Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Tính đa hình và đặc điểm nhân trắc ở các nhóm kiểu gen của đa hình nucleotide đơn rs6548238 gen TMEM18 ở trẻ tiểu học Miền Bắc, Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.66 MB, 26 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

9



Tính đa hình và đặc điểm nhân trắc ở các nhóm kiểu gen của


<i>đa hình nucleotide đơn rs6548238 gen TMEM18 ở trẻ tiểu học</i>



Miền Bắc, Việt Nam


Lê Thị Tuyết, Dương Thị Anh Đào

<sub> </sub>

*


<i>Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, 136 Xuân Thủy, Hà Nội, Việt Nam</i>


Nhận ngày 10 16 tháng 10 12 năm 20142016


Chỉnh sửa ngày 30 16 tháng 10 02 năm 20142017; Chấp nhận đăng ngày 20 224 tháng 11 03 năm 2017


<b>Tóm tắt. Ở người, protein TMEM18 (Transmembrane protein 18) có vai trị trong quá trình di</b>


cư của tế bào tiền thần kinh qua các nhân tố tiết u thần kinh đệm. Sự biểu hiện mạnh của gen
<i>TMEM18 làm tăng quá trình di cư của các tế bào tiền thần kinh. Đa hình đơn nucleotide (SNP)</i>
<i>rs6548238 nằm ở vùng điều hòa gần gen TMEM18, SNP này là kết quả của sự thay thế nucleotide</i>
T cho C trên mạch ADN. Mối liên quan giữa SNP rs6548238 với các bệnh tật ở người đang được
nghiên cứu rộng rãi ở các nước phát triển.


Mục tiêu của nghiên cứu này là xác định tần số alen và tỷ lệ kiểu gen của SNP rs6548238 ở trẻ
có tình trạng dinh dưỡng bình thường, đồng thời xác định một số đặc điểm nhân trắc của trẻ ở các
nhóm kiểu gen khác nhau. Nghiên cứu được tiến hành trên 478 trẻ tại một số trường tiểu học Hà
Nội, thành phố Thái Nguyên và thành phố Hải Dương. Tình trạng dinh dưỡng của trẻ được xác
định theo tiêu chuẩn của WHO 2007 và IOTF 2000.


Kết quả cho thấy: alen C của SNP rs6548238 là alen có tần số cao trong quần thể (tần số =
0,952) và tỷ lệ kiểu gen và alen ở quần thể nghiên cứu tuân theo quy luật cân bằng Hardy
<i>-Weinberg (P = 0,059). Khi phân tích các chỉ số nhân trắc ở các nhóm kiểu gen cho thấy: chỉ số</i>


<i>BMI có xu hướng khác biệt giữa các nhóm kiểu gen (P = 0,082), trong đó trẻ có kiểu gen C/C có</i>
chỉ số BMI trung bình cao nhất (15,5), tiếp theo là trẻ dị hợp C/T (15,1) và trẻ đồng hợp T/T có chỉ
số BMI thấp nhất (14,4).


<i>Từ khóa: Gen TMEM18, rs6548238, trẻ em, miền Bắc.</i>
<b>1. Mở đầu</b>


<i>Ở người, gen TMEM18 (Transmembrane</i>
protein 18) nằm trên nhiễm sắc thể (NST) số 2,
mã hóa cho protein xuyên màng TMEM18 có
vai trị quan trọng trong sự di cư tế bào gốc
<i>thần kinh [1]. TMEM18 biểu hiện ở nhiều cơ</i>
quan, trong đó mạnh nhất là ở vùng dưới đồi
và tuyến yên [2].




Tác giả liên hệ. ĐT: 84-988081161.
Email:


<i>TMEM18 lần đầu tiên được chứng minh là</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

báo cáo về mối liên quan với việc tăng cân hay
giảm cân của cơ thể là nhiều nhất với khoảng
80 báo cáo.


Rs6548238 là đa hình đơn nuclêotit (SNP)
<i>nằm gần TMEM18, có thể ảnh hưởng đến q</i>
<i>trình phiên mã của gen TMEM18 do ảnh</i>
hưởng đến sự kết hợp của các nhân tố phiên


mã [6]. SNP này là một trong những SNP đầu
<i>tiên ở gen TMEM18 được phát hiện liên quan</i>
đến béo phì vào năm 2009 trong nghiên cứu
của Zhao và cs [3] và là SNP có số lượng
nghiên cứu liên quan đến sự tăng cân, béo phì
nhiều nhất trong các năm tiếp theo.


Các nghiên cứu về ảnh hưởng của SNP
rs6548238 đến các bệnh ở người đến nay mới
chủ yếu thực hiện trên đối tượng người Châu
Âu và người da trắng. Tuy nhiên, mức độ ảnh
hưởng đến bệnh lại không giống nhau giữa các
độ tuổi, giới tính và các quần thể người [5].


Gần đây, chúng tôi đã thành công trong
việc xây dựng quy trình xác định kiểu gen SNP
<i>rs6538238 gen TMEM18 ở điều kiện phịng thí</i>
nghiệm Việt Nam [7]. Do đó, mục tiêu của
nghiên cứu này là áp dụng quy trình đã xây
dựng được để phân tích kiểu gen trên 478 trẻ
tiểu học có tình trạng dinh dưỡng bình thường,
từ đó xác định tần số alen, kiểu gen của SNP
này ở quần thể trẻ em Việt Nam, cũng như xác
định đặc điểm nhân trắc của trẻ ở các nhóm
kiểu gen.


<b>2. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu</b>
<i>2.1. Đối tượng nghiên cứu</i>


Đối tượng của nghiên cứu là 478 trẻ em


tiểu học 6 - 11 tuổi có tình trạng dinh dưỡng
bình thường (nay gọi tắt là bình thường) tại Hà
Nội, Hải Dương và Thái Nguyên. Đây là các
đối tượng được chọn theo kết quả điều tra sàng
lọc tại các trường tiểu học thuộc Hà Nội, thành
phố Hải Dương và thành phố Thái Nguyên,


được lấy từ đề tài Bộ Giáo dục và Đào tạo mã
số B2014-17-47 (thông tin thu thập vào năm
2014).


Đề tài đã được Hội đồng Đạo đức Viện
Dinh dưỡng và Hội đồng Y đức viện Vệ sinh
dịch tễ Trung ương thông qua. Bố mẹ của trẻ
tham gia nghiên cứu được cung cấp đầy đủ
thơng tin về mục đích của nghiên cứu và có
giấy đồng ý tham gia nghiên cứu.


<i>2.2. Thu thập số liệu</i>


Các chỉ số nhân trắc gồm tuổi, chiều cao,
cân nặng, chu vi vịng eo, chu vi vịng hơng,
được đo theo phương pháp thường quy của
Viện Dinh dưỡng Quốc gia. Chiều cao đứng
được đo bằng thước đo chiều cao đứng bằng
gỗ (độ chính xác 0,1cm), kết quả tính bằng cm.
Cân nặng được đo bằng cân điện tử SECA 890
(Unicef) với độ chính xác 100g, kết quả tính
bằng kg. Vịng eo, vịng hơng được đo bằng
thước dây, kết quả tính bằng cm.



Trẻ được lấy 2 ml máu tĩnh mạch vào buổi
sáng sau khi nhịn đói ít nhất 8 giờ. Kỹ thuật
viên lấy máu là chuyên viên lấy máu của bệnh
viện Medlatec, bệnh viện Đa khoa Hải Dương
và Khoa Hóa Sinh, Đại học Y Thái Nguyên.
Máu được bảo quản ở ống có tráng dung dịch
chống đơng EDTA (ethylene diamin tetraacetic
acid), sau đó được chia vào các ống eppendorf
1,5 ml và bảo quản ở tủ lạnh -800<sub> C.</sub>


<i>2.3. Tiêu chuẩn xác định đối tượng nghiên cứu</i>
<i>- Tiêu chuẩn xác định trẻ có tình trạng</i>
<i>dinh dưỡng bình thường: trẻ được xác định là</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

<i>và Công nghệ, Tập 30, Số 6S (2014) 1-10 </i>


BMI theo tuổi và giới: ngưỡng từ -2SD đến
+1SD [9]. Tiêu chuẩn IOTF 2000 đưa ra các
ngưỡng xác định tình trạng dinh dưỡng cho trẻ
từ 2-18 tuổi, tương đương với ngưỡng đối với
tình trạng bình thường và béo phì sử dụng cho
người lớn (18,5≤BMI<25 kg/m<sub> ) [10]. </sub>2


- Tiêu chuẩn loại trừ đối tượng nghiên cứu
là những trẻ đang mắc bệnh cấp tính, mãn tính.


