Tải bản đầy đủ (.pdf) (75 trang)

Chứng cứ và vấn đề chứng minh trong bộ luật tố tụng dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6.94 MB, 75 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ T ư PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

VŨ VĂN ĐỔNG

CHÚNG CỨ VÀ VẤN DỂ CHÚNG MINH
TRONG Bộ LUẬT TÔ TỤNG DÂN s ự








Chuyên ngành : Luật dân sự
M ã số

: 60.38.30

LUẬN VÃN THẠC s ĩ LUẬT HỌC









Người hướng dẫn khoa học : TS. Hồng Ngọc Thỉnh

THƯ VIỆN
TRƯỜNG ĐAI HOCLŨÂT HÀ NÔI
PHỎNG ĐOC
__

Ị3Ũ5-

HÀ NỘI - 2006


LỜI CAM Đ O A N

Tôi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên
cứu khoa học của riêng tơi. Các s ố liệu, ví dụ và
trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy,
chính xác và trung thực. Những kết luận khoa
học của luận văn chưa từng được ai cơng b ố
trong bất kỳ cơng trình nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN VÃN

Vũ Văn Đồng


MỤC LỤC


Trang
MỞ ĐẦU

1

Chương 1 : MỘT SỐ VẤN ĐỂ LÝ LUẬN VỂ CHỨNG c ứ VÀ CHỦNG

4

MINH TRONG TỐ TỤNG DÂN s ự

1.1.

Khái niệm chứng cứ

1.2.

Khái niệm về chứng minh trong tố tụng dân sự

1.3.

Một số nét về lịch sử hình thành các quy định về chứng

4
13
cứ và

22

chứng minh trong tố tụng dân sự Việt Nam


Chương 2: CÁC QUY ĐỊNH VỂ CHÚNG c ứ VÀ CHÚNG MINH

29

TRONG BỘ LUẬT T ố TỤNG DÂN s ự

2.1.

Quyền và nghĩa vụ của đương sự trong việc chứng minh

29

2.2.

Trách nhiệm của Tòa án nhân dân

36

2.3.

Trách nhiệm của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong việc

cung

43

cấp chứng cứ
2.4.


Trách nhiệm của các người tham gia tố tụng khác

Chương 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN

44
47

THIỆN CHÊ ĐỊNH CHỨNG c ứ VÀ CHỨNG MINH
TRONG BỘ LUẬT T ố TỤNG DÂN s ự

3.1.

Thực trạng pháp luật về chứng cứ và chứng minh trong tố

47

tụng dân sự
3.2.

Thực tiễn xét xử

52

3.3.

Một số kiến nghị hoàn thiện

62

KẾT LUẬN


66

DANH MỰC TÀI LIỆU THAM KHẢO

68


1

M Ở ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Năm 1989 ủ y ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh thủ tục
giải quyết các vụ án dân sự; tiếp đến năm 1994 ban hành Pháp lệnh thủ tục
giải quyết các vụ án kinh tế; năm 1996 ban hành Pháp lệnh thủ tục giải quyết
các vụ án lao động. Ba Pháp lệnh trên đã phần nào đáp ứng địi hỏi bức thiết
trong tố tụng phi hình sự và là cơ sở cho các cơ quan tiến hành tố tụng, người
tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng thực hiện quyền và nghĩa vụ của
mình. Tuy vậy, các quy phạm pháp luật của ba pháp lệnh trên dần đã lộ rõ hạn
chế, mâu thuẫn. Đặc biệt, trong vấn đề chứng cứ và chứng minh không có quy
phạm nào chuẩn hóa khái niệm chứng cứ và chứng minh, và không quy định
đầy đủ về chế định này, điều đó gây khó khăn trong sử dụng, đánh giá chứng
cứ làm ảnh hưởng không nhỏ trong việc giải quyết vụ án.
Thực tiễn đặt ra cần phải có một Bộ luật Tố tụng dân sự hoàn thiện
hơn, ngày 15 tháng 6 năm 2004 Quốc hội đã ban hành Bộ luật Tố tụng dân sự
Việt Nam. Bộ luật có phạm vi điều chỉnh rất rộng, bao gồm nhiều quan hệ
pháp luật tố tụng thuộc nhiều lĩnh vực như dân sự, hôn nhân, kinh tế, lao động
và thi hành án.
Từ khi Bộ luật Tố tụng dân sự bắt đầu có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01

năm 2005 đến nay vấn đề chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự vẫn
còn nhiều quan điểm khác nhau cần phải sáng tỏ như:
Vê lý luận: Đã có nhiều cách hiểu khác nhau thậm chí trái ngược nhau
về chứng cứ và chứng minh. Bộ luật Tố tụng dân sự đã quy định tới 20 điều
luật, từ Điều 79 đến Điều 98.
V ề thực tiễn : Trong công tác xét xử ở mỗi Tịa án, Viện kiểm sát,
luật sư... có cách vận dụng khác nhau, đánh giá về nguồn và xác định chứng


2

cứ và vấn đề chứng minh còn khác nhau. Điều đó đã dẫn đến cùng một vụ
án, cùng một loại chứng cứ, có chung cơ sở chứng minh mà mỗi Tòa án lại
xử một kiểu, mỗi Viện kiểm sát, Luật sư có quan điểm, nhìn nhận trái
ngược nhau.
Từ thực trạng trên, với mong muốn nghiên cứu để làm sáng tỏ một
cách đầy đủ cả về lý luận và thực tiễn về chứng minh và chứng cứ trong các vụ
việc dân sự, tác giả chọn đề tài: "Chứng cứ và vân đề chứng minh trong Bộ
luật Tố tụng dân sự ” làm luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trước khi có Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004, mọi thủ tục tố tụng phi
hình sự đều thực hiện theo ba Pháp lệnh trên. Bởi vậy, một số bài viết, luận
văn được nghiên cứu dựa theo các Pháp lệnh đó. Từ khi Bộ luật Tố tụng dân sự
có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2005 vấn đề chứng minh và chứng cứ
mới chỉ có một số bài viết như "Chế định chứng cứ và chứng minh trong Bộ
luật T ố tụng dân sự" tác giả Thạc sĩ Nguyễn Cơng Bình, Tạp chí Nhà nước và
Pháp luật số 02 năm 2004; "Một vài suy nghĩ về chứng cứ trong Bộ luật T ố
tụng dân sự" tác giả Tưởng Duy Lượng, Tạp chí Tòa án số 20, 21/2004. Những
bài viết trên mới chỉ giải quyết một vài khía cạnh về chứng minh và chứng cứ,
chứ chưa nghiên cứu một cách toàn diện hệ thống.

3. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Với phạm vi của một luận văn thạc sĩ luật học tác giả chưa có đủ điều
kiện nghiên cứu hết các vấn đề chứng cứ và chứng minh trong tất cả các vụ
việc dân sự theo phạm vi điều chỉnh của Bộ luật Tố tụng dân sự, vì vậy tác giả
chỉ nghiên cứu chuyên sâu về chứng cứ và chứng minh trong phạm vi các vụ
án dân sự truyền thống (dân sự và hôn nhân gia đình), cịn trong các lĩnh vực
khác tác giả hy vọng sẽ có cơ hội thực hiện đầy đủ nội dung của chế định này
trong các cơng trình nghiên cứu sau này.


3

4. Phương pháp nghiên cứu đê tài
Luận văn được nghiên cứu theo phương pháp luận của chủ nghĩa Mác Lênin và một số phương pháp cụ thể như: Lịch sử phân tích, so sánh, chứng
minh, tổng hợp và phương pháp xã hội, phương pháp khảo sát thăm dò v.v...
5. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu một cách có hệ thống tồn diện các vấn đề lý luận và thực
tiễn của chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự. Từ mục đích này,
nhiệm vụ của luận văn là:
- Nghiên cứu đưa ra những vấn đề lý luận cơ bản nhất, giúp cho việc
nhận thức một cách rõ nét về chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự.
- Từ việc nghiên cứu những hạn chế, bất cập, vướng mắc trong thực
tiễn đề xuất những kiến nghị trong việc hoàn thiện các quy định về chứng cứ.
6. Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn
- Xây dựng khái niệm khoa học về chứng cứ và khái niệm chứng minh
trong tố tụng dân sự.
- Chỉ ra những đặc trưng của chứng cứ trong tố tụng dân sự.
- Chỉ ra những bất cập của luật thực định và những vướng mắc về
chứng cứ và chứng minh trong thực tiễn cần phải giải quyết và nêu những kiến
nghị cho việc hoàn thiện pháp luật về vấn đề này.

7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương, 10 tiết.


4

Chương 1
M Ộ T SỐ VÂN ĐỂ LÝ LUẬN VỂ CHÚNG c ứ VÀ CHỨNG M INH
TRO N G TỐ TỤNG DÂN s ự

1.1. KHÁI NIỆM CHỦNG c ứ

1.1.1. Định nghĩa về chứng cứ
Chứng cứ là vấn đề trung tâm và quan trọng của tố tụng dân sự. Có thể
nói, mọi hoạt động trong quá trình chứng minh chủ yếu xoay quanh vấn đề
chứng cứ, mọi giai đoạn của tố tụng dân sự mở ra, kết thúc và kết quả đều phụ
thuộc phần lớn vào chứng cứ. Chứng cứ là phần quan trọng, lớn nhất để chứng
minh vụ việc dân sự. Dựa vào chứng cứ mà các đương sự có cơ sở xác đáng
chứng minh bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình; các cơ quan tiến hành tố
tụng có đủ hay khơng đủ điều kiện để xác định tình tiết của vụ việc dân sự
đúng, đủ, chính xác để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho cơng dân và bảo vệ
pháp luật. Vì vậy, việc nhận định chứng cứ có vai trị quan trọng nhất trong
hoạt động chứng minh của tố tụng dân sự, từ đó giúp việc nhận thức đúng đắn
về hoạt động thực tiễn.
Cơ sở về lý luận: Quan điểm vật chất sinh ra không bao giờ mất đi, mà
nó chỉ chuyển hóa từ dạng này sang dạng khác và mọi sự vật, hiện tượng có
mối liên hệ phổ biến. Từ đó, các tài liệu, sự kiện, hiện vật được coi là chứng
cứ cũng là một dạng vật chất, nó phản ánh vào đầu óc con người và lưu lại
trong đầu óc, trí nhớ.

Do vậy, nếu đương sự muốn chứng minh quyền và lợi ích hợp pháp
của mình bị xâm hại, phải cung cấp cho Tịa án và các cơ quan tiến hành tố
tụng có thẩm quyền những chứng cứ mà Bộ luật Tố tụng dân sự coi đó là một
trong các nguồn của chứng cứ. Để làm rõ sự thật khách quan khi thụ lý vụ việc
dân sự, Tòa án phải làm sáng tỏ những tình tiết liên quan đến vụ kiện như:


5

Việc xác lập quyền, nghĩa vụ dân sự trên cơ sở nào? Các đương sự đã cung
cấp được các chứng cứ gì? Và có khả năng thu thập thêm được một số chứng
cứ gì khác? Từ đó, Tịa án sẽ tiếp nhận vụ việc và thực hiện tất cả các biện
pháp để nhằm thu thập đầy đủ, tồn diện, chính xác, đúng đắn các loại nguồn
của chứng cứ mà pháp luật có quy định để có cơ sở giải quyết khách quan,
đúng đắn vụ việc dân sự.
Có thể tham khảo một số định nghĩa về chứng cứ trong Bộ luật Tố
tụng dân sự của một số nước trên thế giới:
Bộ luật Tố tụng dân sự Liên bang Nga quy định về chứng cứ như sau:
Chứng cứ trong vụ án dân sự là những gì được thu thập theo trình tự, thủ tục
do pháp luật quy định mà Tòa án căn cứ vào đó để xác định có hay khơng có
các tình tiết làm cơ sở cho những yêu cầu hay sự phản đối yêu cầu của các bên
cũng như những tình tiết khác có ý nghĩa để giải quyết đúng đắn vụ án.
Chứng cứ có thể thu thập được từ lời giải thích của các bên, của người
có quyền và nghĩa vụ liên quan, lời khai của người làm chứng, thư chứng và
vật chứng, ghi âm và ghi hình, kết luận của người giám định.
Bộ luật Tố tụng dân sự Nhật Bản định nghĩa: "Chứng cứ là một tư liệu
thông qua đó một tình tiết được Tịa án cơng nhận và là một tư liệu, cơ sở thơng
qua đó Tịa án được thuyết phục là một tình tiết nhất định tồn tại hay không".
Ở Việt Nam, khái niệm chứng cứ được xây dựng dựa trên cơ sở tiếp
thu có chọn lọc những quan điểm khoa học về chứng cứ trong pháp luật tố

tụng dân sự ở các nước. Xuất phát từ thực tế khách quan của chứng cứ không
lệ thuộc vào ý thức con người; đánh giá chứng cứ trong mối liên hệ biện
chứng, mỗi chứng cứ đều có nguồn gốc dẫn đến sự hình thành nên nó, sự tồn
tại của chứng cứ ln liên quan đến nhau. Từ đó Bộ luật Tố tụng dân sự Việt
Nam định nghĩa về chứng cứ như sau:
Chứng cứ trong vụ việc dân sự là những gì có thật được
đương sự và cá nhân, cơ quan, tổ chức khác giao nộp cho Tòa án


