Tải bản đầy đủ (.docx) (37 trang)

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH NGÂN HÀNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (270.59 KB, 37 trang )

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH NGÂN HÀNG
1.1.Khái Niệm bảo lãnh ngân hàng
1.1.1.Sự hình thành và phát triển của nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng
1.1.1.1.Sự cần thiết phải ra đời nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng
Nền kinh tế càng phát triển kéo theo sự phát triển không ngừng các hoạt động giao lưu
trao đổi hàng hoá, dịch vụ, thương mại. Các giao dịch ngày càng gia tăng về mặt số lượng, giá
trị, độ phức tạp và được mở rộng trong phạm vi toàn thế giới. Đặc biệt,trong thương mại quốc
tế, các giao dịch diễn ra có sự ngăn cách về thời gian, không gian, hệ thống pháp luật, điều
kiện thị trường…làm cho các loại rủi ro càng gia tăng như:rủi ro không thực hiện hợp đồng,
rủi ro thanh toán, rủi ro tín dụng…Để phòng ngừa rủi ro, bên giao hàng hoá thường yêu cầu
bên nhận hàng hoá phải có bảo lãnh của bên thứ 3 ( bên thứ 3 thường là người có uy tín, có
tiềm lực tài chính…) và như thế nghiệp vụ bảo lãnh ra đời.
Trên thực tế, có nhiều tổ chức tài chính cũng phát hành bảo lãnh như: chính phủ, công
ty bảo hiểm. công ty tài chính, công ty chứng khoán… song chủ yếu phát triển ở các NHTM.
Tại sao lại như vậy? Nguyên nhân xuất phát từ những đặc điểm riêng có của các NHTM đó là:
- NHTM là trung gian tài chính của nền kinh tế với vai trò chủ yếu là nhận tiền gửi của
các tổ chức, cá nhân đem cho vay và đầu tư để thu lợi nhuận. Thông qua quá trình đó, ngân
hàng nắm bắt được rất nhiều thông tin của khách hàng. Biết được khả năng tài chính của
khách hàng thông qua tài khoản tiền gửi của họ tạo cơ sở cho việc phát hành thư bảo lãnh
đúng đắn.
-NHTM thường xuyên cung cấp các dịch vụ tài chính cho nền kinh tế, có tiềm lực tài
chính cao( vì lĩnh vực kinh doanh là tiền tệ) nên đã xây dựng được uy tín, cũng như mối quan
hệ gắn bó tin tưởng của khách hàng với ngân hàng. Uy tín của ngân hàng là yếu tố quan tâm
hàng đầu của khách hàng khi quyết định lựa chọn dịch vụ bảo lãnh của ngân hàng( là đối
tượng yêu cầu bảo lãnh).
Như vậy, sự ra đời của bảo lãnh là một yếu tố khách quan, giúp phòng ngừa những rủi
ro trong giao dịch tài chính và phi tài chính. Và sự phát triển của bảo lãnh gắn liền với hoạt
động của các NHTM, tổ chức có khả năng cung cấp dịch vụ bảo lãnh tốt nhất.
1.1.1.2.Sự phát triển của hoạt động bảo lãnh ngân hàng.
Bảo lãnh ngân hàng là một nghiệp vụ quốc tế, được sử dụng rộng rãi từ lâu trên thế
giới. Nhiều tài liệu dẫn chứng, trong giao dịch thương mại, bảo lãnh ngân hàng xuất hiện lần