<i>2.4. Phương pháp xác định kiểu gen</i>


<i>- Tách chiết ADN: Tổng số ADN ở 300 μl</i>


máu toàn phần được tách bằng bộ kit
Winzard® Genomic DNA Purification (Promega
Corporation, Mỹ) theo hướng dẫn của nhà sản
xuất.


<i>- Phương pháp RFLP-PCR: Phương pháp</i>
xác định kiểu gen đã được trình bày ở cơng bố
gần đây [7].


<i>2.5. Phân tích số liệu thống kê</i>


Số liệu được nhập và kiểm tra bằng phần
mềm EpiData. Đặc điểm đối tượng nghiên cứu
được biểu diễn theo trung bình ± độ lệch chuẩn
đối với các biến định lượng hoặc tần số (%)
đối với các biến định tính. Tần số các alen và
kiểu gen genotype được trình bày theo bảng số
liệu. Quy luật Hardy-Weinberd-Equilibrium về
sự phân bố kiểu gen trong quần thể được kiểm
định bằng Fisher exact test nhờ phần mềm
SNPstat. Các phân tích thống kê được thực
hiện trên phần mềm SPSS 16.0. Ý nghĩa thống
<i>kê được xác định với giá trị P<0,05 theo 2</i>
phía.


<b>3. Kết quả và thảo luận</b>


<i>3.1. Đặc điểm đối tượng nghiên cứu</i>


Các đặc điểm về tuổi, giới và những đặc


điểm nhân trắc của 478 đối tượng nghiên cứu
được thể hiện ở bảng 1.


Bảng 1. Đặc điểm đối tượng nghiên cứu


<i>a</i>


<i> Các biến tuân theo phân phối chuẩn được biểu diễn</i>
<i>bằng giá trị trung bình±độ lệch chuẩn.</i>


<i>b</i>


<i> Các biến không tuân theo phân phối chuẩn được biểu</i>
<i>diễn bằng trung bình nhân (95%CI).</i>


<i>c </i>


<i> Các biến khơng tuân theo phân phối chuẩn biểu diễn</i>
<i>bằng trung vị (25th<sub> -75</sub>th<sub> percentile).</sub></i>


Đối tượng nghiên cứu có độ tuổi trung
bình là 7,85 năm; cân nặng là 23,4kg; BMI là
15,3; tỷ lệ eo/hông là 0,85 và cân nặng sơ sinh
là 3,05kg.


<i>3.2. Tỷ lệ kiểu gen và alen của SNP rs6548238</i>
<i>ở trẻ tiểu học</i>


Tỷ lệ kiểu gen và tần số alen của SNP
<i>rs6548238 gen TMEM18 ở trẻ tiểu học được</i>


trình bày trong bảng 2.


Bảng 2. Phân bố alen và kiểu gen của SNP
rs6548238 ở trẻ tiểu học


Kết quả bảng 2 cho thấy: SNP rs6548238
có 2 alen (C và T), alen C là alen có tần số cao
trong quần thể do đó, tỷ lệ trẻ mang kiểu gen
CC chiếm đa số (91%) còn trẻ đồng hợp TT có


<b>Đặc điểm </b>


Giới tính nam (%) 65,6


Tuổib<sub> (năm)</sub> <sub>7,85 (6,85 - 8,96)</sub>


Chiều caoc<sub> (cm)</sub> <sub>124,5 (123,7 - 125,3)</sub>


Cân nặngb<sub> (kg)</sub> <sub>23,4 (20,9 - 27,2)</sub>


BMIb<sub> (kg/m</sub>2<sub> )</sub> <sub>15,3 (14,5 - 16,5)</sub>


Chu vi vòng eob<sub> (cm)</sub> <sub>53,0 (50,0 - 56,5)</sub>


Chu vi vịng hơngb<sub> (cm)</sub> <sub>63,0 (59,9 - 67,5)</sub>


Tỷ lệ eo/hônga<sub> </sub> <sub>0,85 ± 0,06</sub>


Cân nặng sơ sinh<sub> (kg) </sub>b <sub>3,05 (3,00 - 3,40)</sub>



<b>Kiểu gen, alen </b> <b>N (%) </b>


Kiểu gen


C/C 435 (91,0%)
C/T 40 (8,4%)


T/T 3 (0,6%)


Kiểu alen


C 910 (95,2%)


T 46 (4,8%)


Kết quả kiểm định quy luật
Hardy - Weinberg


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

tỷ lệ thấp (0,6%). Tỷ lệ kiểu gen và alen ở
quần thể nghiên cứu đều tuân theo quy luật cân
<i>bằng Hardy - Weinberg (P = 0,059), điều này</i>
chứng tỏ quần thể nghiên cứu có tính đại điện
cao.


Vì tỷ lệ kiểu gen và alen của quần thể
nghiên cứu đều tuân theo quy luật Hardy –
Weinberg nên chúng tôi tiến hành phân tích so
sánh tần số alen C ở quần thể trẻ tiểu học miền
Bắc Việt Nam (trong nghiên cứu này) với tần
số alen C ở các quần thể khác trên thế giới –


với số liệu được lấy từ cơ sở dữ liệu quốc tế
HapMap [11]. Hình 1 là biểu đồ thể hiện biểu
đồ kết quả so sánh. Quần trẻ miền Bắc Việt
Nam trong nghiên cứu này được ký hiệu là
NVC (Children in North Vietnam).


Kết quả cho thấy: tần số alen của quần thể
trẻ em Miền Bắc Việt Nam tương đương với
quần thể người Hán Trung Quốc ở Bắc Kinh
(Han Chinese in Beijing, CHB) (có tần số là
0,929).


Hình 1. Tần số alen C ở các quần thể trên thế giới


<i>Chú thích: </i>


<i>ASW: Người gốc Châu Phi sống ở Tây Nam Hoa Kỳ; </i>
<i>CEU: Người gốc Bắc và Tây Châu Âu sống ở Utah Mỹ; </i>
<i>CHB: Người Hán ở Bắc Kinh Trung Quốc; </i>


<i>GIH: Người gốc Gurarat Ấn Độ sống ở Texas Mỹ;</i>
<i>JPT: Người Nhật ở Tokyo, Nhật Bản; </i>


<i>MEX: Người gốc Mexico sống ở Los Angeles, Mỹ; </i>
<i>TSI: Người Tuscan ở Italia; </i>


<i>YRI: Người Yoruban ở Inbadan, Nigeria; </i>
<i>NVC: Trẻ em Miền Bắc, Việt Nam.</i>


<i>3.3. Đặc điểm nhân trắc của trẻ ở các nhóm</i>


<i>kiểu gen SNP rs6548238</i>


Các đối tượng nghiên cứu thuộc các nhóm
kiểu gen của SNP rs6548238 được phân tích
về những đặc điểm nhân trắc (chiều cao, cân
nặng, BMI, vòng eo, vịng mơng, tỷ lệ
eo/mông), cân nặng sơ sinh. Kết quả được thể
hiện ở bảng 3.


