Tải bản đầy đủ (.docx) (5 trang)

TS - Nguyễn T Xuân Lan: Phân cấp Q.lý khai thác Ctrình T. Nông: một số KN từ T.tiễn của tình T.Bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (81.95 KB, 5 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>PHÂN CẤP QUẢN LÝ KHAI THÁC CÔNG TRÌNH THỦY NƠNG:</b>
<b>MỘT SỐ KINH NGHIỆM TỪ THỰC TIỄN CỦA TỈNH THÁI BÌNH</b>


TS. NGUYỄN THỊ XUÂN LAN


Lựa chọn mơ hình quản lý phù hợp để
khai thác hiệu quả hệ thống cơng trình
thủy lợi cho phục vụ sản xuất nông
nghiệp, dân sinh là vấn đề được thảo
luận trong nhiều năm gần đây. Hệ thống
cơng trình thủy lợi thường nằm trên địa
bàn rộng, có những cơng trình chỉ phục
vụ chỉ cho 1 thơn, 1 xã nhưng cũng có
những cơng trình trải từ huyện này sang
huyện khác, tỉnh này sang tỉnh khác;
việc quản lý, bảo vệ cơng trình địi hỏi
có sự tham gia của người dân nơi hệ
thống cơng trình đi qua. Để đảm bảo
phục vụ sản xuất nông nghiệp với hiệu
quả cao, cơng trình thuỷ lợi phải được
xây dựng đồng bộ, khép kín từ đầu mối
đến tận chân ruộng. Vì vậy, phần lớn hệ
thống cơng trình khơng chỉ được hình
thành từ vốn đầu tư của Nhà nước mà
đồng thời có sự đóng góp của người
dùng nước. Đảm bảo nhu cầu tưới, tiêu
theo yêu cầu thời vụ là mục đích khai
thác cơng trình thủy lợi cho sản xuất
nông nghiệp, nhưng mỗi hệ thống được
xây dựng chỉ để phục vụ một khu vực
nhất định, nên không thể lấy nước từ


khu vực đang thừa đưa đến khu vực
đang thiếu nước được; và việc điều tiết
nước địi hỏi phải có sự tham gia, phối
hợp chặt chẽ giữa các tổ chức của nhà


nước với các tập thể hay cá nhân trực
tiếp quản lý, vận hành cơng trình theo
u cầu của các hộ sử dụng nước. Đó là
những lý do khiến việc quản lý khai
thác cơng trình thủy lợi khơng đơn giản
như đối với các cơng trình khác.


Cùng với sự thay đổi trong cơ chế
quản lý tài chính đối với doanh nghiệp
khai thác cơng trình thủy lợi
(KTCTTL), mơ hình phân cấp quản lý
cơng trình thủy lợi đã được triển khai
với Thông tư số
65/2009/TT-BNNPTNT của Bộ Nông nghiệp và phát
triển nông thôn ngày 12/10/2009. Phân
cấp quản lý là gì? Đây là mơ hình quản
lý mà trong đó có sự phân công trách
nhiệm rõ ràng từ các cơ quan quản lý
cơng trình thủy lợi Trung ương cho các
cơ quan, tổ chức, đơn vị cấp dưới ở địa
phương. Cụ thể, đây là hệ thống quản lý
gồm nhiều tổ chức khác nhau, được
phân cấp nhiệm vụ và quyền lợi rõ ràng,
cùng phối hợp hoạt động với nhau trong
một khung thể chế pháp luật thống nhất.



</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

xí nghiệp khai thác cơng trình thủy lợi
(8 huyện thị có 8 xí nghiệp), tồn Tỉnh
có 2 Cơng ty khai thác cơng trình thủy
lợi là Cơng ty Khai thác thủy lợi Bắc
Thái Bình và Cơng ty Khai thác thủy lợi
Nam Thái Bình. Từ 2006, 8 xí nghiệp
chuyển thành các đơn vị trực thuộc của
2 Cơng ty nói trên.


