã tồn tại quyền lực và hệ thống quản lý xã hội nhưng đây mới chỉ là “quyền
lực xã hội” - loại quyền lực hoà nhập với dân cư, thuộc về toàn thể cộng đồng dân
cư. Hệ thống quản lý xã hội lúc này cũng do toàn thể dân cư tổ chức nên và hoạt
động vì lợi ích của mọi thành viên trong xã hội. Trong điều kiện đó , mọi người
đều có thể trực tiếp tham gia vào các công việc chung c ủa xã hội. Tuy nhiên, sau
khi nhà nước xuất hiện, xã hội loài người đã chuyển sang một kiểu tổ chức hoàn
toàn khác biệt so với thời kỳ cộng sản nguyên thuỷ trước đó. Nhà nước thiết lập
một “quyền lực cơng cộng khơng cịn hồ nhập với dân cư nữa” và tổ chức một
bộ máy với nhiều bộ phận, cơ quan có chức năng khác nhau để phục vụ cho lợi
ích của giai cấp thống trị và duy trì trật tự trong xã hội. Nhà nước là một bộ phận
của xã hội nhưng là một lực lượng “tựa hồ như đứng trên xã hội” [ 25, tr.260].
Như vậy, do nhà nước ra đời đã làm xã hội tách ra thành hai bộ phận đó là bộ
máy nhà nước và tồn thể nhân dân nói chung. Vấn đề quan trọng hàng đầu đặt ra
6
trong xã hội lúc này là các tầng lớp nhân dân có vai trị như thế nào đối với tổ
chức và hoạt động của bộ máy nhà nuớc? Thực tiễn cho thấy xuất phát từ bản
chất, mục tiêu của chúng, các nhà nước chủ nô, phong kiến, tư sản không thể bảo
đảm cho đông đảo nhân dân lao động tham gia vào quản lý nhà nước, mà ngược
lại, để bảo vệ cho lợi ích của giai cấp thống trị thiểu số, chúng ln tìm mọi cách
để hạn chế, ngăn cản quần chúng nhân dân tham gia vào các quá trình tổ chức và
hoạt động của bộ máy nhà nước. Có thể khẳng định rằng, chỉ trong chế độ XHCN
thì nhân dân lao động mới có đầy đủ khả năng và điều kiện để tham gia vào q uản
lý nhà nước.
Sự tham gia của nhân dân vào đời sống nhà nước, vào các công việc của nhà
nước là một trong những tiêu chí quan trọng để đánh giá mức độ dân chủ của một
chế độ chính trị - xã hội. Dân chủ, hiểu theo nghĩa truyền thống và khái quát nhất
là “quyền lực thuộc về nhân dân” (democratie). Tuy nhiên, trên thực tế việc nhân
dân thực hiện quyền lực nhà nước như thế nào lại là một vấn đề không đơn giản
ngay trong bản thân các chế độ dân chủ. Về nguyên tắc, nếu một nhà nước được
tổ chức và hoạt động trên cơ sở đại diện cho quyền lực nhân dân thì khơng thể
tách khỏi nhân dân, đứng trên nhân dân để trở thành một chủ thể khác của quyền
lực. Bộ máy nhà nước dân chủ là hình thức tổ chức, là công cụ để thực hiện quyền
lực nhân dân chứ không phải là bản thân q uyền lực. Tuy nhiên, đến lượt mình,
hoạt động của nhà nước lại là một loại hoạt động đặc biệt được tiến hành bởi một
bộ máy chun nghiệp. Do vậy, dù có cơng khai thừa nhận "quyền lực thuộc về
nhân dân" thì các bộ máy nhà nước vẫn luôn đứng trước nguy cơ c ủa sự tha hố
quyền lực, nhân dân vẫn có nguy cơ bị tách khỏi quyền lực nhà nước trong những
phạm vi và mức độ đáng kể [39]. Xét từ góc độ thực tiễn, “quyền lực nhân dân”
ln mang tính trừu tượng còn “quyền lực nhà nước” là cái hiện hữu và được vật
chất hóa. Vì vậy, vấn đề đặt ra là làm thế nào để nhân dân "trao quyền" cho nhà
nước mà không "mất quyền", nhân dân không trở thành kẻ đứng ngoài cuộc của
7
đời sống nhà nước khi mà nhà nước đó vẫn nhân danh mình để tồn tại và hoạt
động ? Để giải quyết vấn đề này, việc bảo đảm sự tham gia của nhân dân vào
quản lý nhà nước một cách đầy đủ và có hiệu quả là điều kiện có ý nghĩa cơ bản.
Hoạt động tham gia của nhân dân vào quản lý nhà nước có thể chia thành hai
hình thức là tham gia gián tiếp và tham gia trực tiếp. Hì nh thức tham gia gián tiếp
là hình thức nhân dân tham gia vào quản lý nhà nước thông qua các thiết chế, tổ
chức đại diện của mình. Các tổ chức này đại diện cho ý chí và nguyện vọng của
tồn thể hoặc từng nhóm dân cư nhất định trong xã hội để tham gia vào q uản lý
nhà nước. Hình thức này cũng có vai trị và ý nghĩa rất to lớn trong quá trình thực
hiện dân chủ và đã được thực tiễn khẳng định. Tuy nhiên, xét đến cùng, mọi hình
thức đại diện đều khơng thể tránh khỏi những hạn chế tất yếu của nó. Thơng qua
lăng kính đại diện, ý chí, nguyện vọng, nhu cầu và lợi ích của nhân dân (hiểu theo
nghĩa cụ thể) đơi khi không được phản ánh một cách đầy đủ và chính xác, thậm
chí cịn có thể bị biến dạng ở những mức độ nhất định. Chính vì vậy, bên cạnh
việc thơng qua các tổ chức đại diện, người dân cịn cần tham gia trực tiếp vào
quản lý nhà nước. Một xã hội dân chủ phải là một xã hội mà ở đó mỗi người dân
có thể phát huy được “quyền làm chủ” của mình chứ khơng chỉ dừng lại ở các
thiết chế dân chủ đại diện với các nguyên tắc dân c hủ chung chung. Sự thực là,
nếu mỗi cá nhân cơng dân khơng cụ thể hóa được quyền làm chủ của mình đối
với nhà nước thì nguyên tắc “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân” vẫn
chỉ là một khái niệm trừu tượng và sáo rỗng. Như trong tác phẩm “Tuyên ngôn
Đảng Cộng Sản”, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ rõ: “Sự phát triển tự do của mỗi
người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người” [27, tr 628]. Vì
vậy, trong một chế độ dân chủ, bên cạnh các hình thức dân chủ gián tiếp vẫn cần
phải bảo đảm và phát huy các hình thức dân chủ trực tiếp mà biểu hiện quan trọng
của nó chính là sự tham gia trực tiếp của nhân dân vào quản lý nhà nước.