Bảng 3. Đặc điểm nhân trắc ở các nhóm kiểu gen của SNP rs6548238 ở trẻ tiểu học


Đặc điểm <sub>C/C (n = 435)</sub> <sub>C/T (n = 40)</sub>Kiểu gen <sub>T/T(n = 3)</sub> <i><sub>P</sub></i>
Chiều cao (cm) 123,5 (118,4-131,0) 123,3 (117,1-127,9) 128,1 0,327b<sub> </sub>


Cân nặng (kg) 24,1 (23,6 - 24,5) 22,5 (21.5 - 23,7) 22,8 (17,0 - 30,6) 0,369c<sub> </sub>


BMI (kg/m2<sub> )</sub> <sub>15,5 ± 1,4</sub> <sub>15,1 ± 1,3</sub> <sub>14,4 ± 0,7</sub> <sub>0,082</sub>a<sub> </sub>


Vòng eo (cm) 53,0 (50,2 - 57,0) 53,2 (49,5 - 55,9) 50,0 0,164b<sub> </sub>


Vịng mơng (cm) 63.56 (63,0 - 64,2) 61,7 (69,1 - 63,4) 60,8 (58,2 - 63,5) 0,233c<sub> </sub>


Tỷ lệ eo/mông 0,85 ± 0,06 0,86 ± 0,05 0,82 ± 0,03 0,303 a<sub> </sub>


Cân nặng sơ sinh 3,0 (2,9 - 3,4) 3,2 (3,0 - 3,5) 3,4 0,145b
<i>a</i>


<i> Các biến tuân theo phân phối chuẩn được biểu diễn bằng giá trị trung bình ± độ lệch chuẩn, P - value</i>
<i>nhận được từ kiểm định One - Way ANOVA test.</i>



<i>b</i>


<i> Các biến không tuân theo phân phối chuẩn được biểu diễn bằng trung vị và 25th 75th percentile, P </i>
<i>-value nhận được từ kiểm định Kruskall - Wallis test.</i>


<i>c</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

<i>và Công nghệ, Tập 30, Số 6S (2014) 1-10 </i>


Kết quả bảng 3 cho thấy chỉ số BMI có
xu hướng khác biệt giữa các nhóm kiểu gen
<i>(P = 0,082), trong đó trẻ có kiểu gen C/C có</i>
chỉ số BMI trung bình cao nhất (BMI trung
bình = 15,5 kg/m2<sub> ) và trẻ đồng hợp T/T có</sub>


chỉ số BMI thấp nhất (BMI trung bình =
14,4 kg/m2<sub> ). </sub>


<i>Gen TMEM18 nằm trên NST số 2 ở vị</i>
trí p25.3, là gen có tính bảo tồn cao giữa các
loài. Protein TMEM18 là một protein nhỏ,
gồm khoảng 140 acid amin, liên quan đến
sự di cư của tế bào gốc thần kinh, ngồi ra
TMEM18 cịn tham gia vào việc điều tiết
nội cân bằng năng lượng, vì nó được phát
hiện trong phần lớn tế bào thần kinh ở
những vùng não liên quan đến điều hoà ăn
uống [2]. Tuy nhiên, cơ chế phân tử về sự
hoạt động của protein này trong điều hòa
năng lượng vẫn chưa được làm sáng rõ.


Nghiên cứu trên chuột đã chứng minh được
mối tương quan chặt giữa mức độ biểu hiện
<i>của gen TMEM18 ở vùng vỏ não trước trán</i>
với khối lượng chuột [6]. Những nghiên cứu
trên người mới dừng ở những báo cáo về
<i>mối liên quan của biến dị gen TMEM18 và</i>
bệnh qua nghiên cứu bệnh chứng [12, 13].


<i>SNP rs6548238 nằm cách gen TMEM18</i>
khoảng 30kb về phía đầu 3’. SNP này có thể
ảnh hưởng đến quá trình sao mã của gen


<i>TMEM18 do ảnh hưởng đến sự kết hợp của</i>


các nhân tố sao mã hoặc nhân tố cùng điều
hịa q trình sao mã, tuy nhiên cơ chế cụ
thể của quá trình này hiện vẫn chưa biết [6].
Nghiên cứu trên người cho thấy SNP này
liên quan đến béo phì và đặc điểm nhân trắc
của trẻ em Châu Âu [14], Thụy Điển [2], Hy
Lạp [6].


Kết quả của nghiên cứu trên trẻ tiểu học
Miền Bắc cho thấy SNP rs6548238 có thể
ảnh hưởng đến BMI của trẻ, tuy nhiên để


xác định mức độ ảnh hưởng của SNP này
tới các tính trạng nhân trắc của trẻ cần tiến
hành thêm nghiên cứu bệnh chứng hoặc
nghiên cứu thuần tập (nghiên cứu theo dõi


theo thời gian).


<b>4. Kết luận</b>


Nghiên cứu về tần số alen và kiểu gen của
<i>SNP rs6548238 gen TMEM18 trên 478 trẻ em</i>
tiểu học 6 - 11 tuổi tại Hà Nội, Hải Dương và
Thái Nguyên cho kết quả: SNP rs6548238 có 2
alen (C và T), alen C là alen có tần số cao
trong quần thể (=0,952). Tỷ lệ kiểu gen và alen
ở quần thể nghiên cứu tuân theo quy luật cân
<i>bằng Hardy - Weinberg (P = 0,059), điều này</i>
chứng tỏ quần thể nghiên cứu có tính đại điện
cao. Khi phân tích các chỉ số nhân trắc ở các
nhóm kiểu gen cho thấy: chỉ số BMI có xu
<i>hướng khác biệt giữa các nhóm kiểu gen (P =</i>
0,082), trong đó trẻ có kiểu gen C/C có chỉ số
BMI trung bình cao nhất (15,5), tiếp theo là trẻ dị
hợp C/T (15,1) và trẻ đồng hợp T/T có chỉ số
BMI thấp nhất (14,4).


<b>Lời cảm ơn</b>


Nghiên cứu được sự tài trợ của Sở Khoa
học công nghệ Hà Nội với đề tài mã số
01C-08/05-2011-2 và sự tài trợ của Bộ Giáo dục và
đào tạo với đề tài mã số B2014-17-47.


<b>Tài liệu tham khảo</b>



[1] J. Jurvansuu, Y. Zhao, S. Y. Doreen, et al.,
Transmembrane Protein 18 Enhances the
Tropism of Neural Stem Cells for Glioma Cells,
Cancer Res June 15 (2008) 68.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

[3] J. Zhao, J. P. Bradfield, M. Li, et al., The role
of obesity-associated loci identified in
genome-wide association studies in the determination of
pediatric BMI, Obesity (Silver Spring) 17 (12)
(2009) 2254.


[4] C. J. Willer, E. K. Speliotes, R. J. Loos, et al.,
Six new loci associated with body mass index
highlight a neuronal influence on body weight
regulation, Nat Genet 41(1) (2009) 25.


[5] Hugenavigator, 2016.
/HuGENavigator/huGEPedia.do?


firstQuery=TMEM18&geneID=129787&typeSu
bmit=GO&check=y&typeOption=gene&which=
2&pubOrderType=pubD (tra cứu ngày
4/5/2016).


[6] M. Rask-Andersen, J. A. Jacobsson, G.
<i>Moschonis, et al., Association of TMEM18</i>
variants with BMI and waist circumference in
children and correlation of mRNA expression in
the PFC with body weight in rats, Eur J Hum
Genet 20 (2) (2012) 192.



[7] L.T.Tuyet, T.Q.Binh, D.T.Dao và cs.,
Application of restriction fragment leghth
<i>polymorphirm method for genotyping TMEM18</i>
rs6548238 polymorphism, Journal of biology 37
(1se) (2015) 85.


[8] />_iotf.pdf (tra cứu ngày 15/10/2015)


[9] />mi_for_age/en/index.html (tra cứu ngày
15/10/2015)


[10] J.C. Tim, C.B. Mary, et al., Establishing a
standard definition for child overweight and
obesity worldwide: international survey, BMJ
320 (2000) 1.


[11] HapMap, 2016.
/cgi- perl/snp_details_phase3?name=rs6548238
&source=hapmap28_B36&tmpl=snp_details_ph
ase3 (tra cứu ngày 15/10/2015).


[12] K. Hotta, M. Nakamura, T. Nakamura, et al.,
Association between obesity and polymorphisms
<i>in SEC16B, TMEM18, GNPDA2, BDNF, FAIM2</i>
<i>and MC4R in a Japanese population, J Hum</i>
Genet 54(12) (2009) 727.


[13] J. Wang, H. Mei, W. Chen, et al., Study of eight
GWAS-identified common variants for


association with obesity-related indices in
Chinese children at puberty, Int J Obes (Lond),
36(4) (2012) 542.