Việc phân cấp quản lý cơng trình
thủy lợi được tiến hành thí điểm đầu
tiên ở huyện Thái Thụy (trước khi có
Thơng tư số 65/2009/TT-BNNPTNT).
Trong thời gian từ 1994 đến 2002,
huyện đã tiến hành bàn giao 37 trạm
bơm quy mô 1 thơn, 1 xã (cơng trình
nhỏ) do Xí nghiệp khai thác thủy lợi
Huyện quản lý cho 31 HTX dịch vụ
nông nghiệp quản lý, sau khi đã tu bổ,
sửa chữa hoặc cải tạo nâng cấp. Xí
nghiệp thủy nơng chỉ giữ lại 3 trạm bơm
quy mô lớn phục vụ liên huyện, liên xã.
Trong 3 năm đầu sau khi bàn giao, xí
nghiệp thủy nơng cử cơng nhân xuống
giúp HTX vận hành (xí nghiệp vẫn trả
lương), đồng thời hỗ trợ HTX đào tạo
đội ngũ công nhân vận hành trạm bơm
để thay thế. Hàng năm, doanh nghiệp
thủy nơng trích lại 10-15% thủy lợi phí


góp với địa phương để cải tạo nâng cấp
cơng trình.


Kết quả cho thấy: nhờ việc phân
cấp mà HTX chủ động hơn trong việc
điều tiết nước, việc bảo vệ công trình
cũng khơng cịn phức tạp như trước đó
vì do an ninh địa phương đảm nhận; đặc


biệt lượng điện cho tưới tiêu nước của
các trạm bơm giảm 20-30%; người dân
địa phương hưởng lợi từ cơng trình có
trách nhiệm cao hơn trong việc bảo vệ,
tu bổ, sửa chữa cơng trình. Tuy nhiên,
do thời điểm đó chưa có chính sách cụ
thể về phân cấp và chính sách tài chính
cũng bất cập với cơ chế quản lý (những
cơng trình thủy lợi do doanh nghiệp nhà
nước quản lý thì được hưởng một phần
cấp bù thủy lợi phí, nhưng khi bàn giao
cho tổ chức hợp tác dùng nước
(TCHTDN) thì khơng cịn được cấp bù
nữa), nên phần lớn các TCHTDN hoạt
động kém hiệu quả, mức thu thủy lợi
phí của các TCHTDN sau khi nộp phí
tạo nguồn cho công ty thủy nơng thì
phần cịn lại khơng đủ để thực hiện hoạt
động quản lý khai thác cơng trình, do đó
nhiều nơi khơng muốn nhận cơng trình
bàn giao từ Cơng ty thủy nông nữa.



Rút kinh nghiệm từ Thái Thụy,
ngày 16/5/2007, Ủy ban nhân dân tỉnh
đã ban hành Quyết định số
1013/QĐ-UBND phê duyệt đề án phân cấp quản
lý KTCTTL cho cơ sở và ngày
20/4/2009 ban hành Quyết định số
772/QĐ-UBND phê duyệt đề án phân
cấp quản lý hệ thống sơng trục trên địa
bàn tỉnh Thái Bình. Đến nay, tồn bộ hệ
thống thủy nơng đã được phân cấp quản
lý với 2 nội dung:


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

công tác quy hoạch; cấp phép cho các
hoạt động phải xin phép trong phạm vi
khai thác và bảo vệ cơng trình; Huy
động và phân bổ vốn tu bổ, nạo vét,
nâng cấp cơng trình; Thực hiện phương
án bảo vệ cơng trình; Giải quyết các
tranh chấp vi phạm liên quan tới cơng
trình.


- Phân cấp giữa các đơn vị quản
lý thủy nơng về quản lý khai thác, bảo
vệ cơng trình và quản lý sử dụng vốn
cho tu bổ, nạo vét, nâng cấp cơng trình.


<i>Ngun tắc thực hiện phân cấp</i>
<i>là:</i>



- Phải giữ được sự ổn định trong
quá trình bàn giao và sau khi bàn giao
trong việc phục vụ cho sản xuất nông
nghiệp


- Đảm bảo tính hệ thống, đồng
bộ, khơng cát cứ, cục bộ, củng cố mối
quan hệ giữa công ty thủy nông với địa
phương và TCHTDN.


- Bàn giao ngun trạng cơng
trình, đồng loạt, nhanh gọn, đơn giản,
dân chủ và đúng pháp luật giữa công ty
thủy nông cho HTX dưới sự giám sát
của Ban chỉ đạo tỉnh, huyện, xã,
phường, thị trấn.