Từ những quan điểm tiếp cận và các phân tích nêu trên, có thể quan niệm rằng:
Sự tham gia trực tiếp của nhân dân vào quả n lý nhà nước là hoạt động của các cá
8
nhân, công dân tham gia vào việc xây dựng, tổ chức và các hoạt động của bộ máy
nhà nước. Sự tham gia này được thực hiện bằng chính ý chí, hành vi của mỗi cá
nhân, công dân và không thông qua bất cứ một thiết chế đại diện hay một khâu trung
gian nào.
Trong mơ hình nhà nước dân chủ, sự tham gia trực tiếp của nhân dân vào quản
lý nhà nước có mục đích và ý nghĩa hết sức quan trọng, thể hiện ở một số điểm như
sau:
- Sự tham gia trực tiếp của nhân dân vào quản lý nhà nước là phương thức hữu
hiệu để hiện thực hóa quyền làm chủ nhà nước của nhân dân, đồng thời góp phần
nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước. Trên thực tế, bộ máy nhà nướ c
dù được tổ chức như thế nào cũng đều chứa đựng nguy cơ “thoát ly” chủ thể quyền
lực là nhân dân. Bản thân bộ máy nhà nước luôn độc lập với cộng đồng dân cư ở
nhiều phương diện. J.J.Rousseau có lý khi cho rằng: “Cơ quan quyền lực tối cao là
một con người tập thể, nên chỉ tự mình nó đại biểu cho nó m à thơi ” [35, tr.53]. M ặt
khác, việc các chủ thể trong bộ máy nhà nước tự tạo cho m ình những đặc quyền, đặc
lợi hoặc yếu kém, phạm sai lầm trong quá trình hoạt động là điều ln có thể xảy ra.
Với việc tham gia trực tiếp vào quản lý nhà nước, nhân dân có điều kiện để thể hiện
đầy đủ và chính xác hơn ý chí và nguyện vọng của mình, hiện thực hố và cụ thể hố
được quyền làm chủ của mình đối với nhà nước. Đồng thời, với sự tham gia, hỗ trợ
trực tiếp từ phía người dân cũng tạo điều kiện quan trọng để nâng cao hiệu lực và
hiệu quả trong các hoạt động của nhà nước.
- Sự tham gia trực tiếp của nhân dân vào quản lý nhà nước góp phần khắc phục
những hạn chế của hình thức tham gia gián tiếp . Trong thực tiễn, có nhiều tổ chức
đại diện nhân dân tham gia vào quản lý nhà nước. Đây được xem là hình thức tham
gia gián tiếp của nhân dân vào quản lý nhà nước. Ưu điểm của hình thức này là tính
tổ chức cao, mức độ ảnh hưởng đối với bộ m áy nhà nước lớn hơn so với việc công
dân tham gia trực tiếp. Tuy nhiên, điểm hạn chế lớn nhất của hình thức gián tiếp là
nó khơng thể phản ánh được đầy đủ ý chí, tâm tư, nguyện vọng của mỗi người dân
9
cũng như của tồn dân. Đó là chưa kể đến việc các thiết chế này vì những lý do khác
nhau đã khơng làm trịn trách nhiệm đại diện của mình và một số trường hợp cịn có
xu hướng “nhà nước hóa”. Sự tham gia trực tiếp của nhân dân bằng chính những
hành vi thiết thực của mỗi cá nhân cơng dân là yếu tố quan trọng để lấp đầy những
“khoảng trống” trong mối quan hệ với nhà nước mà hình thức tham gia gián tiếp
không thực hiện được.
- Sự tham gia trực tiếp của nhân dân vào quản lý nhà nước là giải pháp hữu
hiệu để tập trung và phát huy tối đa trí tuệ, sức mạnh và tinh thần trách nhiệm của
quần chúng nhân dân vào việc xây dựng và bảo vệ đất nước . Lênin đã từng chỉ rõ:
“Cách m ạng là sự nghiệp của quần chú ng”. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí M inh cũng
ln đề cao “sức dân”, Người nói: “Dễ trăm lần khơng dân cũng chịu, khó vạn lần
dân liệu cũng qua ” và chỉ rõ: “Thực hành dân chủ là cái chìa khóa vạn năng có thể
giải quyết mọi khó khăn” [31, tr.249]. Tuy nhiên, xét đến cùng, khối sức mạnh to lớn
của nhân dân cũng là sự hợp thành từ trí tuệ, sức mạnh của từng người dân. M ỗi
người dân dù ở vào những vị trí và cơng việc khác nhau nhưng đều có thể góp phần
vào các cơng việc chung của nhà nước và xã hội. Trong thời gian vừa qua, việc đông
đảo các tầng lớp nhân dân hăng hái tham gia đóng góp ý kiến xây dựng pháp luật,
chính sách; tham gia vào quá trình thực thi và bảo vệ pháp luật; tích cực tham gia
xây dựng đời sống mới theo phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm” đ ã thu
được những kết quả hết sức quý báu, minh chứng cho ý nghĩa thiết thực của việc
nhân dân tham gia trực tiếp vào quản lý nhà nước.