[14] A. Hinney, C. Vogel, J. Hebebrand, From
monogenic to polygenic obesity: recent


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

<i>và Công nghệ, Tập 30, Số 6S (2014) 1-10 </i>


Polymorphism and anthropometric characteristics in genotype


groups of single nucleotide polymorphism rs6548238



<i>TMEM18 gene in North Vietnamese children school</i>


Le Thi Tuyet, Duong Thi Anh Dao



<i>Hanoi National University of Education, 136 Xuan Thuy, Hanoi, Vietnam</i>


<b>Abstract. In human, TMEM18 protein (Transmembrane protein 18) is involved in the migratory</b>


response of neural precursors toward glioma-secreted factors and the overexpression of TMEM18
resulted increased the migration of human neural precursor cells. Single nucleotide polymorphism
<i>(SNP) rs6548238 locates at regulatory region near the TMEM18 gene, which results in the substitution</i>
of T for C in the DNA sequence. The association of SNP rs6548238 with the risk of several disorders
has been intensively studied in developed countries.


The aim of this study was to determine the allele frequency and genotype ratio of SNP rs6548238
in normal nutritional status children, and identifies anthropometric characteristics of children in
different genotype groups. The study was conducted in 478 children who were recruited from some
primary school in Hanoi, Thainguyen and Haiduong city. Children nutritional status was classified
using the criteria of WHO 2007 and IOTF 2000.



The results showed that allele C is the macro alleles (frequency = 0.952) and the allele frequencies
<i>and genotype frequencies in populations were at Hardy-Weinberg Equilibrium (P = 0.059). The mean</i>
<i>of BMI was tended to difference between three genotype groups (P = 0.082), in which C/C children</i>
had the highest mean of BMI (15.5), followed by C/T children (15.1) and T/T children had the lowest
one (14.4).


<i> Keywords: TMEM18, rs6548238, children, North Vietnam. </i>


<i>Xây dựng quy trình sản xuất rượu Brandy sử dụng quả bần chua (Sonneratia caseolaris)</i>


Đoàn Văn Thược*, Vũ Thị Hằng


<i>Khoa Sinh học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, 136 Xuân Thủy, Hà Nội, Việt Nam</i>


Nhận ngày 07 tháng 12 năm 2015


Chỉnh sửa ngày 17 tháng 4 năm 2015; Chấp nhận đăng ngày 17 tháng 3 năm 2017


<b>Tóm tắt. Trong nghiên cứu này chúng tơi đã xây dựng quy trình sản xuất rượu brandy bần</b>


chua ở quy mô lên men 350 l/mẻ, kết quả cho thấy sau 14 ngày lên men chúng tôi đã thu
được dịch lên men có hàm lượng rượu đạt 16,5% (v/v). Dịch lên men đã được chưng cất


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

để thu rượu mạnh, rượu thu được có mùi hăng sốc và khó uống do có chứa tạp chất với
hàm lượng cao như acid (864 g/l), aldehyde (124,7 g/l), ester (211,2 g/l) và methanol
(134,8 g/l). Bằng cách xử lý với NaOH và KMnO4 sau đó chưng cất lại, phần lớn các tạp


chất này đã bị loại bớt, acid, aldehyde, ester và methanol trong rượu sau khi xử lý lần lượt
còn là 130 g/l, 43 mg/l, 92,4 mg/l và 23,5 mg/l. Brandy bần chua cũng đã được ngâm với


gỗ sồi theo các tỷ lệ khác nhau, kết quả cho thấy ngâm 1 l rượu (60%, v/v) với 3 – 3,25 g
gỗ sồi sẽ cho màu sắc và mùi vị tốt nhất. Các số liệu phân tích và cảm quan chứng tỏ rằng
rượu brandy bần chua hoàn toàn đáp ứng Quy chuẩn kỹ thuật Quốc gia về rượu mạnh. Đây
là nghiên cứu đầu tiên sản xuất brandy từ dịch quả bần chua lên men.


<i>Từ khóa: quả bần chua, brandy, lên men, chưng cất, Sonneratia caseolaris.</i>


1. Mở đầu



Rừng ngập mặn là hệ sinh thái đặc biệt nằm ở giữa đất liền và biển ở các vùng nhiệt đới và cận
nhiệt đới. Rừng ngập mặn chiếm diện tích khoảng 152361 km2<sub> và phân bố tại 123 quốc gia và vùng</sub>


lãnh thổ [1]. Việt Nam chúng ta có khoảng gần 200 ha rừng ngập mặn trải dài khắp ba miền Bắc –
Trung – Nam. Rừng ngập mặn của Việt Nam khá đa dạng với các loài cây phổ biến như Trang, Đước,
<i>Mắm, Bần chua, Sú, Vẹt. Bần chua có tên khoa học là Sonneratia caseolaris là một loài cây phổ biến</i>
ở vùng ngập mặn ven biển. Ở Việt Nam, cây Bần chua được trồng và mọc hoang ở các rừng ngập
mặn ven biển từ Bắc vào Nam. Đây là một lồi cây gỗ trung bình (có thể cao tới 15-20m) có giá trị
chủ yếu là phịng hộ, lấy gỗ. Cây bần chua thường có hoa nở vào tháng 4-5, kết trái vào tháng 10-11,
mỗi cây cho khoảng 350 quả, trung bình mỗi kg sẽ có khoảng 10-15 quả [2].


Ở một số quốc gia trên thế giới người ta đã tận dụng quả bần chua để làm nước quả, nước xi-rơ.
Điển hình là ở Sri Lanka, người dân ở vùng phía Nam và Tây Nam đã sử dụng quả cây Bần chua để
làm nước quả tươi. Ở Maldive người dân trồng cây Bần chua ở trong vườn để dùng quả cây làm nguồn
thực phẩm và làm nước quả. Trong khi đó người dân Indonesia đã dùng quả cây Bần chua để sản xuất
nước xi-rô [3]. Ở Việt Nam (đặc biệt ở miền Bắc) việc sử dụng quả bần chua làm thực phẩm và đồ
uống còn nhiều hạn chế. Người dân chưa biết giá trị kinh tế của quả bần và cũng chưa biết cách chế
biến thực phẩm, đồ uống từ quả bần.


<i>Trong nghiên cứu trước đây, chúng tôi đã phân lập được chủng nấm men Candida tropicalis</i>
NM2 từ quả bần chua có khả năng lên men rượu khá tốt. Khi sử dụng quả bần chua làm nguyên liệu


lên men và tiến hành lên men trong 14 ngày ở nhiệt độ 30 o<i><sub>C và pH 3,5, chủng Candida tropicalis</sub></i>


NM2 có thể tạo ra lượng rượu là 14,9% (v/v) [4]. Trong nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng chủng nấm
<i>men Candida tropicalis NM2 để lên men dịch quả bần chua ở qui mơ 350 L/mẻ, dịch lên men sau đó</i>
được chưng cất nhằm tạo ra rượu Brandy bần chua.


<b>2. Nguyên liệu và phương pháp</b>


2.1. Nguyên liệu





</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

<i>và Công nghệ, Tập 30, Số 6S (2014) 1-10 </i>


<i>Đối tượng</i>


<i>Chủng nấm men Candida tropicalis NM2 được phân lập từ dịch quả bần chua lên men [4].</i>


Quả bần chua được thu hái từ rừng ngập mặn xã Vinh Quang, huyện Tiên Lãng, thành phố Hải
Phịng.


<i>Các loại mơi trường sử dụng</i>


Mơi trường dùng để giữ giống nấm men (môi trường Hansen) có thành phần (g/l): glucose: 50;
KH2PO4: 3; MgSO4.7H2O: 2; pepton: 10; thạch (agar): 20; pH = 5.


Môi trường nhân giống cấp 1: mơi trường Hansen lỏng (khơng có agar).


Mơi trường nhân giống cấp 2: môi trường Hansen lỏng và dịch quả bần chua phối trộn với nhau tỉ
lệ 1:1; hàm lượng đường 110 g/l; pH = 3,6; SO2: 30mg/l.



Môi trường nhân giống cấp 3: môi trường Hansen lỏng và dịch quả bần chua phối trộn với nhau tỉ
lệ 1:1; hàm lượng đường 220 g/l; pH = 3,6; SO2: 50mg/l.