6

hoặc do Tịa án thu thập được theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này
quy định mà Tòa án dùng làm căn cứ để xác định yêu cầu hay sự
phản đối của đương sự là có căn cứ và hợp pháp hay khơng cũng
như những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ
việc dân sự (Điều 81 Bộ luật Tố tụng dân sự).
Có thể hiểu chung: chứng cứ là những gì có thật được thu thập theo
đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự dùng để làm căn cứ giải quyết đúng
đắn vụ án.
Xem xét chứng cứ xuất phát từ thực tế khách quan của chính bản thân
nó chứ khơng lệ thuộc vào ý thức của con người.
Trong mối liên hệ biện chứng, nhìn nhận và xem xét chứng cứ trong sự
vận động, phát triển và tồn diện. Trong thế giói khách quan, mỗi chứng cứ đều
có nguồn gốc hình thành ra nó. Sự tồn tại của chứng cứ không ở dạng tĩnh lặng,
bất động, riêng lẻ mà chúng có sự liên quan lẫn nhau.
Theo quan điểm của tác giả, tại Điều 81 Bộ luật Tố tụng dân sự định
nghĩa về chứng cứ đã đặt cơ sở quan trọng trong việc xây dựng và hoàn thiện lý
luận chứng cứ. Tuy vậy, cụm từ "chứng cứ trong vụ việc dân sự là những gì có
thật" khơng phản ánh đúng bản chất của chứng cứ. Bản chất chứng cứ là những
sự kiện, tình tiết liên quan đến vụ việc dân sự, nó tồn tại trong thế giới vật chất có

thể dưới dạng các dấu vết phi vật chất, liên quan đến các tình tiết của vụ án phản
ánh vào bộ não con người và từ đó phản ánh lại. Ví dụ, lời khai của đương sự,
người làm chứng sau khi biết được, hay chứng kiến được ghi lại bằng văn bản và
việc ghi lại lời khai của đương sự, người làm chứng... phải phản ánh đúng sự thật
khách quan và phải được thực hiện theo pháp luật thủ tụng tố tụng luật dân sự thì
mới được coi là chứng cứ.
Chứng cứ tồn tại khách quan dưới nhiều hình thức khác nhau, con người
có thể phát hiện, cất giữ, thu thập, bảo quản, bảo vệ chứ khơng tự tạo ra nó.


7

Bởi vậy, cụm từ "những gì có thật" nên thay bằng cụm từ "những gì
phản ánh sự thật khách quan" khoa học và hợp lý hơn. Từ đó có thể hiểu
chứng cứ như sau:
Chứng cứ trong vụ việc dân sự là những gì phản ánh sự thật khách quan
liên quan đến vụ việc dân sự mà Tòa án đang giải quyết, được đương sự, cá
nhân, cơ quan, tổ chức thu thập và giao nộp cho Tòa án hoặc do Tòa án thu thập
theo trình tự, thủ tục mà Bộ luật này quy định mà Tòa án dùng làm căn cứ đ ể xác
định yêu cầu hay sự phản đối của đương sự là có căn cứ và hợp pháp hay khơng,
cũng như những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ việc dán sự.
1.1.2. Đặc điểm của chứng cứ
a) Tính khách quan của chứng cứ
Chứng cứ trước hết là những gì có thật tồn tại khách quan không phụ
thuộc vào ý thức chủ quan của con người. Đương sự và các cơ quan tiến hành
tố tụng khơng được tạo ra chứng cứ, nếu vậy tính khách quan sẽ khơng cịn;
do đó khơng thể coi là chứng cứ. Một sự kiện, tình tiết tồn tại khách quan
được khai thác và sử dụng nó là chứng cứ do con người phát hiện tìm kiếm và
thu thập chứng cứ, con người nghiên cứu và đánh giá để sử dụng nó.
b) Tính liên quan của chứng cứ

Tính liên quan: Theo Từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản Giáo dục, 1998:
"Tính liên quan là sự liên hệ, dính dáng nhau ở một hay một số tính chất".
Tính liên quan trong vụ việc dân sự được hiểu là các tình tiết, sự kiện có
liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp tới vụ việc dân sự mà Tòa án đang giải quyết.
Chứng cứ là những sự kiện, tình tiết, tài liệu tổn tại khách quan và có
liên quan đến vụ việc mà Tịa án cần giải quyết. Bộ luật Tố tụng dân sự Việt
Nam quy định cụ thể các loại nguồn của chứng cứ, tuy nhiên Tòa án phải chọn
lọc và đánh giá những gì có liên quan đến vụ việc mà thơi. Tính liên quan của
chứng cứ có thể là trực tiếp hoặc gián tiếp. Mối quan hệ trực tiếp là mối quan

'*■


8

hệ dựa vào đó có thể xác định được ngay những tình tiết cần chứng minh. Mối
liên hệ gián tiếp là qua khâu trung gian mới tìm được tình tiết, sự kiện có gắn
với vụ án. Tuy nhiên, cho dù là trực tiếp hay gián tiếp thì cũng phải có mối
quan hệ nội tại, có mối quan hệ nhân quả. Từ việc đánh giá rõ tình tiết liên
quan, Tịa án có thể xác định đúng chứng cứ cần sử dụng để giải quyết đúng
đắn vụ việc dân sự mà không để xảy ra trường hợp thừa sự kiện nhưng không
chuẩn về chứng cứ, hoặc khơng đầy đủ chứng cứ.
c)

Tính hợp pháp của chứng cứ

Các tình tiết, sự kiện được coi là chứng cứ phải được thu thập, bảo quản,
xem xét, đánh giá, nghiên cứu theo thủ tục luật định, có như vậy mới bảo đảm
giá trị chứng minh. Trước hết, chứng cứ phải được pháp luật thừa nhận, các
tình tiết, sự kiện chỉ được coi là chứng cứ khi mà pháp luật tố tụng dân sự quy