- Sự tham gia trực tiếp của nhân dân vào quản lý nhà nước cịn góp phần to
lớn vào việc phịng, chống các hiện tượng tiêu cực trong tổ chức và hoạt động của
bộ máy nhà nước. Chẳng hạn trong công cuộc đấu tranh chống “quốc nạn” tham
nhũng hiện nay ở nước ta, việc động viên sự tham gia trực tiếp của nhân dân là hết
sức cần thiết. Nguyên Tổng Bí thư Đỗ M ười cho rằng : “Quyền lực nhân dân phải
được thực hiện bằng kiểm kê, kiểm soát để đẩy lùi tiêu cực, suy thoái, tham nhũng...”
[33, tr.102]; “Trong điều kiện hiện nay, việc tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra,
10
giám sát do các cơ quan nhà nước thực hiện theo thẩm quyền là cần th iết nhưng cần
được bổ sung bằng lực lượng đơng đảo nhân dân có mặt ở khắp nơi với trăm tai ngàn
mắt, nhìn thấu mọi việc, biết được mọi nhẽ, tường tận mọi điều” [33, tr.80].
1.1.2. Nội dung tham gia trực tiếp của nhân dân vào quản lý nhà nƣớc
Xét dưới góc độ chung nhất, nội dung tham gia trực tiếp của nhân dân vào quản
lý nhà nước gồm hai nhóm hoạt động cơ bản. Thứ nhất, là các hoạt động tham gia
xây dựng, tổ chức bộ máy nhà nước, cụ thể như bầu cử, ứng cử, bãi nhiệm đại biểu
trong các cơ quan quyền lực nhà nước; trực tiếp kiểm tra, giám sát hoạt động của bộ
máy nhà nước... Thứ hai, là tham gia vào các cơng việc, các q trình hoạt động của
nhà nước trên 3 lĩnh vực chủ yếu là xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật
và bảo vệ pháp luật.
- Nhân dân trực tiếp tham gia xây dựng bộ máy nhà nước
Quyền làm chủ nhà nước của nhân dân trước hết được biểu hiện thông qua việc
mỗi người dân có quyền trực tiếp tham gia xây dựng bộ máy nhà nước. Việc đượ c
hình thành bởi nhân dân là điều kiện cơ bản đầu tiên đ ể có được một nhà nướ c dân
chủ thật sự. Trong lịch sử các chế độ xã hội, bầu cử được xem là phương thức dân
chủ và thích hợp nhất cho sự tham gia trực tiếp của nhân dân vào việc xây dựng,
thành lập nên bộ máy nhà nước. Phương thức bầu cử nói lên nguồn gốc của quyền
lực nhà nước là từ nhân dân, nó phủ nhận quan điểm thần quyền giải thích quyền lực
nhà nước từ những lực lượng siêu nhiên như Chúa trời, Thượng đế hay từ một ý
niệm tuyệt đối của chủ nghĩa duy tâm khách quan [ 36, tr.111-112]. Ngay từ thời kỳ
chiếm hữu nô lệ, đã xuất hiện những cơ quan nhà nước được hình thành do bầu cử
(chẳng hạn như Viện nguyên lão) tuy giá trị dân chủ của chúng còn ở mức độ thấp
[41, tr.329]. Trong chế độ tư bản chủ nghĩa, bầu cử được áp dụng rộng rãi và dần trở
thành một nguyên tắc hiến định trong hầu hết các nhà nước tư sản. Tuy nhiên, chỉ
dưới chế độ XHCN, với bản chất mới của nền dân chủ, chế độ bầu cử mới thực sự
được hoàn thiện và trở thành phương thức cơ bản, hữu hiệu để nhân dân trực tiếp
tham gia xây dựng nhà nước của m ình.
11
Bầu cử là hành vi của công dân trực tiếp bầu ra những người đại diện cho mình
để thành lập nên các cơ quan quyền lực nhà nước. Có thể xem đây là giai đoạn đầu
tiên của quá trình xây dựng nên bộ máy nhà nước. Trên thực tế, tính chất, phương
thức của hoạt động bầu cử luôn phụ thuộc vào chế độ chính trị - xã hội của mỗi quốc
gia. M ặt khác, bầu cử là loại quyền chính trị cơ bản của công dân, cho nên các nhà
nước thường quy định dành riêng cho “cơng dân” của mình mà loại trừ đối với các
cá nhân khác không phải là cơng dân của quốc gia đó theo ngun tắc quốc tịch.
Vấn đề nhân dân trực tiếp tham xây dựng, tổ chức bộ máy nhà nước cịn được
thể hiện thơng qua việc công dân ứng cử vào các cơ quan quyền lực nhà nước. Có
thể nói, tham gia ứng cử là biểu hiện của tính chủ động, tích cực của công dân trong
việc xây dựng một nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Sự tham gia trực tiếp của nhân dân vào xây dựng nhà nước cịn được thực hiện
thơng qua việc kiểm tra, giám sát của họ đối với hoạt động bộ m áy nhà nước. Kiểm
tra, giám sát là phương thức quan trọng để kiểm soát quyền lực, ngăn ngừa hiện
tượng lợi dụng quyền lực được trao để trục lợi bất chính của các nhân viên nhà nước.
Có nhiều hình thức kiểm tra, giám sát như kiểm tra, giám sát bên trong bộ má y nhà
nước, kiểm tra, giám sát của các tổ chức chính trị, đồn thể xã hội và kiểm tra, giám
sát trực tiếp của công dân. Sự kiểm tra, giám sát trực tiếp của cơng dân so với các
hình thức kia thì có mức độ tổ chức thấp hơn và khả năng chi phối còn hạn chế. T uy
nhiên, ưu điểm của sự kiểm tra, giám sát trực tiếp của nhân dân là ở tính thường
xuyên, liên tục và sâu sát của nó. Thơng qua việc theo dõi, kiểm tra, giám sát của
mình, dựa trên cơ sở pháp luật, mỗi người dân có thể đề xuất kiến nghị, đưa ra yêu
cầu đối với các cơ quan và cá nhân trong bộ máy nhà nước. Hơn nữa, mặc dù từng
người dân không có quyền phán quyết, xử lý các hành vi sai trái của các chủ thể
trong bộ m áy nhà nước nhưng thông qua việc trực tiếp kiểm tra, giám sát họ có thể
khiếu nại, tố cáo các hành vi đó lên các cơ quan nhà nước có thẩm quyền và yêu cầu
xử lý theo quy định của pháp luật (Điều 74 Hiến pháp năm 1992).