2.2. Phương pháp



<i>Phương pháp xử lý và chuẩn bị nguyên liệu lên men</i>


Quả bần chua sau khi thu hái được đóng bao chuyển về phịng thí nghiệm CNSH-Vi sinh. Chúng
tơi đã tiến hành chọn lọc và loại bỏ quả sâu, quả dập hỏng. Đối với các quả xanh chúng tôi đã giấm
trong các thùng xốp có bổ sung đất đèn chờ chín (Hình 1A). Các quả chín sẽ được rửa sạch và ngâm
với đường theo tỉ lệ 2 quả: 1 đường (Hình 1B). Sau khi ngâm 20 ngày, tiến hành lọc loại bỏ vỏ và hạt,
pha loãng dịch quả để đạt hàm lượng đường khoảng 220 g/l.


Hình 1. Xử lý quả để chuẩn bị dịch lên men: (A) ủ chín quả bần chua và (B) ngâm bần chua với
đường.


<i>Hoạt hoá và nhân giống nấm men</i>


<i>Cấy chủng Candida tropicalis NM2 trên môi trường Hansen đặc, nuôi ở nhiệt độ 30 ºC trong 36 h,</i>
cấy chuyển sang môi trường nhân giống cấp 1, nuôi trong máy lắc với tốc độ 180 vòng/phút ở nhiệt độ
30 ºC trong 24 h. Bổ sung giống cấp 1 vào môi trường nhân giống cấp 2 (tỷ lệ giống bổ sung là 10%,
v/v), nuôi ở nhiệt độ 30 ºC trong 24 h. Bổ sung 10% (v/v) giống cấp 2 vào môi trường nhân giống cấp
3 và nuôi tiếp trong 24 h ở 30 o<sub>C, lúc này chủng nấm men đã nhân giống xong và sẵng sàng sử dụng</sub>


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

<i>Lên men sản xuất và chưng cất rượu </i>


Bổ sung 35 l giống cấp 3 vào thùng lên men 500 l có chứa 315 l dịch quả bần chua để đạt thể tích
cuối cùng là 350 l. Lên men ở 30 o<sub>C trong 14 ngày. Lấy mẫu ở các thời điểm khác nhau để kiểm tra</sub>


pH và hàm lượng rượu tạo thành. Tiến hành chưng cất thu hồi rượu mạnh khi kết thúc lên men.



<i>Phương pháp làm giảm một số tạp chất trong rượu</i>


Dung dịch rượu sau khi chưng cất được pha loãng đưa về 60% (v/v), tiến hành xử lý bằng
KMnO4 và NaOH với các nồng độ khác nhau [5]. Sau đó, rượu sẽ được pha loãng 2 lần rồi tiến hành


chưng cất, thu hồi để cảm quan hương vị. Từ kết quả cảm quan tìm ra được hàm lượng KMnO4 và


NaOH phù hợp có khả năng làm giảm nồng độ các tạp chất như acid, este, aldehyde, methanol,
furfurol.


<i>Phương pháp tạo màu cho rượu brandy bần chua</i>


Rượu sau khi xử lý và chưng cất lần 2 được đưa về nồng độ 60% (v/v) và được ngâm với bột gỗ
sồi có hàm lượng khác nhau : 2.5; 2.75; 3; 3.25, 3.5 (g/l) ở nhiệt độ 30 0<sub>C. Sau 12 tháng, tiến hành lọc</sub>


loại bỏ bột gỗ sồi thu rượu brandy. Sử dụng nước cất pha loãng rượu về nồng độ 40% (v/v) rồi tiến
hành đánh giá cảm quan, lựa chọn được hàm lượng gỗ sồi bổ sung thích hợp.


<i>Các phương pháp phân tích</i>


Xác định độ rượu: Chưng cất một lượng dịch lên men nhất định (V1 ml) thu được V2 ml rượu.


Dùng rượu kế đo độ rượu tạo ra trong V2 thu được giá trị a. Từ đó tính được độ rượu b theo tỉ lệ %


(v/v) theo công thức: b = (a x V2):V1


Xác định acid và este có trong rượu theo phương pháp của Lê Thanh Mai và cộng sự [5].


Xác định hàm lượng furfurol có trong rượu theo phương pháp HPLC sử dụng cột Hypersil


DPSC18, 1% acetonitril được sử dụng làm dung môi chạy HPLC, furfurol tinh khiết (Sigma, Mỹ)
được sử dụng để xây dựng đề thị chuẩn.


Hàm lượng aldehyde và methanol trong mẫu rượu được xác định tại Trung tâm Kĩ thuật tiêu chuẩn
đo lường chất lượng 1.


3. Kết quả và thảo luận



3.1. Lên men và động thái của quá trình lên men



Dịch lên men được chúng tơi sử dụng chính là dịch quả bần chua có chứa hàm lượng đường 220
g/l và SO2 với hàm lượng 50mg/l. Bổ sung lượng giống theo tỷ lệ 10% (v/v) và tiến hành lên men ở


28- 30 0<sub>C trong 2 tuần. Để xác định động thái của quá trình lên men chúng tôi đã tiến hành lấy mẫu 2</sub>


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

<i>và Công nghệ, Tập 30, Số 6S (2014) 1-10 </i>


Hình 2. Động thái quá trình lên men rượu từ dịch quả bần chua.


Ở thời điểm bắt đầu lên men, trong dịch quả lên men đã có chứa 2,6% rượu. Như vậy trong 20
ngày ngâm ủ chiết dịch, một số nấm men dại trong quả bần chua đã lên men tạo rượu. Trong quá trình
lên men, hàm lượng rượu tăng mạnh trong 4 ngày đầu tiên (từ 2,6% thời điểm bắt đầu lên 10,9% ở
ngày thứ 4), sau đó vẫn tăng đều từ ngày thứ 4 đến ngày thứ 12 và đạt 16,1%. Hàm lượng rượu đạt cực
đại (16,5%) sau 14 ngày lên men và không thay đổi khi kéo dài quá trình lên men lên 16 hoặc 18 ngày.
Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra rằng thời gian 14 ngày là thời điểm phù hợp để dừng lên men, ở thời
điểm này hiệu suất chuyển hóa đường thành rượu là 91,6%. Hàm lượng rượu thu được trong nghiên
cứu này (16,5%) cao hơn so với nghiên cứu trước đây (14,9%) [4] là do đã có sẵn 2,6% rượu khi bắt
đầu quá trình lên men. Nếu trừ đi lượng rượu có sẵn này thì lượng rượu thực tế tạo ra cũng là 14,9%
-ngang bằng với hàm lượng rượu trong nghiên cứu trước đây.



Trái ngược với sự thay đổi mạnh mẽ của hàm lượng rượu trong quá trình lên men, giá trị pH thay
đổi khơng đáng kể, pH có xu hướng giảm nhẹ trong quá trình lên men do sự hình thành của một số
acid ví dụ như axit axetic.


3.2. Chưng cất thu hồi sản phẩm và đánh giá sơ bộ chất lượng


sản phẩm



Lượng rượu tạo thành trong quá trình lên men dịch bần chua đã được chúng tôi chưng cất thu hồi.
Rượu brandy từ quả bần chua sau khi chưng cất thu hồi có màu trong suốt nhưng vẫn hơi nồng, hăng
và sốc. Chúng tôi tiến hành kiểm tra một số yếu tố có trong rượu có ảnh hưởng trực tiếp đến chất
lượng rượu như acid, este, aldehyde, methanol và furfurol. Kết quả phân tích được trình bày trong
Bảng 1.


Thành phần quan trọng ảnh hưởng đến hương vị brandy là các acid, đặc biệt là acid dễ bay hơi. Kết
quả phân tích cho thấy hàm lượng acid trong rượu brandy bần chua là 864 mg/l, cao hơn so với rượu
brandy nho (khoảng 100 – 500 mg/l) [6] và rượu brandy anh đào (khoảng 140 - 280 mg/l) [7]. Sự khác
biệt này là do thành phần nguyên liệu và điều kiện lên men của các loại rượu khác nhau, trong đó bần
chua là loại quả có nhiều acid nhất nên hàm lượng acid có trong rượu cũng sẽ cao.