đầu tiên tại Mỹ vào những năm đầu thập kỷ 60 của thế kỷ 20 như là một dạng thư tín dụng dự
phòng (standby L/C). Ở thời điểm này, bảo lãnh ngân hàng bắt đầu thực sự được sử dụng như
là một hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Tuy nhiên, phải tới những năm 70, hoạt động bảo
lãnh của ngân hàng mới thực sự được sử dụng trong các giao dịch TMQT. Nguồn gốc là từ sự
phát triển mạnh mẽ của ngành công nghiệp dầu mỏ khiến cho các quốc gia Trung Đông trở
nên giầu có. Họ liên tục ký kết các hợp đồng kinh tế với các quốc gia phương tây để thực hiện
các dự án như: tạo cơ sở hạ tầng, canh tân nông, nông nghiệp, quốc phòng…và để bảo đảm an
toàn cho các hợp đồng này, các công ty dầu mỏ Trung Đông yêu cầu các tập đoàn Phương Tây
phải chứng minh năng lực tài chính của minh thông qua bảo lãnh ngân hàng. Đó là một yêu
cầu tất yếu bởi giao dịch TMQT luôn chứa đựng nhiều rủi ro. Sau những năm 70, cùng với sự
phát triển của TMQT, hoạt động bảo lãnh phát triển đáng kinh ngạc. Bảo lãnh thực sự trở
thành công cụ phòng ngừa rủi ro quan trọng.
Ngày nay, bảo lãnh đã trở thành một nghiệp vụ chủ yếu của ngân hàng tại nhiều nước
trên thế giới. Quy mô và doanh thu phí bảo lãnh của mỗi ngân hàng thể hiện uy tín trong nước
cũng như quốc tế của ngân hàng đó đối với ngân hàng đối tác, đối với khách hàng và ngay cả
đối với chính phủ. Trong xu hướng quốc tế hoá, toàn cầu hóa, chu chuyển vốn và giao lưu
thương mại quốc tế hiện nay ngày càng gia tăng với mức độ khổng lồ, nghiệp cụ bảo lãnh rất
được các ngân hàng chú trọng hoàn thiện và phát triển, nhất là trong điều kiện mua bán chịu
trong giao dịch thương mại ngày càng phổ biến, tiết kiệm vốn cho cả bên bán hàng và bên mua
hàng. Đây là nghiệp vụ mang lại thu nhập lớn cho các ngân hàng, cũng là công cụ tài trợ ngắn
hạn cho các doanh nghiệp. Ngược lại, các doanh nghiệp và các nhà kinh doanh chủ yếu sử
dụng nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng nhằm đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn cho công việc kinh
doanh của mình, đồng thời đảm bảo an toàn trong giao dịch trong kinh doanh.
Tại Việt Nam, từ những năm 80, bảo lãnh đã được đề cập trong các văn bản pháp luật.
Song từ năm 1980 đến năm 1990, bảo lãnh của ngân hàng chỉ do NHNN thực hiện như một
công cụ hỗ trợ kinh doanh cho các doanh nghiệp nhà nước vay vốn nước ngoài để sản xuất kinh
doanh. Sau công cuộc đổi mới trong hệ thống ngân hàng năm 1998, các NHTM Việt Nam đã có
sụ phát triển đáng ghi nhận,là kênh cung cấp vốn quan trọng cho nền kinh tế đất nước. Các
nghiệp vụ ngân hàng cũng ngày càng phát triển phong phú và đa dạng. Tuy nhiên, còn nhiều
nghiệp vụ ngân hàng mới chỉ thực hiện ở giai đoạn bước đầu, trong đó có nghiệp vụ bảo lãnh

ngân hàng. Nghiệp vụ này hết sức phức tạp đòi hỏi phải tuân thủ các tập quán và thông lệ quốc
tế. Năm 1994, quy chế bảo lãnh và tái bảo lãnh của thống đốc NHNN được ban hành và lần đầu
tiên áp dụng cho các NHTM Việt Nam. Tuy là một nghiệp vụ ngân hàng mới và chưa có hành
lang pháp lý chặt chẽ song bảo lãnh ngân hàng đã dần khẳng định vị trí không thể thiếu trong
nền kinh tế thị trường hiện đại. Do yêu cầu bức thiết của nền kinh tế về hoạt động bảo lãnh ngân
hàng, các văn bản pháp lý về nghiệp vụ mới này lần lượt ra đời như:
 Quyết định 192/QĐ-NH ngày 17/09/1992 của thống đốc NHNN về bảo lãnh và tái bảo lãnh
vay vốn nước ngoài.
 Quyết định 196/QĐ-NH14 ngày 19/09/1994 của thống đốc NHNN về quy chế nghiệp vụ bảo
lãnh ngân hàng. Đây là cơ sở pháp lý đầu tiên về nghiệp vụ bảo lãnh của các NHTM.
 Quyết định 283/2000/QĐ-NHNN14 ngày 25/08/2000 của thống đốc NHNN về việc ban hành
quy chế bảo lãnh ngân hàng thay thế cho các quyết định trước đây. Đây chính là một bước
hoàn thiện cơ sở pháp lý đầu tiên cho các hoạt động bảo lãnh ngân hàng.
 Quyết định 386/QĐ-NHNN ngày 11/04/2001 về việc sửa đổi bổ xung một số điều trong quy
chế bảo lãnh ngân hàng.
 Quyết định số 112/2003/QĐ-NHNN về việc sửa đổi bổ xung quy chế bảo lãnh ngân hàng.
Đến nay, hoạt động bảo lãnh ngân hàng đã phát triển một cách nhanh chóng, đem lại
nguồn thu lớn cho các NHTM. Và trong tương lai, nghiệp vụ này còn phát triển hơn nữa trước
những đòi hỏi bức thiết của nền kinh tế thị trường và sẽ trở thành một trong những hoạt động
chính của các NHTM trong tiến trình hội nhập.
Nghiệp vụ bảo lãnh được thực hiện tại ngân hàng TMCP Bắc Á ngay từ khi thành lập.
Đến nay, trước xu thế hội nhập với kinh tế thế giới, nhu cầu thị trường và sự cạnh tranh khốc
liệt giữa các NHTM, thì hoạt động bảo lãnh đang trở thành một công cụ cạnh tranh hiệu quả
của ngân hàng, và trong tương lai, hoạt động này còn phát triển hơn nữa.
1.1.2.Khái Niệm nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng
Có rất nhiều cách khái niệm khác nhau về nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng, song về bản
chất và phương thức thực hiện, các khái niệm này đều nêu bật lên nghĩa vụ của người phát
hành bảo lãnh phải thanh toán cho người nhận bảo lãnh nếu người đó có bằng chứng chứng
minh người được bảo lãnh vi phạm hợp đồng cam kết.
Theo quyết định số 283/2000/QĐ-NHNN14 ngày 28/08/2000 quy định như sau: “Bảo