12
Cùng với việc kiểm tra, giám sát, nhân dân còn có thể bãi nhiệm các đại biểu
của họ trong các cơ quan quyền lực nhà nước (Điều 7 H iến pháp năm 1992). Về
nguyên tắc thì các đại biểu do nhân dân trực tiếp bầu ra, chịu sự giám sát của nhân
dân thì cũng có thể bị nhân dân trực tiếp bãi nhiệm khi khơng hồn thành nhiệm vụ.
ở nước ta hiện nay, hình thức bãi nhiệm trực tiếp của cử tri vẫn c hưa được triển khai
trên thực tế và thay vào đó là việc bãi nhiệm do các cơ quan đại diện thực hiện. Tuy
nhiên, với quyền năng được pháp luật ghi nhận, thể hiện rằng nhân dân dưới CNXH
khơng những có thể trực tiếp thiết lập nên các cơ quan đại diện trong b ộ máy nhà
nước mà cịn có thể trực tiếp tổ chức, điều chỉnh và củng cố các cơ quan đó. Về thực
chất, quyền bãi nhiệm gắn với các quyền bầu cử, ứng cử, quyền kiểm tra, giám sát
tạo nên quyền lực thực sự của nhân dân trong lĩnh vực xây dựng nhà nước dướ i
CNXH. V.I. Lênin cho rằng: “Giai cấp tư sản đã cố ý không ban hành quyền bãi
miễn, tức là quyền kiểm soát thực sự của nhân dân” [ 23, tr. 272].
- Nhân dân trực tiếp tham gia vào các hoạt động của bộ máy nhà nước
Hoạt động của bộ máy nhà nước thường được chia th ành ba lĩnh vực chủ yếu là:
xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật và bảo vệ pháp luật. Về nguyên tắc,
để đảm bảo tính dân chủ, cả ba hoạt động này của nhà nước đều cần có sự tham gia
trực tiếp của nhân dân với các phương thức và mức độ hợp lý.
Trong hoạt động xây dựng pháp luật, nhân dân trực tiếp tham gia bằng việc đề
xuất các sáng kiến để cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét ban hành hoặc sửa
đổi, bổ sung, thậm chí đình chỉ, bãi bỏ các văn bản quy phạm pháp luật; đóng góp ý
kiến cho các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật của nhà nước trước khi ban hành.
Với xu hướng dân chủ hiện nay, nhân dân cịn đóng vai trò là lực lượng thẩm định,
phản biện xã hội hùng hậu, góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả của công tác
xây dựng pháp luật.
Trong hoạt động tổ chức thực hiện pháp luật, nhân dân trực tiếp tham gia bằng
việc thảo luận về các vấn đề chung của cả nước và địa phương, kiến nghị với cơ
quan nhà nước và biểu quyết khi nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân (Điều 53 Hiến
13
pháp năm 1992). Ngoài ra, m ỗi người dân đều có thể góp phần đưa pháp luật vào
thực tiễn cuộc sống thông qua các hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giải thích, giáo
dục pháp luật; đóng góp sức người, sức của để triển khai có hiệu quả chính sách,
pháp luật của nhà nước; kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật trong bộ máy nhà
nước cũng như ngoài xã hội
Nhân dân còn trực tiếp tham gia vào hoạt động bảo vệ pháp luật bằng việc khiếu
nại, tố cáo các hành vi vi phạm pháp luật, phát hiện và tố giác tội phạm với các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền, trực tiếp đấu tranh phòng, chống các hiện tượng vi
phạm pháp luật trong xã hội.
1.1.3. Đặc điểm của sự tham gia trực tiếp của nhân dân vào quản lý nhà
nƣớc dƣới chế độ xã hội chủ nghĩa
- Sự tham gia trực tiếp của nhân dân vào quản lý nhà nước dướ i chế độ XHCN
mang tính tự giác cao.
Dưới chế độ XHCN, nhân dân trực tiếp tham gia vào quản lý nhà nước một
cách tích cực và tự giác. Sở dĩ có đặc điểm này là xuất phát từ bản chất dân chủ của
nhà nước XHCN - nhà nướ c thực sự của nhân dân, do nhân dân và v ì nhân dân. V ì
vậy, mỗi người dân khi tham gia trực tiếp vào quản lý nhà nước đều có ý thức tự giác
cao về quyền lợi và nghĩa vụ của bản thân m ình. Có thể nói, dưới CNXH, bộ máy
nhà nước và toàn thể nhân dân lao động có sự gắn bó m ật thiết về mục tiêu và l ợ i
ích. Nhà nước XHCN khơng có mục tiêu nào khác ngồi mục tiêu giải phóng và
phục vụ lợi ích cho đơng đảo các tầng lớp nhân dân lao động. Vì vậy, người dân ln
có ý thức tự giác tham gia xây dựng và bảo vệ nhà nước, tích cực tham gia vào các
cơng việc của bộ máy nhà nước nhằm phục vụ cho lợi ích chung của xã hội và cũng
chính là phục vụ cho lợi ích của bản thân họ.
- Sự tham gia trực tiếp của nhân dân vào quản lý nhà nước dưới chế độ XHCN
được tổ chức một cách chặt chẽ.
Xuất phát từ tính thống nhất cao v ề ý chí và lợi ích của các tầng lớp nhân dân
lao động, dưới chế độ XHCN, sự tham gia trực tiếp của nhân dân vào quản lý nhà
14
nước được tổ chức một cách chặt chẽ dưới sự lãnh đạo của Đảng, trên cơ sở hiến
pháp và pháp luật. Tính tổ chức chặt chẽ này góp phần ngăn ngừa các hiện tượng dân
chủ cực đoan, vơ chính phủ, gây mất ổn định chính trị và trật tự an tồn xã hội.