định nó được rút ra từ một trong các loại nguồn của chứng cứ. Vật chứng phải
ln là vật gốc, có tính đặc định, liên quan đến vụ việc dân sự thì mới có giá
trị pháp lý. Vì vậy, Tịa án khơng chỉ thu thập đúng trình tự mà phải bảo quản,
giữ gìn, đánh giá chứng cứ một cách đầy đủ, toàn diện để đảm bảo đúng đắn
tính hợp pháp của chứng cứ.
Tính hợp pháp của chứng cứ được xác định cụ thể:
- Phải thu thập từ một trong các nguồn hợp pháp mà Bộ luật Tố tụng
dân sự quy định.
- Phải thu thập từ phương tiện chứng minh hợp pháp mà Bộ luật Tố
tụng dân sự quy định.
- Phải được giao nộp trong một thời hạn hợp pháp (Bộ luật Tố tụng dân
sự đang để trống quy định này).
- Phải được công bố công khai theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
- Quá trình thu thập chứng cứ của các chủ thể không được vi phạm
pháp luật. Nếu vi phạm pháp luật thì nó khơng có giá trị chứng minh, không
được sử dụng làm căn cứ để giải quyết vụ án.


9

1.1.3. Phân loại chứng cứ
Trên thực tế, chứng cứ thường được phân thành các loại khác nhau.
Có nhiều cách phân loại, song phổ biến là dựa vào ba căn cứ sau:
- Dựa vào nguồn thu nhận chứng cứ: Chứng cứ được phân ra chứng cứ
theo người và chứng cứ theo vật. Chứng cứ theo người là chứng cứ được lấy từ
lời khai của đương sự, người làm chứng, từ kết luận của giám định viên.
Chứng cứ theo vật được Tòa án thu thập từ những vật khác nhau và
giấy tờ, tài liệu có liên quan.
- Căn cứ vào hình thức tạo thành chứng cứ mà chia ra làm chứng cứ
gốc và chứng cứ thuật lại: Chứng cứ gốc là những sự kiện thực tế đầu tiên về

sự kiện cần chứng minh. Thơng tin đó có liên quan trực tiếp đến sự kiện cần
chứng minh.
Chứng cứ thuật lại là những chứng cứ được sao chép lại từ những chứng
cứ khác. Giữa chứng cứ thuật lại và chứng cứ gốc là một khâu trung gian.
- Căn cứ vào mối liên hệ giữa chứng cứ với những sự kiện cần chứng
minh: Chứng cứ được chia ra thành chứng cứ trực tiếp và chứng cứ gián tiếp.
Chứng cứ trực tiếp là những sự kiện, tình tiết, tin tức mà qua đó Tịa án
có thể xác định ngay được mức độ đúng, sai các yêu cầu của đương sự. Ví dụ,
bản di chúc có chữ ký của người chết, hoặc hợp đồng mua bán tài sản có chữ
ký của các bên.
Chứng cứ gián tiếp là chứng cứ có vai trị, ý nghĩa quan trọng trong
mối quan hệ đối với việc sử dụng chứng cứ trong hoạt động chứng minh.
Chứng cứ gián tiếp khi được so sánh sử dụng trong mối liên hệ với các chứng
cứ khác tạo cơ sở nhận định đầy đủ, toàn diện các tình tiết, sự kiện giúp Tịa
án có kết luận giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự.


10

/

1.1.4. Nguồn của chứng cứ
Nguồn chứng cứ trong tố tụng dân sự là nguồn được thu thập, cung cấp

theo trình tự Bộ luật Tố tụng dân sự và được liệt kê tại Điều 82 Bộ luật Tố
tụng dân sự. Bởi vậy, nếu khơng có nguồn chứng cứ sẽ khơng có chứng cứ
chứng minh để giải quyết vụ việc dân sự.
Theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự thì nguồn của chứng cứ bao
gồm: "Các tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được; các vật chứng; lời khai
của đương sự, lời khai của người làm chứng; kết luận giám định; biên bản ghi

kết quả thẩm định tại chỗ; tập quán; kết quả định giá tài sản; các nguồn khác
mà pháp luật có quy định" (Điều 82 Bộ luật Tố tụng dân sự). Có thể hiểu
nguồn của chứng cứ là nơi chứa đựng chứng cứ. Nguồn tồn tại ở hai dạng chủ
yếu là con người, vật và tài liệu.
Tòa án chỉ có thể thu thập chứng cứ qua các nguồn chứng cứ. Bất kỳ
loại chứng cứ nào cũng phải nằm trong một loại nguồn chứng cứ nhất định;
nhưng khơng có nghĩa là khi tìm đến một nguồn chứng cứ nào đó thì nhất định
trong đó sẽ chứa đựng chứng cứ, vì vậy sẽ phạm sai lầm trong đánh giá, sử dụng.
Ví dụ, vật chứng do đương sự cung cấp cho Tòa án là nguồn nhưng là vật chứng
làm giả, gian dối thì khơng thể coi là vật chứng được; hay kết luận giám định là
nguồn chứng cứ nhưng kết luận giám định sai thì khơng thể có chứng cứ được.
Theo Bộ luật Tố tụng dân sự Việt Nam, có các loại nguồn cụ thể như sau:
- Các tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được
Các tài liệu đó phải là bản chính hoặc bản sao có cơng chứng, chứng
thực hợp pháp hoặc do tổ chức có thẩm quyền cung cấp, xác nhận. Bản chính
có thể là bản gốc hoặc bản được dùng làm cơ sở lập ra các bản sao. Các tài
liệu nghe được, nhìn được phải xuất trình kèm theo văn bản xác định xuất xứ
của tài liệu đó hoặc văn bản về sự liên quan tới cuộc thu âm, thu hình đó. Các
tài liệu này có thể là băng ghi âm, đĩa ghi hình, phim ảnh... Nếu đương sự