lãnh ngân hàng là cam kết bằng văn bản của TCTD( bên bảo lãnh) với bên có quyền( bên
nhận bảo lãnh) về việc thực hiện nghĩa vụ thay cho khách hàng( bên được bảo lãnh) khi khách
hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh.
Khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho TCTD số tiền đã được trả thay “.
Theo luật các TCTD điều 20 có định nghĩa cụ thể về bảo lãnh của ngân hàng như sau: “
Bảo lãnh ngân hàng là cam kết bằng văn bản của TCTD với bên có quyền về việc thực hiện
nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng khi khách hàng không thực hiên đúng nghĩa vụ cam
kết; khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho các TCTD số tiền đã được trả thay”.
Bộ luật dân sự nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam điều 366 có định nghĩa về
bảo lãnh như sau:” Bảo lãnh là việc người thứ ba (gọi là người bảo lãnh) cam kết với bên có
quyền (gọi là người nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ ( gọi là
bên được bảo lãnh) nếu khi đến thời hạn mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực
hiện không đúng nghĩa vụ “ .
Hình thức của bảo lãnh ngân hàng là hợp đồng bảo lãnh, hay còn gọi là thư bảo lãnh.
Thư bảo lãnh là văn bản cam kết giữa ngân hàng với khách hàng về quyền lợi và nghĩa vụ của
các bên trong việc bảo lãnh và hoàn trả.
Như vậy, bảo lãnh của ngân hàng là cam kết bằng văn bản, là hình thức cấp tín dụng
bằng chữ ký. tại thời điểm tham gia bảo lãnh, ngân hàng không trực tiép xuất vốn mà chỉ dùng
khả năng tài chính và uy tín của mình để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ đã cam kết từ trước.
Từ những định nghĩa trên, ta thấy tham gia vào hoạt động bảo lãnh có ít nhất là ba chủ
thể, đó là:
 Bên bảo lãnh: là các TCTD, là bên đứng ra phát hành thư bảo lãnh cam kết sẽ thực
hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh khi bên này vi phạm nghĩa vụ đã cam kết với bên
nhận bảo lãnh. Theo quy định của quyết định 283/2000/QĐ-NHNN14, TCTD thực hiện nghĩa
Bên bảo lãnh
Bên nhận bảo lãnhBên được bảo lãnh
vụ bảo lãnh bao gồm: Các ngân hàng thương mại nhà nước, ngân hàng thương mại cổ phần,
ngân hàng đầu tư, ngân hàng phát triển, ngân hàng chính sách, ngân hàng liên doanh, chi
nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam, ngân hàng hợp tác, các loại hình ngân hàng khác
và các TCTD phi ngân hàng được thành lập và hoạt động theo luật các TCTD ( gọi chung là

các TCTD); các ngân hàng được Thống đốc ngân hàng nhà nước cho phép thực hiện thanh
toán quốc tế được thực hiện bảo lãnh vay, bảo lãnh thanh toán và các hình thức bảo lãnh khác
mà bên nhận bảo lãnh là các tổ chức, cá nhân nước ngoài; TCTD thực hiện bảo lãnh hối phiếu,
lệnh phiếu theo quy định của pháp luật về thương phiếu.
 Bên được bảo lãnh: là bên yêu cầu ngân hàng mở thư bảo lãnh. Theo quy chế bảo lãnh
(ban hành kèm theo quyết định 283/2000/QĐ-NHNN14), bên được bảo lãnh gồm: Các doanh
nghiệp nhà nước, các loại hình doanh nghiệp theo quy định của luật doanh nghiệp, hợp tác xã,
các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp nước ngoài tham gia hợp đồng hợp
tác liên doanh và các dự án đầu tư tại Việt Nam hoặc vay vốn để thực hiện các dự án tại Việt
Nam, các tổ chức tín dụng, hộ kinh doanh cá thể và các cá nhân trong nước và nước ngoài.
 Bên nhận bảo lãnh: là các tổ chức, cá nhân có đủ năng lực pháp luật dân sự và năng
lực hành vi dân sự. Đó là bên thụ hưởng lợi ích từ hợp đồng bảo lãnh
1.1.3. Đặc điểm của bảo lãnh ngân hàng
1.1.3.1.Bảo lãnh ngân hàng là mối quan hệ đa phương.
Hoạt động bảo lãnh của ngân hàng là mối quan hệ đa phương. Tham gia vào hoạt động
này có ít nhất ba chủ thể, đó là: bên phát hành bảo lãnh ( ngân hàng), bên được bảo lãnh, bên
nhận bảo lãnh. Các chủ thể tham gia có mối quan hệ với nhau thông qua các hợp đồng: Hợp
đồng kinh tế, hợp đồng bảo lãnh, thư bảo lãnh. Cụ thể như sau:
Sơ đồ 1: Mối quan hệ giữa các bên trong bảo lãnh ngân hàng