Trong khi đó, hiện nay ở một số nước tư bản chủ nghĩa, nhiều khi quá trình tham gia
của người dân vào các hoạt động của nhà nước thiếu tính tổ ch ức lại gắn với sự tranh
giành quyền lực giữa các đảng phái đối lập làm ảnh hưởng xấu đến trật tự và lợi ích
chung của xã hội.
- Sự tham gia trực tiếp của nhân dân vào quản lý nhà nước dưới chế độ xã hội
chủ nghĩa được thực hiện trong mối quan hệ pháp lý bình đẳng về quyền và nghĩa vụ
giữa nhà nước và công dân.
Dưới chế độ XHCN, mối quan hệ giữa nhà nước và cơng dân mang tính bình
đẳng về quyền và nghĩa vụ. Nghĩa là cả nhà nước và mỗi cá nhân cơng dân đều có
quyền và nghĩa vụ trước nhau, quyền và nghĩa vụ củ a bên này là nghĩa vụ và quyền
của bên kia [8, tr.109]. Sự bình đẳng này có cơ sở pháp lý và thực tiễn. Bởi vì, nhà
nước XHCN là tổ chức đại diện cho nhân dân, là phương thức để thực hiện quyền
lực nhân dân, trong khi đó, mỗi cá nhân cơng dân cũng chính là “nhân dân” hiểu ở
góc độ cụ thể. Chính vì vậy, nhà nước và công dân dưới chế độ XHCN thực chất đều
là biểu hiện của một khái niệm nhân dân mang tính trừu tượng. Nói cách khác, xã hội
cơng dân và Nhà nước dưới CNXH chỉ có thể phân biệt về mặt tổ chức và hệ thống.
Sự tham gia trực tiếp của các công dân vào quản lý nhà nước cũng chính là quay trở
lại với quyền lực của chính mình.
Trong các xã hội chiếm hữu nơ lệ và phong kiến, mối quan hệ giữa nhà nước và
người dân mang tính bất bình đẳng một cách rõ nét. Sự thực là các nhà nước này
ln áp đặt ý chí của mình lên tồn thể dân chúng một cách vơ điều kiện. Chính vì
vậy, người dân nếu có được tham gia vào các công việc của nhà nước cũng chỉ luôn
ở thế “thụ động” hoặc do sự “ban ơn” của nhà nước. Chẳng hạn, ở nướ c ta thời nhà
Lý đã cho đặt Lầu Chuông trong thành Thăng Long để dân chúng ai có việc kiện
tụng oan uổng thì gióng chng lên. Hoặc thời nhà Trần, Vua Trần Nhân Tông đã
15
cho triệu phụ lão trong nước để cùng Vua bàn kế sách chống giặc ở điện Diên
Hồng... Đó cũng là những biểu hiện về sự tham gia trực tiếp của nhân dân vào các
công việc của nhà nước dưới thời phong kiến, nhưng đó hồn tồn chỉ là những hiện
tượng cá biệt. Dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, mối quan hệ bình đẳng về quyền và
nghĩa vụ giữa nhà nước và công dân đã được xác lập về mặt pháp lý. Tuy nhiên, xuất
phát từ bản chất của chế độ tư hữu và nền dân chủ thiểu số, trong trường hợp lợi ích
của các tập đồn tư bản bị đe dọa, nhà nước tư sản luôn sẵn sàng thu hẹp các quyền
chính trị của cơng dân thậm ch í áp dụng các biện pháp trấn áp phản dân chủ đối vớ i
các tầng lớp nhân dân trong xã hội.
- Sự tham gia trực tiếp của nhân dân vào quản lý nhà nước dưới chế độ xã hội
chủ nghĩa được thực hiện một cách toàn diện, sâu sắc và thiết thực.
Dưới chế độ XHCN, nhân dân được tham gia trực tiếp vào quản lý nhà nước
một cách toàn diện trên tất cả các lĩnh vực quan trọng. Ngoài việc trực tiếp tham gia
xây dựng các cơ quan quyền lực nhà nước và thơng qua đó gián tiếp thành lập nên cả
bộ máy nhà nước, nhân dân còn trực tiếp tham gia vào hoạt động của nhà nước trên
mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phịng, an ninh... Trong khi đó,
các nhà nước tư sản, một mặt luôn giương cao ngọn cờ dân chủ và tự do cá nhân để
mê hoặc quần chúng, nhưng m ặt khác tìm mọi cách để ngăn cản nhân dân trực tiếp
tham gia vào quản lý nhà nước, đặc biệt là quyền trực tiếp xây dựng nên các cơ quan
quyền lực nhà nước. Ngoài ra, các cơ quan quyền lực của nhà nước tư sản dù về hình
thức vẫn do nhân dân bầu ra nhưng hầu như lại kh ơng có cơ chế pháp lý nào đảm
bảo sự liên hệ thường xuyên giữa cử tri và các đại biểu của họ. “Trong chế độ đó,
người lao động sau khi ra khỏi phịng bỏ phiếu thì dường như khơng cịn phương tiện
nào để tác động tới các đại biểu của m ình cho tới một cơ hội m ới tức là kỳ bầu cử
sau...” [33, tr.100].
Sự tham gia trực tiếp của nhân dân vào quản lý nhà nước dưới chế độ XHCN
gắn liền với những tâm tư, nguyện vọng và nhu cầu thiết thực của đông đảo quần
chúng nhân dân lao động. Nhân dân làm chủ nhà nước nhưng cũ ng chịu sự tác động
16
của mọi hoạt động nhà nước. Vì vậy, nhân dân tham gia trực tiếp vào các công việc
của nhà nước cũng chính là để bảo vệ cho những nhu cầu và lợi ích thiết thân của
mình. Nhà nước XHCN ln tạo điều kiện để từng người dân có điều kiện tha m gia
trực tiếp vào quản lý nhà nước không những vì lợi ích chung của cộng đồng mà cịn
vì lợi ích thiết thực của bản thân mỗi cá nhân cơng dân. Chẳng hạn trước khi ban
hành chính sách, pháp luật, nhà nước ta thường có biện pháp để người dân, đặc biệt
là những nhóm dân cư chịu sự tác động trực tiếp có cơ hội bày tỏ ý kiến, quan điểm
của m ình về vấn đề đó. Tại cơ sở, nơi có điều kiện tốt nhất để phát huy dân chủ trực
tiếp, phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” đã trở nên phổ biến và
có ý nghĩa hết sức thiết thực đối với đời sống nhân dân.