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

Bảng 1. Thành phần một số chất trong rượu bần chua 40%


(v/v)



Thành phần Hàm lượng (mg/l)


Acid tổng số 864 ± 2


Ester tổng số 211,2 ± 1


Aldehyde tổng số 124,7 ± 2



Methanol 134,8 ± 1


Furfural 3,48 ± 0,21


Một thành phần khác ln có mặt trong bất kỳ một loại rượu brandy nào đó là aldehyde. Ở nồng độ
thấp nó có vai trị quan trọng trong việc tạo hương của rượu, nhưng sẽ làm cho rượu có mùi hăng khi
chiếm hàm lượng cao. Đặc biệt khi hàm lượng aldehyde quá cao thì sẽ gây độc cho cơ thể, sinh ra hiện
tượng buồn nơn, ói mửa. Acetaldehyde là thành phần chủ yếu có trong rượu, nó là một trong những
sản phẩm phụ đầu tiên của quá trình lên men, thành phần này sẽ tăng lên khi bổ sung quá nhiều SO2


[6]. Hàm lượng aldehyde trong rượu brandy bần chua chiếm khoảng 124,7 mg/l, cao hơn so với
brandy nho (aldehyde khoảng 80 – 100 mg/l) [6] và tương tự như brandy anh đào có hàm lượng
aldehyde dao động trong khoảng 60 - 166 mg/l [7].


Methanol không phải sản phẩm của q trình lên men rượu, nó được hình thành nhờ enzyme thủy
phân nhóm methoxyl của pectin trong quá trình lên men. Việc kiểm sốt hàm lượng methanol trong
rượu là rất quan trọng bởi nó rất độc đối với cơ thể con người. Khi vào trong cơ thể, methanol được
chuyển hóa thành formaldehyde và acid formic, cả hai chất này đều rất độc đối với hệ thần kinh. Nồng
độ formaldehyde cao sẽ gây tổn thương thần kinh thị giác và thậm chí mù lịa [8]. Bảng 1 cho thấy,
hàm lượng methanol trong bần chua vào khoảng 134,8 mg/l, tương tự như trong brandy nho (dao động
trong khoảng từ 120 – 280 mg/l) [6], nhưng cao hơn nhiều so với hàm lượng methanol có trong rượu
anh đào (khoảng 23 – 70 mg/l) [7]. Tuy hơi cao nhưng hàm lượng methanol trong rượu brandy bần
chua vẫn đảm bảo Quy chuẩn kỹ thuật Quốc gia đối với các sản phẩm đồ uống có cồn [9].


Một thành phần khác trong rượu brandy bần chua cũng được chúng tơi phân tích đó là furfural.
Hợp chất này được tạo ra từ phản ứng oxi hóa đường diễn ra ở nhiệt độ cao trong quá trình chưng cất
rượu. Đây là một hợp chất có tính độc, công thức phân tử là C5H4O2. Nhiệt độ bay hơi của furfural là


1620<sub>C, hàm lượng của chất này càng tăng cao về cuối giai đoạn chưng cất [10]. Hàm lượng furfural</sub>



trong brandy bần chua là 3,48 mg/l, thấp hơn so với furfural trong brandy nho (dưới 33 mg/l), tương tự
như furfural trong brandy anh đào (khoảng 3,5 mg/l).


Mặc dù thành phần các chất khơng mong muốn có trong rượu brandy bần chua đều nằm trong
ngưỡng cho phép, nhưng khi cảm quan chúng tôi nhận thấy rượu rất hăng và sốc, do đó để tăng chất
lượng rượu thì cần làm giảm các thành phần không mong muốn này.


3.3. Nghiên cứu làm giảm một số chất không mong muốn trong rượu brandy bần chua


Chúng tôi đã tiến hành xử lý rượu bằng KMnO4 và NaOH với các nồng độ khác nhau, sau đó pha


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

<i>và Cơng nghệ, Tập 30, Số 6S (2014) 1-10 </i>


Hình 3. Hàm lượng một số chất trong rượu brandy bần chua trước và sau khi xử lý.


Kết quả cho thấy, hàm lượng các chất trong rượu brandy bần chua sau khi xử lý đều giảm so với
trước khi xử lý. Giảm mạnh nhất là lượng acid tổng số, giảm từ 864 mg/l xuống còn 130 mg/l (giảm
gần 7,5 lần). Nguyên nhân là do NaOH đã trung hòa lượng lớn acid trong rượu. Thành phần này chiếm
tỷ lệ thấp trong rượu góp phần làm giảm vị chua và tăng giá trị cảm quan của rượu. Bên cạnh đó, các
chất khác như ester, aldehyde và methanol cũng giảm đáng kể: ester giảm từ 211,2 mg/l xuống còn
92,4 mg/l; aldehyde giảm từ 124,7 mg/l xuống cịn 43 mg/l; trong khi đó methanol giảm gần 6 lần
xuống còn 23,5 mg/l. Tuy nhiên, hàm lượng furfural gần như không thay đổi sau khi xử lý: 3,48 g/l
(trước khi xử lý) và 3,38 g/l (sau khi xử lý). Nhìn chung, quá trình xử lý rượu sử dụng hai hóa chất là
KMnO4 và NaOH đã làm giảm đáng kể một số thành phần không mong muốn. Rượu sau khi xử vẫn


giữ được mùi đặc trưng của bần chua nhưng khơng cịn mùi hăng nồng khó chịu, vị của rượu cũng
được cải thiện đáng kể sau khi xử lý. Các số liệu phân tích và cảm quan chứng tỏ rằng rượu brandy
bần chua hoàn toàn đáp ứng Quy chuẩn kỹ thuật Quốc gia về rượu mạnh.


3.4. Ngâm gỗ sồi tạo màu và hương vị cho rượu brandy bần chua



Màu sắc là một yếu tố quan trọng góp phần rất lớn vào chất lượng và chuẩn hóa rượu brandy. Sự
xuất hiện màu sắc của một loại rượu, cũng như các loại thực phẩm khác, sẽ quyết định ấn tượng đầu
tiên của người tiêu dùng và sự lựa chọn của họ. Giá trị thương mại của một loại rượu brandy được quy
định bởi các đặc điểm cụ thể của nó, trong đó có đặc điểm về màu sắc. Do đó, tạo màu cho rượu
brandy bần chua có lợi ích rất quan trọng việc tăng giá trị cảm quan cũng như giá trị thương mại của
rượu.


Sử dụng thùng gỗ sồi lưu trữ để tạo màu sắc, hương vị cho rượu vang và các loại rượu cao độ khác
là kinh nghiệm lâu đời trong sản xuất rượu [6]. Tuy nhiên, ở những khu vực điều kiện tự nhiên khơng
thích hợp với sự phát triển của cây sồi, việc nhập ngoại các thùng gỗ sồi khá tốn kém, ảnh hưởng đến
giá trị thương mại và lợi nhuận kinh tế của các nhà sản xuất rượu. Vì vậy, chúng tơi đã sử dụng bột gỗ
sồi nhập khẩu từ Pháp ngâm trong rượu brandy để giảm chi phí và thời gian lưu trữ rượu. Để xác định
hàm lượng gỗ sồi thích hợp dung để ngâm ủ rượu brandy bần chua, chúng tơi tiến hành thí nghiệm với
mức bổ sung khối lượng gỗ sồi khác nhau từ 2,5 đến 3,5 g/l (bước nhảy 0,25).


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

Hình 4. Brandy bần chua sau khi được ngâm với bột gỗ sồi với các tỷ lệ khác nhau.
4. Kết luận


Chúng tôi đã nghiên cứu xây dựng thành công quy trình sản xuất brandy bần chua ở quy mơ
lên men 350 l/mẻ, sau 14 ngày lên men thu được dịch quả có hàm lượng rượu đạt 16,5%. Sau khi
chưng cất, rượu brandy bần chua đã được xử lý với NaOH và KMnO4 để loại bớt một số chất


không mong muốn như acid, methanol, aldehyde và ester. Chúng tôi cũng đã xác định được hàm
lượng gỗ sồi phủ hợp để ngâm ủ tạo hương vị và màu cho rượu bần chua là khoảng 3 – 3,25 g/l.
Các số liệu phân tích và cảm quan chứng tỏ rằng rượu brandy bần chua hoàn toàn đáp ứng Quy
chuẩn kỹ thuật Quốc gia về rượu brandy. Đây là nghiên cứu đầu tiên sản xuất brandy từ dịch quả
bần chua lên men, quy trình này có thể ứng dụng để xản xuất Brandy bần chua ở qui mô công
nghiệp.