HĐ3HĐ2
HĐ1
-
- HĐ1: Hợp đồng kinh tế
- HĐ2: Hợp đồng bảo lãnh
- HĐ3: Cam kết bảo lãnh( thư bảo lãnh )
Trước hết, hoạt động bảo lãnh được phát sinh trong mối quan hệ kinh tế giữa bên nhận
bảo lãnh và bên được bảo lãnh. Hai chủ thể này thoả thuận và ký kết hợp đồng kinh tế. Trong
đó, bên nhận bảo lãnh yêu cầu phải có bảo lãnh của ngân hàng. Theo đó, bên được bảo lãnh tới
ngân hàng yêu cầu ngân hàng bảo lãnh và chỉ khi bên được bảo lãnh đáp ứng được yêu cầu

của của ngân hàng thì bảo lãnh mới được xác lập. Lúc này, phát sinh những mối quan hệ sau:
+ Quan hệ giữa ngân hàng và bên được bảo lãnh thông qua hợp đồng bảo lãnh ( HĐ2).
Đó là mối quan hệ giữa ngân hàng cấp tín dụng và bên hưởng tín dụng.
+ Quan hệ giữa bên bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh thông qua cam kết bảo lãnh( hay
thư bảo lãnh). Thư bảo lãnh do ngân hàng phát hành trao cho bên nhận bảo lãnh trong đó quy
định những điều kiện để bên nhận bảo lãnh có thể nhận được thanh toán của ngân hàng trong
trường hợp bên được bảo lãnh vi phạm nghĩa vụ đã cam kết.
Như vậy, các chủ thể tham gia trong hoạt động bảo lãnh có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau trên cơ sở quyền lợi và nghĩa vụ. Ba hợp đồng trên tuy độc lập với nhau song nó vẫn có
ảnh hường qua lại với nhau. Đó chính là đặc điểm rất khác biệt của hoạt động bảo lãnh ngân
hàng.
1.1.3.2. Bảo lãnh ngân hàng mang tính độc lập.
Mặc dù quan hệ trong bảo lãnh là mối quan hệ đa phương, tuy nhiên quyền lợi và nghĩa
vụ của các chủ thể tham gia lại mang tính độc lập tương đối. Đây chính là một đặc điểm nổi
bật của bảo lãnh. Điều này có nghĩa là việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh không phụ thuộc vào
bất cứ giao dịch hay yếu tố nào ngoài giao dịch bảo lãnh. Ngân hàng phải có trách nhiệm thanh
toán cho bên nhận bảo lãnh khi bên này yêu cầu và có bằng chứng chứng minh sự vi phạm hợp
đồng của bên được bảo lãnh. Ngân hàng không thể viện vào các lý do thuộc về mối quan hệ
giữa ngân hàng với bên được bảo lãnh như: bên được bảo lãnh còn nợ ngân hàng hay bên
được bảo lãnh vi phạm hợp đồng với ngân hàng…để trì hoãn hoặc không thực hiện thanh toán
cho bên nhận bảo lãnh. Khi có yêu cầu thanh toán, ngân hàng phải thanh toán ngay cho bên
nhận bảo lãnh sau đó mới quay ra thu nợ đối với bên được bảo lãnh. Lúc đó, hình thức cấp tín
dụng bằng chữ ký chuyển sang cấp tín dụng bằng tiền. Khoản nợ này se được chuyển sang
khoản nợ xấu, khó đòi của ngân hàng, ngân hàng phải trích lập dự phòng rủi ro.
Mặc dù vậy, tính độc lập của bảo lãnh chỉ mang tính tương đối. Tuỳ từng trường hợp
mà tính độc lập có thể cao hoặc cũng có thể thập. Tính độc lập của bảo lãnh phụ thuộc vào các
điều kiện đi kèm. Nếu bảo lãnh yêu cầu kèm theo quyết định của trọng tài hay toà án thì nghĩa
vụ bảo lãnh của ngân hàng không chỉ phụ thuộc vào thoả thuận trong thư bảo lãnh mà còn phải
phụ thuộc vào quyết định của người thứ ba là trọng tài hoặc toà án.
Đặc điểm này của bảo lãnh cũng giúp phân biệt bảo lãnh với bảo hiểm, vì nghĩa vụ