1.1.4. Các nguyên tắc tham gia trực tiếp của nhân dân vào quản lý nhà
nƣớc dƣới chế độ xã hội chủ nghĩa
- Ngun tắc mọi cơng dân đều bình đẳng trước pháp luật.
Dưới chế độ XHCN, nguyên tắc bình đẳng giữa mọ i công dân không phân biệt
giai cấp, dân tộc, tơn giáo, giới tính, tài sản, địa vị xã hội...ln được tơn trọng và
bảo vệ. Có thể xem đây là yếu tố cốt lõi thể hiện bản chất dân chủ nhân dân của nhà
nước XHCN. Xuất phát từ địa vị pháp lý bình đẳng, mọi cơn g dân dưới chế độ
XHCN đều có thể tham gia trực tiếp vào quản lý nhà nước một cách ngang nhau về
quyền và nghĩa vụ trên mọi phương diện.
Dưới chế độ chiếm hữu nơ lệ, chỉ có tầng lớp chủ nơ và một bộ phận những
người tự do mới có quyền tham gia vào các côn g việc của nhà nước. “Ngay trong số
những người tự do thì phụ nữ và những kiều dân cũng bị hạn chế sâu sắc các quyền
chính trị (như khơng có quyền bầu cử)” [40, tr.95 -97]. Đặc biệt là những người nô lệ
chỉ được xem như một thứ “cơng cụ biết nói”. Chính vì vậy, Lênin đã chỉ rõ: “...nhà
nước trong thời đại chế độ nô lệ dù là quân chủ hay cộng hòa quý tộc, cộng hịa dân
chủ đều là nhà nước chủ nơ... điều căn bản là người nô lệ lúc ấy không được coi là
người ” [22, tr. 86].
17
Trong chế độ phong kiến, đẳng cấp xã hội được phân chia rõ rệt. Nhà nước
phong kiến công khai tuyên bố đặc quyền, đặc lợi của giai cấp địa chủ. Bên cạnh đó,
với việc quy định chế độ phẩm, tước, nhà nước phong kiến đã phân hóa sâu sắc xã
hội thành những lớp người ở vào những địa vị pháp lý khá c nhau. Trên thực tế, hầu
hết các công việc của nhà nước chỉ do những người thuộc tầng lớp trên trong xã hội
đảm nhận. Đại đa số nhân dân lao động tuy đã được tự do về thân thể nhưng ln
phải chịu sự cai trị, áp bức, bóc lột rất nặng nề của giai cấp địa c hủ phong kiến.
Thắng lợi của các cuộc cách m ạng tư sản là một bước tiến dài của nhân loại về
dân chủ và tiến bộ xã hội. Với sự ra đời của nhà nước tư sản, người dân từ địa vị
“thần dân” đã trở thành “công dân”. Giá trị lớn nhất của nền dân chủ tư sản chính là
việc đề ra ngun tắc bình đẳng giữa mọi cơng dân. Trên thực tế, đây đã trở thành
nguyên tắc hiến định của hầu hết các nhà nước tư sản. Tuy nhiên, quyền bình đẳng
công dân trong việc trực tiếp tham gia vào quản lý nhà nước luôn đứng trước những
“rào cản” do giai cấp tư sản dựng nên để bảo vệ cho lợi ích của chúng. “Khả năng
ứng cử của những ngườ i lao động cũng cực kỳ khó khăn. Chi phí cho các cuộc vận
động tranh cử là rất lớn. Chẳng hạn, để thắng cử chức Hạ nghị sĩ ở M ỹ phải mất
400.000 đô la và chức thượng nghị sĩ là 2.000.000 đô la (vào thời điểm 1988), ứng
cử viên Tổng thống thì địi hỏi chi phí lớn tới hàng trăm triệu” [40, tr.149 -150]. Vì
vậy, Lê nin đã từng khẳng định: “ Trong xã hội tư bản chủ nghĩa, chúng ta chỉ có
một thứ dân chủ cắt xén, khốn khổ và giả dối, một thứ dân chủ chỉ dành riêng cho
bọn giàu có, cho số ít...” [20, tr. 110].
Dưới chế độ XHCN, ngun tắc bình đẳng giữa mọi cơng dân được pháp luật
ghi nhận và có cơ chế bảo đảm thực hiện. Trước pháp luật mọi công dân trên cơ sở
quốc tịch đều có một tư cách giống nhau: cơng dân nhà nước. Cơ sở vững chắc của
nguyên tắc này chính là bản chất dân chủ nhân dân của nhà nước xã hội chủ nghĩa
như Lênin đã từng nói: “Dưới CNXH, khơng cịn quyền lực nào khác ngồi quyền
lực của chính những người lao động liên hiệp lại” [20, tr.83]. Thực tiễn cho thấy,
dưới chế độ XHCN, từ người dân bình thường cho đến những người giữ những
18
cương vị, trọng trách nhất định, giữa người giàu và người nghèo trong xã hội đều có
thể tham gia vào quản lý nhà nước một cách bình đẳng theo quy định của pháp luật
mà không bị bất kỳ một rào cản hay áp lực nào từ phía nhà nước.
- Nguyên tắc quyền công dân không tách rời nghĩa vụ công dân.