11

khơng xuất trình được các văn bản nêu trên thì tài liệu nghe, đọc, nhìn được
mà đương sự giao nộp không thể được coi là chứng cứ.
- Các vật chứng
Vật chứng phải là hiện vật gốc liên quan đến vụ việc dân sự. Do vậy,
vật chứng phải ln có tính đặc định liên quan đến vụviệc dân sự thì mới có
giá trị pháp lý. Vì vậy, Tịa án khơng chỉ thu thập vậtchứngtheo trình


tự luật

định mà phải bảo quản, giữ gìn để bảo đảm giá trị đặc định của vật chứng.
Nếu đương sự cung cấp vật chứng, Thẩm phán phải lập biên bản miêu tả chi
tiết hình thức cũng như đặc tính lý hóa của sự vật, đặc biệt dấu vết thể hiện
trên vật chứng đó. Đối với vật khơng thể di chuyển được thì phải xem xét tại
chỗ; vật mau hỏng phải xem xét kịp thời và phản ánh đầy đủ trong quá trình
xem xét như ghi biên bản, chụp hình, ghi hình để lưu.
- Lời khai của đương sự
Đương sự là người có quyền và lợi ích gắn liền với vụ việc dân sự, họ
tham gia trực tiếp vào quan hệ pháp luật đang có tranh chấp được giải quyết tại
Tòa án. Lời khai của đương sự dựa trên trí nhớ về sự kiện, tình tiết nên thường
mang tính chủ quan. Tâm lý trong lịi khai của đương sự thường thiên về bảo vệ cái
quyền lọi cá nhân, nên khi xem xét yếu tố này Tòa án thận trọng khi đánh giá.
Lời khai của đương sự có thể bằng văn bản hay ghi âm, ghi hình theo
đúng trình tự và ký tên của mình. Lưu ý tuổi của đương sự khi lấy lời khai.
- Lời khai của người làm chứng
Người làm chứng là người biết rõ những thông tin liên quan đến vụ
kiện nhưng lại khơng có quyền lợi trong việc việc đó, vì vậy lời khai của người
làm chứng thường thể hiện yếu tố khách quan hơn. Có thể do một số yếu tố
nào đó như bị dụ dỗ, bị mua chuộc, bị đe dọa, hành hung mà đưa ra những lời
khai sai lệch, thiếu chính xác. Lời khai của người làm chứng theo quy định
phải được ghi bằng văn bản hoặc ghi âm, ghi hình, nhưng phải ký tên xác nhận.


12

- Kết luật giám định
Người giám định: Là người có kiến thức chuyên môn cần thiết trong
lĩnh vực khoa học, nghệ thuật, văn học, kỹ thuật hoặc nghề thủ công... làm

việc tại cơ quan giám định tư pháp.
Kết luận giám định: Là một kết luận có cơ sở khoa học được đưa ra
sau khi đã nghiên cứu những vấn đề theo quyết định trưng cầu giám định của
Tòa án mà một hoặc các bên đương sự có yêu cầu. Kết luận giám định phải
được thực hiện đầy đủ quy định mà Pháp lệnh Giám định tư pháp quy định
(Điều 35 Pháp lệnh Giám định tư pháp).
Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, nếu cần kết luận của cơ
quan chun mơn để làm sáng tỏ một tình tiết, sự kiện nào đó. Theo yêu cầu
của một bên đương sự hoặc theo thỏa thuận của các bên đương sự, Thẩm phán
ra quyết định trưng cầu giám định. Kết luận giám định chính xác có tầm quan
trọng rất lớn. Ví dụ, vụ kiện tranh chấp về thừa kế. Bản di chúc bị tố cáo là giả
mạo, nếu xác định của cơ quan giám định tư pháp là giả hay khơng, nó quyết
định toàn bộ vụ án. Bởi vậy, các kết luận giám định có thể được giám định lại,
giám định bổ sung ở các cơ quan có chức năng giám định khác.
- Biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ
Kết quả xem xét thẩm định tại chỗ, nếu việc thẩm định được tiến hành
theo đúng thủ tục do pháp luật quy định và phải có chữ ký của các thành viên
tham gia thẩm định. Cụ thể, Tòa án đến tận nơi có sự việc để làm việc cùng có
đại diện của cơ quan sở tại có thẩm quyền. Tịa án phải báo cho đương sự biết
trước để họ chứng kiến việc xem xét, thẩm định.
- Tập quán là nguồn của chứng cứ
Tập quán là thói quen đã thành nếp trong đời sống xã hội, trong sản xuất
và được công chúng thừa nhận. Đối với một tập quán được coi là chứng cứ
trong một vụ án cụ thể thì Thẩm phán phải yêu cầu đương sự trình bày rõ


13

nguồn gốc của tập quán đó và chứng minh tập quán đó bằng cách ghi nhận nó
bằng văn bản thể hiện việc cả cộng đồng dân cư nơi có tập quán đó thừa nhận,

như xác nhận vào văn bản cả cộng đồng dân cư và được chứng thực cũng như
xác nhận của ủ y ban nhân dân cấp xã nơi có tập quán đó được thừa nhận.
ữỳ

Thực chất, phong tục, tập quán chỉ là cơ sở để đánh giá chứng cứ. Bởi

lẽ, nó khơng có giới hạn cụ thể, rạch rịi, ở một mức độ nào đó nó có tính ước lệ
và suy đốn. Ví dụ, ở một cộng đồng dân cư, tính cục bộ tại địa phương đó dẫn
đến vì giúp cho một cá nhân nào đó mà cộng đổng dân cư có thể ký và xác thực
vào văn bản mà việc này vẫn không trái với đạo đức xã hội. Tóm lại, về cơ bản,
tập qn khơng được trái với các nguyên tắc của pháp luật và đạo đức xã hội
và đương nhiên tập quán đó chưa được khái quát để cụ thể hóa trong luật.
- Kết quả định giá tài sản
Định giá có vai trị quan trọng trong việc giải quyết vụ án. Định giá có
thể do đương sự yêu cầu, hay tự Tòa án nhận thấy cần định giá.
Kết quả định giá là nguồn của chứng cứ nên việc định giá do Hội đồng
định giá được lập thành văn bản và thực hiện theo đúng quy định của Bộ luật
Tố tụng dân sự.
Khi định giá tài sản, Hội đồng định giá tiến hành định giá riêng từng
tài sản. Để xác định đúng giá trị tài sản của vụ việc dân sự phải căn cứ vào
mức phố biến giá cả thị trường địa phương tại thời điểm định giá mà có vật, tài
sản cần định giá.
1.2. KHÁI NIỆM CHÚNG MINH TRONG T ố TỤNG DÂN s ự

1.2.1. Thê nào là chứng minh trong tô tụng dân sự
Theo Từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản Giáo dục, 1998, trang 178:
"Chứng minh là dùng lý lẽ, suy luận, bằng cứ để chỉ rõ điều gì đó đúng hay
khơng đúng".