thanh toán bảo hiểm của công ty bảo hiểm chỉ được thực hiện khi người được bảo hiểm có đầy
đủ bằng chứng chứng minh tổn thất đã xảy ra thuộc phạm vi bảo hiểm.
1.1.3.3. bảo lãnh là hoạt động ngoại bảng
Về bản chất, bảo lãnh là hình thức tài trợ bằng uy tín, qua đó bên được bảo lãnh có thể
tìm kiếm nguồn tài trợ mới, mua được hàng hoá hoặc thực hiện các phương án sản xuất kinh
doanh… nhằm thu lợi. Khi thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh, ngân hàng chưa phải xuất quỹ tiền
ngay do đó bảo lãnh được coi như là một hoạt động ngoại bảng vì hoạt động của nó không làm
thay đổi bảng cân đối kế toán. Tuy nhiên, khi rủi ro xảy ra ( khi khách hàng không thực hiện
hoặc thực hiện không đúng hợp đồng kinh tế đã ký kết với bên nhânj bảo lãnh) thì ngân hàng
phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán thay cho bên nhận bảo lãnh. Đó cũng chính là lúc ngân
hàng phải thực sự xuất quỹ tiền mặt, điều này làm ảnh hưởng đến bảng cân đối kế toán của
ngân hàng. Khoản chi này được xếp vào khoản tín dung “xấu” , cấu thành nợ quá hạn. Khi đó,
hoạt động bảo lãnh đã được chuyển từ tài sản ngoại bảng vào tài sản nội bảng.
Như vậy, nếu hoạt động bảo lãnh có chất lượng kém không những có ảnh hưởng xấu
tới uy tín của ngân hàng mà còn ảnh hưởng trực tiếp tới tài sản của ngân hàng. Vì vậy, cần
phải cân nhắc kỹ trước khi đưa ra quyết định bảo lãnh nhằm tránh những khoản tài trợ “ xấu”
này.
Luật các tổ chức tín dụng Việt Nam ghi nhận bảo lãnh là một nghiệp vụ tín dụng của
ngân hàng, nhưng từ việc phân tích đặc điểm trên, ta thấy bảo lãnh không phản ánh đúng bản
chất của tín dụng là chuyển lượng giá trị (tài sản) của chủ thể này cho chủ thể khác. Bảo lãnh
chỉ trở thành một hoạt động tín dụng khi ngân hàng phải xuất tiền ra thanh toán thay cho khách
hàng. Khi đó, bảo lãnh là một khoản cho vay bắt buộc. Ngoài ra, thu nhập từ hoạt động tín
dụng được hạch toán vào thu nhập từ dịch vụ ngân hàng chứ không dựa vào chênh lệch lãi
suất như hoạt động tín dụng.
1.1.3.4. Bảo lãnh tiến hành trên cơ sở chứng từ.
Tất cả các hoạt động của ngân hàng đều dựa trên cơ sở chứng từ và hoạt động
bảo lãnh cũng không phải là ngoại lệ. Cam kết bảo lãnh của ngân hàng cũng là một văn
bản mà việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh của ngân hàng dựa trên văn bản đó. Khi bên
được bảo lãnh vi phạm hợp đồng đã ký kết, muốn được ngân hàng thanh toán, bên nhận
bảo lãnh cũng phải mang đến ngân hàng những chứng từ phù hợp với hợp đồng bảo

lãnh. Nếu chứng từ không phù hợp, ngân hàng có quyền từ chối yêu cầu thanh toán.
1.1.4.Vai trò của ngân hàng khi thực hiện hoạt động bảo lãnh
1.1.4.1.Cung cấp công cụ đảm bảo cho khách hàng
Bằng việc cam kết sẽ thanh toán cho bên nhận bảo lãnh khi bên được bảo lãnh không
thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ trong hợp đồng kinh tế, bảo lãnh đã tạo niềm
tin với bên nhận bảo lãnh. Và như thế, hợp đồng kinh tế được hình thành một cách dễ dàng.
Với chức năng này, bảo lãnh thực sự trở thành chất xúc tác giúp cho các hợp đồng
thương mại, xây dựng, giao dịch hàng hoá trong nước và quốc tế được ký kết một các xuôn sẻ.
1.1.4.2. Đôn đốc khách hàng thực hiện hợp đồng
Bảo lãnh không chỉ là một công cụ đảm bảo mà còn là công cụ thúc đẩy việc thực hiện
hợp đồng. Bằng những giàng buộc về tài chính, ngân hàng buộc bên được bảo lãnh trong hợp
đồng kinh tế đã ký kết, ngân hàng đã tạo ra áp lực thực hiện đúng hợp đồng, làm giảm thiểu
những vi phạm từ phía người được bảo lãnh. Ngoài ra, ngân hàng còn thường xuyên kiểm tra,
giám sát tăng tính hiệu quả cho việc thực hiện hợp đồng đã ký kết
1.1.5.Phân biệt bảo lãnh với một số hình thức bảo đảm khác
1.1.5.1.phân biệt bảo lãnh với thư tín dụng (L/C)
- Nghiệp vụ bảo lãnh có chức năng đảm bảo quyền lợi cho người thụ hưởng khi rủi ro
xảy ra, còn thư tín dụng có chức năng đảm bảo thanh toán cho người thụ hưởng khi người thụ
hưởng giao hàng theo đúng hợp đồng đã ký kết. Như vậy, bảo lãnh mang tính dự phòng, còn
thư tín dụng mang tính thực hiện.
- Bảo lãnh bảo vệ quyền lợi của bên thứ ba, người yêu cầu ngân hàng phát hành thư
bảo lãnh phải chịu phí bảo lãnh, còn thư tín dụng bảo vệ quyền lợi của cả hai bên, phí phát
hành thư tín dụng được phân bổ đều cho cả hai bên.
- Bảo lãnh và thư tín dụng chịu sự điều chỉnh của các hệ thống pháp luật khác nhau, kể
cả hệ thống pháp luật quốc gia và hệ thống pháp luật quốc tế.
Tóm lại, điểm khác nhau căn bản giữa thư tín dụng (L/C) và bảo lãnh là: bảo lãnh là
một công cụ bảo đảm còn thư tín dụng là một công cụ thanh toán.
1.1.5.2.Phân biệt bảo lãnh với bảo hiểm.
Bảo lãnh ngân hàng Bảo hiểm
- Do ngân hàng thực hiện