Xuất phát từ mối quan hệ bình đẳng giữa nhà nước và công dân dưới chế độ
XHCN. Trong việc tham gia trực tiếp vào quản lý nhà nước, quyền của công dân
phải gắn liền với nghĩa vụ trước nhà nước và cộng đồng xã hội. Theo lôgic thông
thường quyền công dân luôn tương ứng với nghĩa vụ của nhà nước và ngược lại. Như
vậy, không thể tồn tại việc một công dân chỉ hưởng quyền mà không phải gánh vác
nghĩa vụ, hoặc chỉ phải gánh vác nghĩa vụ m à không được hưởng quyền. Điều 51
Hiến pháp năm 1992 quy định rõ: “Quyền của công dân không tách rời nghĩa vụ của
cơng dân”. Dưới góc độ lý luận, tự do của con người trong xã hội phải là sự kết hợp
hài hòa và hợp lý giữa cái riêng của cá nhân và cái chung của cộng đồng, “Điều này
chỉ có được nếu ít nhất quyền tự do của mỗi người bị giới hạn bởi quyền tự do của
tất cả những người khác” [37, tr.19]. Trong các xã hội có nhà nướ c, giá trị phổ biến
của tự do chính là mối quan hệ biện chứng giữa quyền và nghĩa vụ của công dân
trong khuôn khổ pháp luật.
Dưới CNXH, công dân có quyền tham gia trực tiếp vào quản lý nhà nước một
cách rộng rãi và sâu sắc. Nhưng bên cạnh đó, cơng dân cũn g có nghĩa vụ tơn trọng và
chấp hành các quy tắc, khuôn khổ do pháp luật ấn định trong q trình tham gia của
mình. Cơng dân có quyền yêu cầu nhà nước nhưng cũng có nghĩa vụ thực hiện các
yêu cầu của nhà nước trên cơ sở các chuẩn mực pháp lý. Ví dụ: bầu cử là quyền
chính trị cơ bản của cơng dân nhưng đồng thời mỗi cơng dân cũng phải xem đó là
nghĩa vụ thiêng liêng của mình trước nhà nước và xã hội. Cơng dân có quyền lựa
chọn đại biểu của m ình hoặc trực tiếp ứng cử nhưng phải tuân thủ cách thức, trình
tự, thủ tục theo quy định của Hiến pháp và pháp luật; cơng dân có quyền khiếu nại,
tố cáo nhưng cũng có nghĩa vụ phải thực hiện đúng trình tự, thủ tục của việc khiếu
nại, tố cáo, tôn trọng các quyết định giải quyết của cơ quan có thẩm quyền...
19
- Nguyên tắc tập trung dân chủ.
Quá trình quản lý nhà nước luôn đứng trước hai xu hướng tiêu cực, một là: sự
tập trung quyền lực một cách thái quá dẫn đến chuyên quyền, độc đoán, phản dân
chủ; hai là: coi nhẹ yếu tố tập trung dẫn đến tình trạng dân chủ q trớn, tự do v ơ
chính phủ. Dưới chế độ XHCN, sự tham gia trực tiếp của nhân dân vào quản lý nhà
nước đòi hỏi phải quán triệt nguyên tắc tập trung dân chủ. Nội dung của nguyên tắc
này trong việc tham gia trực tiếp vào quản lý nhà nước của nhân dân thể hiện ở một
số khía cạnh cơ bản sau:
- Thứ nhất, mọi công dân đều có quyền tham gia vào quản lý nhà nước một
cách không hạn chế theo quy định của pháp luật. M ọi ý kiến của công dân đều cần
được tôn trọng và xem xét trên cơ sở pháp luật. Đối với những vấn đề phù hợp mà
nhân dân có thể trực tiếp quyết định thì áp dụng những hình thức thích hợp để nhân
dân thảo luận và quyết định theo đa số. Cơ quan nhà nước có trách nhiệm chấp hành
và tổ chức thực hiện theo kết quả biểu quyết đó. Đối với các vấn đề thuộc quyền
quyết định của cơ quan hoặc cán bộ, công chức của nhà nước trong nhiều trường hợp
cần có cơ chế hợp lý để thơng báo cho nhân dân biết, đưa ra để nhân dân thảo luận,
bàn bạc và đóng góp ý kiến. “Các cơ quan nhà nước, cán bộ, viên chức nhà nướ c
phải tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân,
lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân” (Điều 8 Hiến pháp năm 1992).
- Thứ hai, trong quá trình tham gia trực tiếp vào quản lý nhà nước, công dân
phải tôn trọng các cơ quan, cán bộ, công chức của nhà nước. M ỗi người dân có nghĩa
vụ tơn trọng, chấp hành pháp luật và các quyết định của chủ thể quản lý nhà nước có
thẩm quyền. Trong trường hợp khơng đồng ý với các quyết định đó, cơng dân có
quyền khiếu nại nhưng phải tuân theo các quy định của pháp luật. Nhà nước XHCN
kiên quyết trừng trị những hành vi lợi dụng dân chủ để chống phá, gây rối, vi phạm
trật tự đã được pháp luật quy định trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.
- Nguyên tắc pháp chế XHCN.
20
Pháp chế XHCN là nguyên tắc cơ bản trong đời sống nhà nước cũng như đời
sống xã hội dướ i chế độ XHCN. Nguyên tắc này đòi hỏi mọi tổ chức và cá nhân đều
phải triệt để chấp hành pháp luật trong mọi hoạt động của mình. Pháp chế cũng chính
là vấn đề cốt lõi của nhà nước pháp quyền XHCN. Nội dung của nguyên tắc pháp
chế trong sự tham gia trực tiếp của nhân dân vào quản lý nhà nước dưới chế độ
XHCN thể hiện ở những điểm cơ bản sau đây:
+ Công dân phải thực hiện đúng quyền tham gia trực tiếp của mình vào quản lý
nhà nước theo giới hạn, phạm vi, phương thức, trình tự, thủ tục do pháp luật quy
định. Dưới chế độ XHCN “Công dân được làm tất cả những gì pháp luật khơng
cấm”.
+ Trong quá trình tham gia trực tiếp vào quản lý nhà nước, công dân phải thực
hiện đầy đủ nghĩa vụ và phải chịu trách nhiệm pháp lý khi vi phạm pháp luật về lĩnh
vực này.Thực tiễn những năm gần đây cho thấy, ở nhiều địa phương đã có hiện
tượng coi thường pháp luật khi thực hiện quyền của một số người dân như: khiếu
kiện đơng người, vượt cấp; kích động, lơi kéo quần chúng chống đối chính qu yền và
người thi hành công vụ... Những hiện tượng này cần được xử lý nghiêm theo pháp
luật.