14

Từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản Đà Nẩng, 2003, tr. 192 ghi: "Chứng
minh là làm cho thấy rõ là có thật, là đúng bằng sự việc hoặc bằng lý lẽ".
Mỗi vụ việc dân sự phát sinh tại Tòa án thường chứa đựng những mâu
thuẫn nhất định giữa các bên đương sự nên rất phức tạp. Để giải quyết được vụ
việc dân sự thì mọi vấn đề phải được làm rõ trước khi Tòa án quyết định giải
quyết vụ việc dân sự.
Chứng minh là hoạt động chi phối kết quả giải quyết vụ việc dân sự. Bản
chất của hoạt động chứng minh của các chủ thể tố tụng không chỉ thể hiện ở chỗ
xác định các tình tiết, sự kiện của vụ việc dân sự mà còn thể hiện ở chỗ phải làm
cho mọi người thấy rõ là có thật, là đúng với thực tế. Do đó, các phương thức
được các chủ thể chứng minh sử dụng rất đa dạng. Nhưng để thực hiện được mục
đích, nhiệm vụ của chứng minh, các chủ thể chứng minh bao giờ cũng phải chỉ
ra được tất cả các căn cứ pháp lý và thực tiễn liên quan đến vụ việc dân sự.
Chứng minh trong tố tụng dân sự có ý nghĩa xác định rõ các sự kiện,
tình tiết của vụ việc dân sự, đảm bảo việc giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự.
Chứng minh là biện pháp duy nhất để tìm ra sự thật khách quan của vụ việc
dân sự.
Thông qua hoạt động chứng minh, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân và
các chủ thể khác thấy rõ các tình tiết, sự kiện của vụ việc dân sự được giải quyết.
Đối với các đương sự, chứng minh là vấn đề rất quan trọng để các đương sự bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ, trên cơ sở đó thuyết phục Tịa bảo vệ. Trước
Tịa án, nếu đương sự khơng chứng minh được thì quyền và lợi ích hợp pháp của
họ có thể sẽ khơng được Tịa án bảo vệ. Trên thực tế, Tịa án có thể sai lầm trong
việc xác định, đánh giá chứng cứ, Tịa khơng làm sáng tỏ được các tình tiết của
vụ việc dân sự. Điều đó dẫn đến việc giải quyết không đúng với sự thật, đương sự
không được bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp. Chứng minh khơng chỉ có ý nghĩa
đối với việc giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự của Tòa án, mà còn có ý nghĩa
bảo đảm cho đương sự bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp của mình.



15

Thực chất của hoạt động chứng minh bao gồm việc cung cấp, thu thập
chứng cứ cùng các hoạt động nghiên cứu, đánh giá và sử dụng chứng cứ của
đương sự và Tịa án nhằm có cơ sở giải quyết bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của cơng dân và của Nhà nước. Từ đó có định nghĩa về chứng minh như sau:
Chứng minh trong tố tụng dân sự là hoạt động tố tụng của các chủ thể tô'
tụng trong việc cung cấp, thu thập, nghiên cứu, đánh giá và sử dụng chứng cứ đ ể
xác định sự thật khách quan của vụ việc dân sự.
1.2.2. Quá trình chứng minh
Chứng minh được diễn ra suốt trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự,
như hoạt động cung cấp, thu thập, xác định, nghiên cứu và đánh giá chứng cứ tại
Tòa án. Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, các chủ thể phải thực hiện đúng
quyền và nghĩa vụ của mình mà Bộ luật Tố tụng dân sự quy đinh. Kết quả giải
quyết vụ việc dân sự phụ thuộc phần lớn vào việc chứng minh; vì vậy, trong quá
trình này địi hỏi phải thận trọng, tỷ mỷ và có đủ thời gian để đạt kết quả tốt nhất.
Theo quy định tại Điều 165, 175 Bộ luật Tố tụng dân sự thì ngay khi
khởi kiện vụ án, đương sự đã thực hiện quyền và nghĩa vụ chứng minh bằng
việc nguyên đơn gửi kèm theo đơn khởi kiện là các tài liệu, chứng cứ để chứng
minh cho yêu cầu của mình; bị đơn, người có nghĩa vụ liên quan nhận được
thơng báo về việc thụ lý vụ án phải gửi cho Tòa án văn bản ghi ý kiến đối với
yêu cầu khởi kiện và chứng cứ kèm theo. Trong q trình Tịa án giải quyết vụ
việc dân sự, đương sự có quyền và nghĩa vụ giao nộp chứng cứ cho Tòa án
(Điều 85 Bộ luật Tố tụng dân sự). Tại phiên tòa, các bên đương sự tham gia
tranh luận để chứng minh bảo vệ quyền lợi của mình, thời gian tranh luận của
họ không hạn chế (Điều 233 Bộ luật Tố tụng dân sự). Khi có kháng cáo, người
kháng cáo phải gửi cho Tòa án các tài liệu, chứng cứ bổ sung (nếu có) để chứng
minh cho kháng cáo của mình là có căn cứ và hợp pháp (khoản 3 Điều 244 Bộ

luật Tố tụng dân sự).


16

Chứng minh diễn ra trong suốt quá trình giải quyết vụ việc dân sự.
Hoạt động chứng minh bao gồm nhiều hoạt động khác nhau của các chủ thể
tố tụng. Trong đó, hoạt động cung cấp, thu thập, nghiên cứu và đánh giá
chứng cứ tại phiên tòa của các chủ thể là chủ yếu và mang tính quyết định:
- Cung cấp chúng cứ: Là nghĩa vụ chủ yếu do đương sự giao nộp cho
Tòa án, đương sự muốn làm rõ được yêu cầu hay phản đối yêu cầu của họ là
có căn cứ hợp pháp thì trách nhiệm của họ là phải cung cấp, giao nộp chứng
cứ cho Tòa án để chứng minh.
Việc cung cấp chứng cứ cịn có thể do cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp.
- Thu thập chứng cứ là trách nhiệm của các đương sự, một số trường hợp
Tòa án thu thập. Việc thu thập, cung cấp và giao nộp chứng cứ phải đúng hạn,
nhanh chóng và kịp thời.
- Nghiên cứu và đánh giá là giai đoạn cuối cùng của hoạt động chứng
minh. Nó là một q trình lơgíc nhằm xác định giá trị chứng minh và sự phù
hợp của các chứng cứ - sự phù hợp của chứng cứ ở đây là sự phù hợp giữa
những tình tiết, sự kiện đã thu thập được với thực tế khách quan. Thông qua
nghiên cứu và đánh giá chứng cứ, Tòa án xác định đối tượng chứng minh và
sắp xếp các sự kiện theo một trình tự nhất định. Việc suy đốn chứng cứ có
thể được sử dụng trong quá trình đánh giá chứng cứ, nhưng việc suy đoán này
phải dựa trên các chứng cứ khác hoặc trên tổng thể các chứng cứ có trong hồ
sơ chứ khơng được theo nhận thức chủ quan của người đánh giá.
Theo Điều