- Phí trả một lần khi ký kết hợp đồng bảo lãnh
- Khách hàng phải ký quỹ hoặc có tài sản đảm bảo
- Thông thường là ngắn hạn
- Khi rủi ro xảy ra, ngân hàng thanh toán cho bên thụ
hưởng, đồng thời truy đòi bên được bảo lãnh
- Ngân hàng trả tiền ngay khi bên thụ hưởng có đầy đủ
chứng từ chứng minh sự vi phạm hợp đồng của bên
được bảo lãnh.
- Do công ty bảo hiểm thực hịên
- Phí trả nhiều lần, tuỳ từng loại hình bảo hiểm
- Khách hàng không cần ký quỹ, không cần có tài sản
đảm bảo
- Thường là trung và dài hạn
- Khi rủi ro xảy ra, công ty bảo hiểm thanh toán cho
người thụ hường số tiền trích từ quỹ bảo hiểm dưới hình
thức san sẻ rủi ro từ những người đóng phí bảo hiểm.
- Khi rủi ro xảy ra, công ty bảo hiểm không trả ngay tiền
bảo hiểm mà phải thu thập bằng chứng và xác định mức
độ thiệt hại
1.1.6.Phân loại bảo lãnh ngân hàng.
Ngân hàng phát hành_Issuing bank Ngân hàng thông báo_Advíing bank
Người thụ hưởng_Beneficiary
người yêu cầu bảo lãnh_Account party
Bảo lãnh ngân hàng rất phong phú và đa dạng về loại hình, tuỳ theo phương thức phát
hành, mục đích, điều kiện thanh toán, bản chất… mà người ta phân bảo lãnh thành các loại
hình khác nhau.
1.1.6.1.Căn cứ theo phương thức phát hành bảo lãnh.
Theo phương thức này, bảo lãnh được chia thành: bảo lãnh trực tiếp, bảo lãnh gián tiếp
và đồng bảo lãnh.
 Bảo lãnh trực tiếp ( Direct guarantee).

Bảo lãnh trực tiếp là một loại bảo lãnh mà trong đó, ngân hàng phát hành chịu
trách nhiệm trực tiếp cho bên được bảo lãnh. Sau khi thực hiện nghĩa vụ thay, ngân hàng phát
hành bảo lãnh có quyền truy đòi số tiền đã thanh toán thay từ phía người được bảo lãnh.
Loại bảo lãnh này chịu sự chi phối của luật trong nước và khi hết hạn có thể trực tiếp
tất toán với người được bảo lãnh mà không cần có sự hoàn trả thư bảo lãnh. Ưu điểm của loại
bảo lãnh này là người được bảo lãnh không phải mất thêm chi phí hoa hồng cho ngân hàng đại
lý nước ngoài.
Trong bảo lãnh trực tiếp, thường có ba chủ thể tham gia, đó là: ngân hàng bảo lãnh, bên
được bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh. Trường hợp bên nhận bảo lãnh là người nước ngoài, có
thể còn có sự tham gia của ngân hàng thông báo ở cùng quốc gia đó.
Sơ đồ 1.2: bảo lãnh trực tiếp (Direct guarantee)
(3.2)
(2) (4)
(3.1)
(3)
(1) gười được bảo lãnh và người nhận bảo lãnh ký kết hợp đồng cơ sở ( hợp đồng kinh tế),
làm phát sinh nghĩa vụ cần được bảo lãnh.
(2) Người được bảo lãnh yêu cầu ngân hàng phát hành thư bảo lãnh
(3.1) Ngân hàng phát hành bảo lãnh phát hành thư bảo lãnh gửi tới người nhận bảo lãnh
(3.2) Trường hợp người nhận bảo lãnh ở nước ngoài, ngân hàng phát hành sẽ đề nghị
ngân hàng đại lý của mình có trụ sở tại nước của người nhận bảo lãnh, thông báo và chuyển
nội dung thư bảo lãnh tới người thụ hưởng. Ngân hàng này được gọi là ngân hàng thông báo
( Advising bank).
(4) Ngân hàng thông báo thực hiện việc thông báo và chuyển nội dung thư bảo lãnh tới
người nhận bảo lãnh.
Ngân hàng thông báo sẽ chịu trách nhiệm về tính chính xác, tính chân thực của bảo
lãnh như: chữ ký, mã SWIFT, mã Telex…và không chịu trách nhiệm về nội dung thư bảo
lãnh, trách nhiệm thanh toán và những tranh chấp phát sinh nếu có.
 Bảo lãnh gián tiếp
Đây là loại bảo lãnh mà trong đó, ngân hàng bảo lãnh phát hành bảo lãnh theo chỉ thị