1.2. VAI TRÒ C ỦA PHÁ P LUẬT TRONG VIỆC BẢO Đ ẢM SỰ THAM GIA
TRỰC TIẾP CỦA NHÂN DÂ N VÀO QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC
1.2.1. Nhận thức chung về vai trò của pháp luật xã hội chủ ngh ĩa trong
việc bảo đảm sự tham gia trực tiếp của nhân dân vào quản lý nhà nƣớc.
Trong xã hội có giai cấp, pháp luật là phương tiện hàng đầu để điều chỉnh
các quan hệ xã hội. Tuy nhiên, ứng với mỗi lĩnh vực, mỗi hiện tượng xã hội, vai
trò của pháp luật lại đ ược thể hiện khác nhau. Xét ở góc độ khái qt, vai trị của
pháp luật đối với một lĩnh vực đời sống xã hội nào đó là khả năng tác động của
pháp luật làm cho lĩnh vực đó vận động và phát triển theo các mục tiêu mà nhà
nước đã đề ra.
21
Dân chủ, tiếp cận dưới góc độ là một hình thức nhà nước được biểu hiện
trong mối quan hệ giữa nhà nước và nhân dân. Xét ở khía cạnh vai trị của pháp
luật, có thể nói pháp luật là phương tiện của dân chủ. Bởi vì, pháp luật là cơng cụ
để nhà nước quản lý xã hội, song đến lượt mình , pháp luật cũng tạo ra khn khổ,
quy tắc để điều chỉnh tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Và, khi tự đặt
mình trong khn khổ pháp luật, bản thân nhà nước đã tự thừa nhận “giới hạn”
quyền lực của mình và đó chính là điểm xuất phát của các giá trị dân chủ.
Dân chủ với nội dung cốt lõi “tất cả quyền lực thuộc về nhân dân” được
nhiều chế độ nhà nước công khai thừa nhận, nhưng để cụ thể hóa được nội dung
đó lại ln cần được biểu hiện dưới những hình thức pháp lý mà cụ thể là các
“quyền dân chủ” được pháp luật quy định. Trên thực tế, trong mối quan hệ với
nhà nước, quyền làm chủ của nhân dân chỉ thực sự có ý nghĩa khi nó được ghi
nhận và đảm bảo thực hiện bằng pháp luật.
Pháp luật còn là đại lượng và thước đo của một nền dân chủ . Pháp luật là sự
phản ánh tập trung nhất thành quả đấu tranh của nhân dân và tiến trình dân chủ
trong mọi chế độ nhà nước. Các quyền tự do dân chủ của nhân dân được thể hiện
bằng các quy phạm pháp luật, đặc biệt là trong hiến pháp của các nhà nước. Với
các quy định của pháp luật, số lượng các quyền dân chủ và phạm vi, phương thức
thực hiện chúng được cụ thể hóa. Thơng qua các quy định của pháp luật, người ta
có thể đánh giá về tính chất và mức độ của nền dân chủ. M ặt khác, thông qua
pháp luật, quyền tự do dân chủ của mỗi cá nhân công dân được gắn liền với
những nghĩa vụ trước nhà nước, trước cộng đồng và trước các cơng dân khác.
Hay có thể nói, pháp luật là yếu tố để biến mối quan hệ giữa nhà nước và công
dân cũng như giữa mọi công dân với nhau thành các quan hệ pháp luật với các
quyền và nghĩa vụ được xác định. Đó là cơ sở pháp lý vững chắc để các quyền
dân chủ được bảo đảm thực hiện.
22
Sự tham gia trực tiếp của nhân dân vào quản lý nhà nước là biểu hiện sinh
động của nền dân chủ XHCN. Cũng như các giá trị dân chủ nói chung, nó cần
được ghi nhận và đảm bảo thực hiện bằng pháp luật. Xét dưới góc độ lý luận, vai
trị của pháp luật XHCN trong việc đảm bảo sự tham gia trực tiếp của nhân dân
vào quản lý nhà nước được thể hiện trên những nội dung chủ yếu sau đây:
- Pháp luật quy định quyền và nghĩa vụ, phạm vi và các hình thức tham gia
trực tiếp của nhân dân vào quản lý nhà nước.
Nội dung các quyền và nghĩa vụ của công dân trong việc tham gia trực tiếp
vào quản lý nhà nước không phải là những khái niệm chung chung, trừu tượng mà
đòi hỏi phải được cụ thể hóa trong các quy phạm pháp luật. M ỗi cơng dân trong
q trình tham gia trực tiếp vào quản lý nhà nước cần phải biết mình được làm gì,
khơng được làm gì, phải làm gì và làm như thế nào để việc thực hiện quyền của
mình khơng vi phạm đến quyền và lợi ích của nhà nước cũng như của cộng đồng
xã hội. Chẳng hạn, cơng dân có quyền khiếu nại, tố cáo mọi hành vi vi phạm pháp
luật trước cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhưng có nghĩa vụ tơn trọng sự thật,
tn thủ trình tự, thủ tục của việc khiếu nại, tố cáo... Tất cả những quyền và nghĩa
vụ này đều cần phải được pháp luật quy định một cách cụ thể và chặt chẽ.
Pháp luật còn xác định phạm vi, giới hạn cho sự tham gia trực tiếp của nhân
dân vào quản lý nhà nước. Xét một cách khách quan, một số công việc củ a nhà
nước không thể và không cần huy động sự tham gia trực tiếp của từng người dân.
Vì vậy, để quá trình quản lý nhà nước được thuận lợi và đảm bảo nguyên tắc “tập
trung dân chủ”, pháp luật quy định những phạm vi và giới hạn để trong đó mỗi
cơng dân có thể phát huy quyền làm chủ của mình mà khơng làm đảo lộn những
trật tự cần thiết của đời sống nhà nước.
Pháp luật quy định các hình thức cụ thể để nhân dân trực tiếp tham gia vào
quản lý nhà nước như: bầu cử, ứng cử, bãi nhiệm các đại biểu trong các cơ quan
đại diện; tham gia thảo luận và đóng góp ý kiến đối với các vấn đề chung của cả