- Việc sửa chữa, tu bổ cơng
trình có thể thực hiện trước , trong, hoặc
sau khi bàn giao nhưng phải đảm bảo
hoạt động tại thời điểm bàn giao.


Theo đó, hai Cơng ty KTTL Bắc
Thái Bình và Nam Thái Bình đã bàn
giao 285 trạm bơm điện, 742 km sông


dẫn nước vào trạm bơm, 216 cống đập
nội đồng nhỏ trên kênh, 5.781 km kênh
mương cấp 1,2 sau trạm bơm cho các
HTX dịch vụ nông nghiệp trên địa bàn 7


huyện, thành phố (trừ Thái Thụy đã bàn
giao từ 1994). Việc phân cấp cơng trình
trạm bơm hồn thành trong năm 2007
và phân cấp quản lý hệ thống sơng trục
hồn thành trong năm 2009. Cụ thể, đến
năm 2009, số lượng cơng trình thuộc 2
hệ thống thủy nơng Bắc và Nam Thái
Bình đã được phân cấp như sau:


- Phần cống dưới đê, cống đập
chính nội đồng vẫn do 2 cơng ty thủy
nơng đảm trách.


- Số lượng trạm bơm do 2 công
ty quản lý trước khi phân cấp là 349
trạm, sau phân cấp còn 70 trạm.


Về hệ thống sông trục, kênh mương:
- Hai Công ty quản lý 4 tuyến
sống chính, 27 sông trục cấp 1, 279
sống trục cấp 2, 1.154 sông trục cấp 3;
197 km kênh mương loại 2


- Kênh mương loại 3 (cấp 1,
2,3) do các HTX dịch vụ nông nghiệp
quản lý là 7.515 km


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

trạm bơm. Đối với nhân lực dôi dư ở 2
công ty thủy nông do giảm số cơng trình
đảm trách, thì xử lý theo hướng:



- Những lao động có đủ điều
kiện năng lực sẽ được nhận nhiệm vụ
khác (công nhân cụm trạm, thủ cống…)
của công ty


- Đưa vào làm việc cho các đơn
vị sản xuất ngồi cơng ích do Cơng ty
thành lập thêm; đặc biệt, những người
có khả năng có thể được cho đi đào tạo
ngành nghề mới để phục vụ cho công ty.
- Tham gia vào một số hoạt
động khác cần tăng cường lao động của
cơng ty dưới hình thức lao động thời vụ
hoặc lao động hợp đồng có thời hạn …


- Một số khác lớn tuổi thì nghỉ
hưởng lương chờ nghỉ hưu theo chế độ.


Với tổng số lao động dôi dư là
405 người (gồm 287 công nhân trạm
bơm, 31 lao động phụ trợ, 87 lao động
gián tiếp), các cơng ty đã sắp xếp được
174 người, trong đó: 16 người chuyển
sang quản lý cống dưới đê, 158 người
chuyển sang quản lý đường kênh, cống
đập nội đồng.


Kết quả bước đầu cho thấy việc
phân cấp quản lý đã tạo ra nhiều hiệu


<i>ứng tích cực. Các cơng trình thủy lợi từ</i>
đầu mối đến mặt ruộng đều có chủ quản
lý thật sự. Các địa phương chủ động
điều phối nước tưới theo tiến độ mùa vụ
cho từng khu vực, từng nhóm cây trồng
(lúa, đậu phộng, cà chua…); khi có mưa
lớn xảy ra, việc tiêu nước chống úng


cũng linh hoạt nên giảm được thiệt hại
mùa màng nhiều hơn; chi phí điện giảm,
tăng hiệu quả khai thác cơng trình. Cụ
thể, năm 2008 mặc dù tăng diện tích
tưới nhưng mức tiêu thụ điện năng giảm
809.032kwh so với năm 2006 (chưa
phân cấp), riêng vụ xuân năm 2009
giảm lượng điện được 3.817.235 kwh so
với vụ xuân 2006. Đặc biệt, nhờ việc
phân cấp mà ý thức trách nhiệm của
người dùng nước trong việc giám sát
bảo vệ công trình được nâng cao rõ rệt,
tình trạng vi phạm địa giới cơng trình
khơng cịn nữa. Năm 2009, nhờ nguồn
kinh phí được cấp bù từ việc miễn thủy
lợi phí là 64 tỷ đồng, các HTX đã dành
ra khoảng 40 tỷ đồng cho tu bổ cơng
trình, đó là nguồn kinh phí cho tu bổ sửa
chữa lớn nhất từ trước đến nay.