<b>Tài liệu tham khảo</b>


[15] M. Spalding, M. Kainuma, L. Collins, World Atlas of mangroves. London, Washington D.C.
(2010) 6-7.


[16] <i>Nguyễn Hồng Trí, Thực vật Rừng ngập mặn Việt Nam, NXB Giáo dục Hà Nội 1996.</i>


[17] S. Baba, H.T. Chan, S. Aksornkoae S, Useful products from mangrove and other coastal plants.
ISME Mangrove Educational Book Series No.3 (2013) 45-47.


[18] Đoàn Văn Thược, Đinh Thị Hồng Duyên, Định loại và nghiên cứu khả năng lên men rượu của
<i>chủng nấm men NM2 phân lập từ quả bần chua (Sonneratia caseolaris). Tạp chí Sinh học 37</i>
(2015) 69-75.


[19] Lê Thanh Mai, Nguyễn Thị Hiền, Phạm Thu Thủy, Nguyễn Thanh Hằng, Lê Thị Lan Chi, Các
phương pháp phân tích ngành cơng nghệ lên men, NXB Khoa học và Kỹ thuật Hà Nội (2006)
138-141, 312-314.


[20] K. Tsakiris, S. Kallithraka, Y. Kourkoutas, Grape brandy production, composition and sensory
<i>evaluation. Journal of the Science of Food and Agriculture 94 (2014) 404-414.</i>


[21] B. Miličević, J. Babić, D. Šubarić, Đurđica Ačkar, A. Jozinović, R. Miličevi, I. Klarić, The
effects of the fermentation with immobilized yeast and different cherry varieties on the quality of
cherry brandy. Croatian Journal of Food Science and Technology (2014) 104-109.


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

<i>và Công nghệ, Tập 30, Số 6S (2014) 1-10 </i>


[23] Thông tư số 45/2010/TT-BYT, ngày 22 tháng 12 năm 2010. Ban hành Quy chuẩn kỹ thuật quốc
gia đối với các sản phẩm đồ uống có cồn. Bộ Y Tế.



[24] Y. Zhao, T. Tian, J. Li, B. Zhang, Y. Yu, Y. Wang, H. Niu, Variations in main flavor compounds
of freshly distilled brandy during the second distillation. International Joural of Food Engineering
10 (2014) 809-820.


<i>Development of a process for brandy production using fruits of Sonneratia caseolaris </i>
Doan Van Thuoc, Vu Thi Hang


<i>Faculty of Biology, Hanoi National University of Education, 136 Xuan Thuy, Hanoi, Vietnam</i>


<i><b>Abstract: A process for brandy production using fruits of Sonneratia caseolaris was</b></i>


developed in this study. After 14 days of fermentation in a fermentor containing 350 l of
<i>fruit juice of Sonneratia caseolaris, maximum alcohol level of 16.5% (v/v) was obtained.</i>
<i>The fermented fruit juice of Sonneratia caseolaris was then distilled to produce brandy.</i>
However, the brandy is tasteless because of high concentration of total acidity (864 mg/l),
aldehydes (124.7 mg/l), esters (211.2 mg/l) and methanol (134.8 mg/l). Brandy was treated
with NaOH and KMnO4, the concentration of total acidity, aldehydes, esters and methanol


were respectively reduced to 130 mg/l, 43 mg/l, 92.4 mg/l and 23.5 mg/l, because of that
the taste was improved. Treated brandy was then incubated with powdered oak wood with
different concentrations, the results showed that the best concentration was 3-3.25 g
powdered oak wood per litter brandy (60%, v/v). The data analysis and the taste of brandy
proved that the brandy completely meet with National Technical Regulation on spirits. This
<i>is the first study on brandy production using fruits of Sonneratia caseolaris. </i>


<i>Keywords: Apple mangrove, brandy, fermentation, distillation, Sonneratia caseolaris.</i>


Tiềm năng tài nguyên và giải pháp phát triển du lịch sinh thái
đảo Quan Lạn, huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh



Phạm Quang Tuấn*, Dương Thị Thủy, Lê Phương Thúy
Khoa Địa lý, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, ĐHQG Hà Nội


Nhận ngày 10 tháng 10 năm 2014


Chỉnh sửa ngày 30 tháng 10 năm 2014; Chấp nhận đăng ngày 20 tháng 11 năm 2014


<b>Tóm tắt: Đảo Quan Lạn nằm trong hệ thống đảo ven bờ tỉnh Quảng Ninh có vị trí quan trọng về mặt</b>


an ninh quốc phòng và phát triển kinh tế biển. Đặc biệt, trong quy hoạch tổng thể kinh tế xã hội khu
kinh tế Vân Đồn đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, đảo được xác định là một trong bốn cụm
điểm du lịch sinh thái tập trung điển hình của huyện. Tuy nhiên, hiện trạng khai thác du lịch sinh thái


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

thiện cơ sở hạ tầng, tăng cường giáo dục mơi trường cũng như khuyến khích sự tham gia của cộng
đồng địa phương vào hoạt động du lịch.


<i>Từ khóa: du lịch sinh thái, đảo ven bờ, đảo Quan Lạn, huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh.</i>


1. Đặt vấn đề


Hệ thống đảo ven bờ tỉnh Quảng Ninh là cửa ngõ, là đầu mối giao lưu kinh tế trong nước và quốc tế, là
điểm trung gian, cầu nối giữa đất liền và biển khơi trong quá trình chinh phục và khai thác tài nguyên


biển, là điểm dừng chân trên đường hàng hải quốc tế. Hệ thống đảo ven bờ có điều kiện tự nhiên,
nguồn tài nguyên biển, ven biển (hệ sinh thái san hô, cỏ biển, rừng ngập mặn; bãi cát biển, thủy sản,
…) được đánh giá cao, ý nghĩa to lớn trong phát triển du lịch sinh thái (DLST), bảo tồn thiên nhiên và


nghiên cứu khoa học [1]. DLST với mục tiêu bảo vệ môi trường, sinh thái và văn hóa cũng như đảm
bảo mang lại lợi ích về tài chính cho cộng đồng địa phương [2] đang dần trở thành định hướng phát



triển lâu dài tại hệ thống các đảo ven bờ tỉnh Quảng Ninh nói chung, đảo Quan Lạn nói riêng. Tuy
nhiên, hiện trạng khai thác DLST tại các đảo này còn khá manh mún, tự phát và chưa được người dân


biết đến nhiều.


Trong bài viết này, nhóm tác giả đã phân tích, đánh giá tiềm năng tài ngun du lịch, đề xuất mơ hình
cơ sở dữ liệu GIS phục vụ quản lý và các giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển DLST tại đảo Quan Lạn


trên quan điểm phân tích tổng hợp, sinh thái - mơi trường và hệ thống phương pháp khảo sát thực tế,
quan trắc môi trường nước biển cũng như điều tra xã hội học tại đảo.


2. Tiềm năng du lịch sinh thái đảo Quan Lạn
2.1. Vị trí địa lý


Tỉnh Quảng Ninh có hơn 2.000 hịn đảo [3] thuộc khu vực ven bờ, chiếm khoảng 2/3 số đảo ven bờ cả
nước (2078/2779), trong đó có 1.030 đảo đã có tên. Tổng diện tích các đảo ven bờ tỉnh Quảng Ninh là
619,913km², trong đó tập trung lớn tại 2 huyện đảo Cơ Tơ và Vân Đồn với tổng số đảo chính 33 đảo


[4] (bảng 1).