Bộ luật Tố tụng dân sự, trong trường hợp đương sự


khơng thể tự mình thu thập chứng cứ và họ có u cầu thì Thẩm phán có thể
tiến hành một hoặc một số biện pháp thu thập chứng cứ. Khi áp dụng các biện
pháp thu thập chứng cứ, Thẩm phán phải ra quyết định bằng văn bản, trừ việc
lấy lời khai của đương sự, người làm chứng theo quy định của Điều 95, Điều 96
Bộ luật Tố tụng dân sự. Việc đánh giá chứng cứ phải khách quan, toàn diện,


17

THƯ VI ỆN
TRƯỚNG ĐẠi H O ClÚ Àl ha nịi
PHỊNG ĐŨC

33££L___

đầy đủ và chính xác; Tịa án phải đánh giá từng chứng cứ; mọi chứng cứ phải
được công bố và sử dụng cơng khai như nhau, trừ trường hợp có liên quan đến
bí mật nhà nước, thuần phong mỹ tục của dân tộc, bí mật đời tư của cá nhân
theo yêu cầu chính đáng của đương sự (Điều 97 Bộ luật Tố tụng dân sự).
1.2.3. Chủ thể của hoạt động chứng minh
Chứng minh làm rõ các sự kiện, tình tiết của vụ việc dân sự để giải
quyết đúng đắn vụ việc dân sự. Nhưng ở đây phải xác định ai thực hiện việc
chứng minh? Ai là người đứng ra để thu thập, giao nộp, nghiên cứu đánh giá
chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự?
Trong tố tụng dân sự, đương sự tham gia tố tụng là chủ thể trung tâm.
Tuy vậy, hoạt động chứng minh không chỉ đi tìm chứng cứ cho yêu cầu hay
phản đối yêu cầu của đương sự mà còn phải làm rõ được tất cả các vấn đề liên
quan đến vụ việc dân sự Tịa án có nhiệm vụ giải quyết. Khi đưa ra yêu cầu,
đương sự không chỉ phải đưa ra những tình tiết, sự kiện dựa vào đó mà họ u
cầu, mà còn đưa ra cả những căn cứ pháp lý của các yêu cầu. Khi quyết định

giải quyết vụ việc dân sự, trong bản án, quyết định giải quyết vụ việc dân sự
của mình Tịa án cũng phải chỉ rõ quyết định được dựa trên những căn cứ thực
tế và căn cứ pháp lý nào.
Vấn đề xác định rõ chủ thể chứng minh, quyền và nghĩa vụ của họ như
thế nào? Vì mỗi chủ thể tham gia tố tụng dân sự đều xuất phát từ những mục
đích, nhiệm vụ khác nhau nên quyền và nghĩa vụ của họ cũng khác nhau.
Trong đó, xác định nghĩa vụ chứng minh thuộc về đương sự, người đại diện
của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và Tịa án
trong việc làm rõ các tình tiết, sự kiện của vụ án dân sự.
Chủ th ể chứng minh trong tố tụng dân sự gồm đương sự, người đại
diện cho đương sự, người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho đương sự, cá
nhân, cơ quan, tổ chức khác và Tịa án. Trong đó, đương sự có nghĩa vụ chủ


18

yếu đ ể chứng minh cho yêu cầu hay phản đối yêu cầu của mình theo trình tự
thủ tục quy định trong Bộ luật T ố tụng dân sự.
Theo quy định tại các điều 06, 58, 63 64, 74, 79, 117, 118, 165, 230
của Bộ luật Tố tụng dân sự, chủ thể của hoạt động chứng minh bao gồm
đương sự và Tòa án cũng như cá nhân, cơ quan, tổ chức, người bảo vệ quyền
lợi cho đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự.
Theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, việc cung cấp chứng cứ và
chứng minh cho yêu cầu của mình thuộc về đương sự. Đây là một trong những
nguyên tắc xuất phát từ quyền tự định đoạt của đương sự đối với việc khởi kiện.
Đương sự có yêu cầu phải có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ để chứng minh yêu
cầu đó là hợp pháp. Ngược lại, nếu đương sự phản đối yêu cầu của người khác
thì phải đưa ra chứng cứ để phản đối. Nghĩa vụ chứng minh đặt ra cho cả hai
bên đương sự, bên khỏi kiện, bị kiện và người có quyền và nghĩa vụ liên quan.
Bộ luật Tố tụng dân sự đề cao vai trò, trách nhiệm chứng minh của

đương sự. Mỗi bên đương sự tham gia tố tụng đều phải chứng minh tất cả các
tình tiết, sự kiện của vụ việc dân sự mà trên cơ sở đó họ đưa ra yêu cầu hay
phản đối yêu cầu cầu của người khác. Trước hết, nguyên đơn phải chứng
minh, phải đưa ra các chứng cứ để được Tòa án xem xét chấp thuận thụ lý vụ
việc dân sự. Sau đó bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan mới phải
chứng minh bằng việc đưa ra chứng cứ phản đối lại yêu cầu của nguyên đơn
(khoản 1, 2 Điều 79 Bộ luật Tố tụng dân sự).
Ngoài các đương sự, Bộ luật Tố tụng dân sự quy định các cá nhân, cơ
quan, tổ chức khởi kiện yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
người khác cũng phải chứng minh (khoản 3 Điều 79 Bộ luật Tố tụng dân sự).
Tuy khơng có quyền và lợi ích gắn liền với vụ việc dân sự như đương sự, nhưng
các cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện yêu cầu Tịa án bảo vệ lợi ích cơng cộng,
lợi ích nhà nước hoặc quyền và lợi ích hợp pháp của người khác nếu khơng thực
hiện nghĩa vụ chứng minh thì sẽ dẫn đến sự bất lợi cho các đương sự.