của một ngân hàng trung gian phục vụ cho người được bảo lãnh dựa trên yêu cầu của người
nhận bảo lãnh.
Khi rủi ro xảy ra, ngân hàng phát hành bảo lãnh sẽ thanh toán theo cam kết bảo lãnh đã
phát hành, sau đó yêu cầu ngân hàng chỉ thị trả khoản tiền mà mình đã thanh toán thay. Như
vậy, trong bảo lãnh gián tiếp, người được bảo lãnh không bồi hoàn trực tiếp cho ngân hàng
phát hành bảo lãnh mà chỉ bồi hoàn cho ngân hàng chỉ thị, ngân hàng phục vụ người được bảo
lãnh. Trách nhiệm bồi hoàn của ngân hàng chỉ thị được thể hiện thông qua một cam kết gọi là
cam kết bảo lãnh đối ứng do chính ngân hàng này đưa ra. Bảo lãnh đối ứng cũng có đầy đủ
các nội dung và điều khoản quy định như trong bảo lãnh chính, Việc áp ụng bảo lãnh gián tiếp
thường do người nhận bảo lãnh yêu cầu nhằm thuận lợi hơn trong giao dịch đòi tiền sau này.
Trong bảo lãnh đối ứng thường có ít nhất bốn bên tham gia. Đó là: ngân hàng chỉ thị
( ngân hàng phục vụ người được bảo lãnh), ngân hàng phát hành bảo lãnh, là ngân hàng do
Ngân hàng chỉ thị
Người thụ hưởng
Người được bảo lãnh
Ngân hàng phát hành
người nhận bảo lãnh yêu cầu, người được bảo lãnh và người nhận bảo lãnh. Nhiều trường hợp,
trong bảo lãnh gián tiếp có rất nhiều các bên tham gia do người nhận bảo lãnh và người được
bảo lãnh có sự ngăn cách quá lớn về vị trí địa lý, khiến cho người nhận bảo lãnh không yên
tâm về khả năng an toàn của các giao dịch mà mình sắp thực hiên.
Bảo lãnh gián tiếp thường xảy ra với những giao dịch kinh tế có yếu tố nước ngoài
tham gia. Khi đó, người nhận bảo lãnh chỉ chấp nhận giao dịch khi được ngân hàng ở nước họ
đứng ra bảo lãnh, và như vậy bảo lãnh gián tiếp được hình thành.
Sơ đồ 1.3: bảo lãnh gián tiếp
(3)
(2) (4)
(1)
(1) Người được bảo lãnh và người nhận bảo lãnh ký hợp đồng cơ sở làm phát sinh nhu cầu
cần bảo lãn của ngân hàng, người nhận bảo lãnh yêu cầu người được bảo lãnh phải có bảo lãnh
của một ngân hàng cụ thể (ngân hàng phát hành)