Bên cạnh những kết quả nói trên,
q trình thực hiện việc phân cấp như


trên cũng cho thấy có một số vấn đề
phát sinh cần giải quyết :


- Các công ty thủy nơng phải
tính đến việc sắp xếp lại lao động.
Trong trường hợp của tỉnh Thái Bình,
các cơng nhân vận hành trạm bơm và đa
số lao động gián tiếp dôi dư là những
người còn trẻ, chưa đủ tiêu chuẩn giải
quyết nghỉ theo chế độ, nên việc bố trí
sắp xếp cơng việc mới để tránh gây khó
khăn cho họ cũng là vấn đề không dễ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

lượng đội ngũ kỹ thuật để vận hành nên
cũng gặp khó khăn. Trường hợp của
Thái Bình, tuy chủ trương ban đầu là
Cơng ty thủy nông hỗ trợ công nhân vận
hành trong 12 tháng từ khi bàn giao,
nhưng thực tế khơng đạt được mà có thể
kéo dài đến 18-20 tháng.


- Việc xác định cống đầu kênh
chưa thật sự rõ ràng nên khó cho việc xác
định chi phí đầu tư tu bổ nâng cấp cơng
trình sẽ lấy từ nguồn vốn do dân đóng
góp hay từ nguồn thủy lợi phí cấp bù.


- Trách nhiệm của chính quyền
địa phương trong việc xử lý vi phạm
khai thác và bảo vệ cơng trình chưa


được coi trọng; chẳng hạn, việc cấp
phép cho các hoạt động trong phạm vi
khai thác và bảo vệ hệ thống sông trục
chỉ mới tiến hành trên một số sông trục
chính, cịn lại hầu như chưa được quản
lý. Việc cấp phép xả nước thải vào hệ
thống sông trục chưa được coi trọng,
dẫn đến tình trạng nguồn nước có xu
hướng bị ơ nhiễm.


Việc phân cấp quản lý là cơ sở để
thực hiện chuyển giao trách nhiệm quản
lý cơng trình thủy lợi cho các tổ chức
hợp tác dùng nước, phù hợp cách làm
của thế giới về quản lý cơng trình thuỷ
nơng, đảm bảo cho các hệ thống cơng
trình thuỷ lợi phục vụ sản xuất nông
nghiệp một cách tốt nhất. Việc tổ chức
lại hoạt động khai thác cơng trình thủy
nơng theo hướng phát huy năng lực của
cộng đồng trong quản lý để tinh giản


biên chế, giảm chi phí quản lý, tăng thu
nhập cho người làm cơng tác thủy nông
là một hướng đúng. Hiệu quả quản lý
khai thác cơng trình thủy nơng trước và
sau khi thực hiện phân cấp là một vấn
đề cần nghiên cứu, đánh giá một cách
khách quan để khẳng định sự phù hợp
của mơ hình. Trên đây chỉ là đơi nét về


thực tiễn thực hiện phân cấp quản lý
trong hoạt động khai thác cơng trình
thủy nông ở tỉnh Thái Bình. Để việc
phân cấp đem lại hiệu quả thật sự, còn
phải những nghiên cứu đối với nhiều
mơ hình khác, cũng như những nghiên
cứu liên quan tới vấn đề quản lý
KTCTTL. Tác giả mong rằng sẽ có
nhiều nhà khoa học quan tâm và đóng
góp cho vấn đề nghiên cứu này./.


<i>Tài liệu tham khảo:</i>


- Nguyễn Xuân Tiệp, Thủy lợi
phí - miễn giảm như thế nào? Tạp chí
quản lý kinh tế Tháng 3/ 2007


- Nguyễn Xuân Tiệp, Quản lý
công trình thủy lợi- Đã đổi nhưng chưa
mới, 2008


- Lars Skov Andersen, Sự hợp
tác giữa các cơ quan quản lý thủy nông,
Báo cáo tham luận tại hội thảo quốc gia
về PIM, Hạ Long, tháng 5/2007


- Trần Chí Trung, Phân cấp
quản lý khai thác cơng trình thủy lợi ở
Việt Nam, 2010



</div>

<!--links-->

×