19

Đối với người đại diện hợp pháp của đương sự, trong Bộ luật Tố tụng
dân sự khơng có quy định trực tiếp quyền và nghĩa vụ chứng minh của họ.
Nhưng tại Điều 74 Bộ luật Tố tụng dân sự quy định người đại diện của đương
sự thay mặt đương sự nên quyền và nghĩa vụ của họ được hình thành trên cơ
sở của đương sự. Bởi vậy, người đại diện cho đương sự nào thì họ có nghĩa vụ
chứng minh của đương sự đó. Người đại diện theo pháp luật, người đại diện do
Tòa án chỉ định thực hiện các nghĩa vụ chứng minh cho đương sự họ đại diện.
Người đại diện theo ủy quyền của đương sự thực hiện quyền và nghĩa vụ
chứng minh của đương sự trong phạm vi ủy quyền.
Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự là luật sư, trợ giúp
viên, chuyên viên trợ giúp pháp lý (theo Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006)
tham gia tố tụng với mục đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự

cũng có quyền và nghĩa vụ chứng minh (khoản 2 Điều 64 Bộ luật Tố tụng dân
sự). Ngoài việc giúp đương sự về mặt pháp lý thì người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự chứng minh bằng việc đưa ra các chứng cứ, lý lẽ để
chứng minh cho các yêu cầu hoặc phản đối các yêu cầu là có cơ sở.
Tịa án là chủ thể có nhiệm vụ giải quyết vụ việc dân sự, Tòa án phải
chứng minh để làm rõ phán quyết của mình. Ví dụ, đối với trường hợp đương
sự không thể thu thập được chứng cứ thì có thể u cầu Tịa án có thể tiến
hành thu thập chứng cứ (khoản 2 Điều 85 Bộ luật Tố tụng dân sự). Tòa án thực
hiện việc đánh giá, công bố công khai chứng cứ trước khi sử dụng (Điều 96,
Điều 97 Bộ luật Tố tụng dân sự). Mặt khác, Tòa án phải chỉ rõ cơ sở của quyết
định giải quyết vụ việc dân sự. Như vậy, việc chứng minh của Tịa án mang
tính hỗ trợ cho việc chứng minh của đương sự và phục vụ cho việc giải quyết
vụ việc đúng đắn của Tòa án.
Việc thực hiện đúng và đầy đủ quyền và nghĩa vụ chứng minh của một
chủ thể có ảnh hưởng rất lớn đến kết quả giải quyết vụ việc dân sự. Do vậy, Bộ


20

luật Tố tụng dân sự quy định các chủ thể chứng minh phải chịu trách nhiệm về
việc thực hiện nghĩa vụ chứng minh của họ.
1.2.4. Đối tượng chứng minh trong tố tụng dân sự
Trong Từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản Giáo dục, trang 274 ghi: Đối
tượng, được hiểu: 1- Cái người ta nhằm tới để tìm hiểu, hành động.
Từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản Đà Nẵng, năm 2003, trang 328 ghi:
Đối tượng là người, vật, hiện tượng mà con người nhằm vào trong suy nghĩ và
hành động.
Trong tố tụng dân sự, đối tượng chứng minh là một vấn đề hết sức
quan trọng, do đó khi giải quyết vụ việc dân sự, Tòa án phải xác định được tất
cả các tình tiết, sự kiện liên quan, những tình tiết này là đối tượng chứng minh

trong việc việc dân sự.
Đối tượng chứng minh là tổng hợp những tình tiết, sự kiện liên quan
đến vụ việc dân sự, dùng nó làm cơ sở giải quyết vụ kiện dân sự.
Các quan hệ cần giải quyết trong các vụ việc dân sự rất đa dạng nên các
tình tiết, sự kiện cần phải xác định trong các vụ việc dân sự cụ thể rất phong phú.
Do vậy, trong q trình giải quyết, Tịa án phải xác đinh những tình tiết, sự kiện
nào cần phải chứng minh. Để xác định được đối tượng chứng minh của mỗi vụ
việc dân sự, Tòa án phải dựa vào yêu cầu hay phản đối của đương sự. Đương sự
dựa vào tình tiết, sự kiện nào để có u cầu, hay phản đối yêu cầu. Nói tóm
lại, đối tượng chứng minh bao gồm những tình tiết, sự kiện khẳng định của
bên có u cầu và tình tiết, sự kiện có tính phủ định của bên phản lại yêu cầu
liên quan đến vụ việc dân sự cần xác định trong việc giải quyết vụ việc dân sự.
Để giải quyết đúng được các vụ việc dân sự theo quy định tại khoản
1, 2 Điều 79 Bộ luật Tố tụng dân sự, đương sự phải đưa ra các chứng cứ để
chứng minh cho yêu cầu đó là hợp pháp. Đương sự phản đối yêu cầu của
người khác phải chứng minh sự phản đối đó là có cãn cứ và phải đưa ra


21

chứng cứ. Cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện bảo vệ lợi ích cơng cộng, lợi
ích nhà nước hoặc u cầu Tịa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
người khác phải đưa ra chứng cứ để chứng minh cho việc khởi kiện, yêu cầu
của mình là có căn cứ và hợp pháp.
Ngồi đối tượng chứng minh bao gồm các sự kiện phải chứng minh
như đã phân tích ở trên, Bộ luật Tố tụng dân sự quy định tại Điều 80 vể
những tình tiết, sự kiện có tính rõ ràng thì khơng phải chứng minh như: tình
tiết sự kiện mọi người đều biết; những tình tiết, sự kiện đã được xác định
trong bản án, quyết định của Tịa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền;
những tình tiết, sự kiện đã được ghi trong văn bản được cơng chứng, chứng

thực hợp pháp. Đối với những tình tiết, sự kiện mọi người đều biết thì khơng
phải chứng minh. Tuy nhiên, tất cả các tình tiết, sự kiện khơng phải chứng
minh phải được Tịa án thừa nhận. Ví dụ, sự thừa nhận của đương sự phía bên
này đối với yêu cầu của đương sự phía bên kia đã miễn nghĩa vụ chứng minh
đối với bên có yêu cầu. Một trong vấn đề thuộc bản chất của chứng minh là
làm cho đương sự bên kia thấy được sự tồn tại của tình tiết, sự kiện liên quan
đến vụ việc dân sự để họ thừa nhận hay không thừa nhận.
1.2.5. Các phương tiện chứng minh trong tố tụng dân sự
Theo Từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản Giáo dục, 1998, trang 610,
phương tiện được hiểu: "cái dùng đ ể tiến hành cơng việc gì". Mỗi vụ việc dân
sự đều có đối tượng chứng minh riêng. Yiệc sử dụng phương tiện chứng minh
nào trong vụ việc dân sự là tùy thuộc vào những tình tiết, sự kiện thuộc đối
tượng chứng minh của vụ việc dân sự cần giải quyết. Một số công cụ thường
được thực hiện như lấy lời khai của đương sự, lời khai của người làm chứng,
kết luận của cơ quan giám định... gọi là phương tiện chứng minh.
Phương tiện chứng minh là những công cụ do pháp luật quy định được
sử dụng đ ể làm rõ các tình tiết, sự kiện của vụ việc dân sự thông qua các chủ
thể chứng minh.


×