(2) Người được bảo lãnh tới ngân hàng phục vụ mình, yêu cầu chỉ thị ngân hàng phục vụ
người nhận bảo lãnh phát hành bảo lãnh.
(3) Ngân hàng phục vụ người được bảo lãnh chỉ thị ngân hàng phục vụ người nhận bảo lãnh
phát hành bảo lãnh thông qua một hợp đồng gọi là bảo lãnh đối ứng.
(4) Ngân hàng phục vụ người thụ hưởng phát hành thư bảo lãnh gửi tới người thụ hưởng.
Trong nhiều trường hợp, nếu ngân hàng phát hành bảo lãnh và người thụ hưởng bảo
lãnh cũng có sự ngăn cách về vị trí địa lý, gây khó khăn cho việc gửi thư bảo lãnh đến người
thụ hưởng, lúc đó trong bảo lãnh gián tiếp còn xuất hiện thêm ngân hàng thông báo có trách
nhiệm thông báo nội dung thư bảo lãnh cho người thụ hưởng.
Ngân hàng 1
Ngân hàng 2
Người được bảo lãnh
Ngân hàng 3
Người thụ hưởng
Ngân hàng đầu mối
 Đồng bảo lãnh.
Đồng bảo lãnh là việc nhiều TCTD cùng bảo lãnh cho một nghiệp vụ bảo lãnh thông
qua một TCTD đầu mối. Đồng bảo lãnh thường áp dụng đối với những thương vụ lớn, khả
năng rủi ro cao hoặc do hạn chế trong quy định của chính phủ mà một ngân hàng riêng lẻ
không thực hiện , lúc đó, họ sẽ kêu gọi các ngân hàng khác cùng tham gia bảo lãnh với mình.
Các ngân hàng trong quan hệ đồng bảo lãnh thường cử ra một ngân hàng đầu mối có trách
nhiệm phát hành thư bảo lãnh, quản lý tài khoản ký quỹ hoặc tài sản đảm bảo của khách hàng.
Ngân hàng đầu mối cũng có nhiệm vụ thu phí bảo lãnh từ khách hàng sau đó chia cho từng
ngân hàng thành viên tuỳ theo tỷ lệ bảo lãnh của từng ngân hàng. Khi rủi ro xảy ra, người thụ
hưởng đến ngân hàng đầu mối đòi tiền, ngân hàng này sẽ trả tiền ngay cho người thụ hưởng
sau đó truy đòi các ngân hàng thành viên theo tỷ lệ mà các ngân hàng này cam kết. Các ngân
hàng thành viên phải có trách nhiệm thanh toán với ngân hàng đầu mối, sau đó mới truy đòi từ
người được bảo lãnh.
Sơ đồ 1.4: đồng bảo lãnh của ngân hàng:
(3a)

(4)
(3b) (1)
(3c) (2)
(1) Người được bảo lãnh và người thụ hưởng ký kết hợp đồng cơ sở, người thụ hưởng yêu
cầu có bảo lãnh của ngân hàng.
(2) Người được bảo lãnh làm đơn xin được bảo lãnh gửi tới ngân hàng.
(3) Sau khi phân tích khách hàng, xác định mức độ rủi ro. Ngân hàng đầu mối tiến hành
dàn xếp đồng bảo lãnh với các ngân hàng thành viên, xác định tỷ lệ tham gia đồng bảo lãnh
của từng ngân hàng và ký hợp đồng đồng bảo lãnh với tưng ngân hàng thành viên( 3a,3b,3c).
(4) Ngân hàng đầu mối phát hành thư bảo lãnh gửi tới người thụ hưởng.
 Bảo lãnh giáp lưng
Loại bảo lãnh này thường xuất hiện trong các hợp đồng thi công hay xây dựng. Nhà
thầu thứ nhất sau khi ký hợp đồng với chủ đầu tư, nhưng vì một lý do nào đó, họ không thể
thực hiện được, hoặc họ là người môi giới xây dựng. Lúc đó, họ sẽ tìm kiếm một nhà thầu thứ
hai thực hiện thi công thay họ ( gọi là nhà thầu thi công). Nhà thầu thứ nhất sẽ yêu cầu nhà
thầu thi công phải có bảo lãnh của ngân hàng (đây chính là hợp đồng bảo lãnh chính). Sau khi
có thư bảo lãnh của ngân hàng phục vụ nhà thầu thi công, nhà thầu thứ nhất mới yêu cầu ngân
hàng phục vụ mình phát hành thư bảo lãnh cho chủ đầu tư. Bảo lãnh này gọi là bảo lãnh giáp
lưng.
Thông thường, bảo lãnh giáp lưng có giá trị nhỏ hơn hoặc bằng hợp đồng bảo lãnh
chính.
 Tái bảo lãnh
Tái bảo lãnh là trường hợp đem hợp đồng bảo lãnh đã ký kết cho một tổ chức khác
nhận tái bảo lãnh hợp đồng này trên cơ sở phân chia chi phí bảo lãnh và trách nhiệm trong bảo
lãnh. Tái bảo lãnh được thực hiện trong trường hợp người yêu cầu bảo lãnh không thực sự tin
tưởng vào ngân hàng bảo lãnh hoặc ngân hàng bảo lãnh muốn chia sẻ bớt rủi ro.
1.1.6.2.Các loại bảo lãnh phân chia theo mục tiêu.
 Bảo lãnh đảm bảo tham gia dự thầu.
Là cam kết của ngân hàng vớí chủ đầu tư ( hay chủ thầu) về việc trả tiền phạt thay cho
bên dự thầu nếu bên dự thầu vi phạm những quy định trong hợp đồng dự thầu.

Trong hoạt động kinh tế, rất nhiều hoạt động được thực hiện thông qua đấu thầu như:
đấu thầu cung cấp thiết bị, xây dựng, thi công, xây lắp. Để tìm kiếm các nhà thầu có năng lực
và hạn chế những rủi ro khi nhà thầu vi phạm các điều khoản tham gia dự thầu như: trúng thầu
song không thực hiện hợp đồng, không kê khai đúng các yêu cầu của chủ thầu… Để tránh

×