Bảng 1. Khái quát các huyện đảo của tỉnh Quảng Ninh


Tên huyện
đảo


Diện tích
(km2<sub>)</sub>


Số đảo
chính



Cách đất liền từ trung tâm huyện
(km)


Cô Tô 46,2 16 <sub>- Cách Cái Rồng: 22km</sub>- Cách Hạ Long: 80km


Vân Đồn 551,3 17 - Cách Cửa Ông: 7km


- Cách Hạ Long: 50km
Nguồn: [4]


Hệ thống đảo ven bờ tỉnh Quảng Ninh với nguồn tài nguyên đa dạng thúc đẩy phát triển kinh tế biển
và ven biển của tỉnh Quảng Ninh thông qua nuôi trồng hải sản, xây dựng các trung tâm phát triển kinh


tế biển tổng hợp, dịch vụ hàng hải, thông tin liên lạc và đặc biệt là DLST. Hệ thống đảo ven bờ này
vừa là cửa ngõ đất liền của tỉnh Quảng Ninh, vừa là cửa ngõ ra biển, làm cơ sở để phát triển thành các


trung tâm giao thương quốc tế đường biển, đường bộ, đường hàng khơng; đồng thời cịn là các vọng
gác nhằm kiểm sốt tàu bè ra vào cảng biển (cảng Cái Lân,…). Một số đảo có vị trí an ninh quốc
phịng đặc biệt quan trọng (đảo Trần, đảo Cô Tô,…), là hệ thống tiền tiêu trên biển, mở rộng chủ
quyền lãnh thổ quốc gia trên biển, bảo vệ vững chắc an ninh vùng biển đảo ven bờ và lãnh hải, đóng


góp cho bảo vệ chủ quyền biển đảo.


* Tác giả liên hệ – ĐT: 0988081161


Email: <sub>Đảo Quan Lạn thuộc cụm đảo vịnh</sub>


Bái Tử Long, có tọa độ địa lý 200<sub>53’04’’ vĩ độ</sub>



bắc, 1070<sub>30’42’’ kinh độ đông. Đảo gồm hai</sub>


xã Quan Lạn, Minh Châu với 5 thơn và một
phần diện tích đảo thuộc địa phận vườn quốc
gia Bái Tử Long (hình 1).


Đảo có diện tích 118,638 km2<sub>, kéo dài</sub>


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

<i>và Công nghệ, Tập 30, Số 6S (2014) 1-10 </i>


Đảo Quan Lạn cấu tạo chủ yếu bởi các trầm tích lục ngun hệ tầng Sơng Cầu tuổi Devon và các trầm
tích biển bở rời tuổi Đệ tứ (thường được gọi là đảo đất), mang sức hấp dẫn hoàn tồn khác biệt so với
đảo cấu tạo bởi đá vơi (thường gọi là đảo đá) khá phổ biến của khu vực vịnh Hạ Long – Cát Bà [3]. Do


diện tích của đảo khá nhỏ hẹp, tài nguyên đất, khoáng sản,… hạn chế, việc trao đổi kinh tế giữa đảo
với đất liền tương đối khó khăn nên cần tập trung khai thác các thế mạnh về du lịch nhằm nâng cao
đời sống vật chất cho người dân trên đảo. Trong quy hoạch tổng thể kinh tế xã hội khu kinh tế Vân
Đồn đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 cũng đã xác định cụm đảo Quan Lạn – Minh Châu sẽ là


một trong bốn cụm du lịch tập trung điển hình của huyện.
2.2. Tài nguyên du lịch tự nhiên


Phần lớn các đảo ven bờ tỉnh Quảng Ninh được thành tạo chủ yếu do q trình bóc mịn, xâm thực
chia cắt lục địa và hình thành nên các đồi núi sót ven bờ, sau đó bị biển tiến Holocen tràn ngập và tạo


nên các giá trị địa chất, địa hình và tài nguyên sinh vật đặc sắc.


<i>Địa chất, địa hình: Đảo có địa hình đồi núi - hải đảo đa dạng, phân dị mạnh với độ cao trung bình</i>


khoảng 40m so với mực nước biển, độ dốc trung bình là 250<sub>C. Hình thái chủ yếu của địa hình là đồi</sub>



núi thấp và đảo đá vôi và một phần nhỏ diện tích có kiểu địa hình đồng bằng ven biển. Quan Lạn
thuộc vùng đảo đơng bắc bộ có cấu trúc địa chất phức tạp gồm các thành tạo có tuổi rất khác nhau như


Paleozoi, Mesozoi, Kainozoi [3] và có cấu tạo khác nhau với thành phần nham thạch cũng khá phong
phú. Địa hình đảo hết sức đa dạng từ đồi núi thấp, vũng cho đến các bãi triều, trong đó địa hình đồi núi
thấp chiếm tới 74%. Quan sát ven chân đảo Quan Lạn thấy xuất hiện nhiều vũng, bãi triều đất bùn, bãi


cát hẹp, bãi đá rộng 15 - 70m, kín gió thuận lợi cho việc neo đậu tàu thuyền.


Cảnh quan đa dạng phân bố thành dải theo hướng tây bắc – tây nam khá thuận lợi cho khai thác du
lịch tham quan – nghỉ dưỡng. Tại Quan Lạn, địa hình đáy biển tương đối đơn giản và bằng phẳng, khu


vực đáy biển giữa các bãi Quan Hào và Minh Châu xảy ra q trình bào mịn tích tụ, tạo nên bề mặt
bằng phẳng nhất định, vật liệu tích tụ ở đây chủ yếu là cát bột sỏi sạn, vụn vỏ sinh vật. Đảo Quan Lạn
là nơi phân bố của hệ thống bãi cát biển sạch, cát mịn và trắng trải dài hàng kilơmét, điển hình như bãi
Nhãng Rìa, Bể Thích, Chương Nẹp, bãi Giữa… rất thuận lợi cho du lịch tắm biển, xây dựng khu resort
nghỉ dưỡng. Đặc biệt là bãi biển Minh Châu với chiều dài gần 3km, cát trắng mịn, sóng êm, được đánh
giá là bãi biển đẹp nhất Vịnh Bắc Bộ. Cũng không kém phần lộng lẫy, bãi biển Sơn Hào trên đảo Quan
Lạn vào mùa hè với bãi cát trắng dài mịn như nhung, nước biển trong xanh và nắng dịu nhẹ đã tạo nên
một thiên đường nghỉ dưỡng cho du khách. Phía trên các bãi tắm là rừng trâm tự nhiên thuần loại trên
100 tuổi, bao bọc lấy bãi biển, rất phù hợp cho việc phát triển các hoạt động du lịch sinh thái như căm


trại, nghiên cứu khoa học, nghỉ dưỡng.


<i>Khí hậu: đây cũng là yếu tố quan trọng cho phát triển du lịch biển, du lịch nghỉ dưỡng. Đảo Quan Lạn</i>


nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa. Từ tháng 3 đến tháng 8, gió đơng nam từ biển thổi vào mát mẻ,
nhiệt độ trung bình năm 22,80<sub>C, cao nhất 37,3</sub>0<sub>C và thấp nhất 4,6</sub>0<sub>C [4] thuận lợi cho phát triển DLST,</sub>



nhưng cũng gây ra tính mùa vụ du lịch nơi đây bởi sự xuất hiện của mùa đông từ tháng 10 năm trước
đến tháng 4 năm sau. Vì vậy, du lịch tắm biển, tham quan tại đảo chủ yếu sầm uất vào mùa hè từ tháng


4 đến tháng 6, 7 dương lịch.


<i>Thủy văn: nhiệt độ nước biển cũng là thơng số có ảnh hưởng tới các hoạt động vui chơi giải trí dưới</i>


nước, theo các nghiên cứu thực nghiệm thì nhiệt độ nước thích hợp nhất cho vui chơi giải trí dưới
nước là trên 200<i><sub>C. Kết quả quan trắc của Dự án Quy hoạch bảo vệ Môi trường huyện Vân Đồn đến</sub></i>


<i>năm 2020 tầm nhìn đến năm 2030 tại một số điểm xã Minh Châu và Quan Lạn cho thấy nhiệt độ nước</i>


biển dao động từ 160<sub>C đến 21</sub>0<sub>C vào mùa đông, 24</sub>0<sub>C đến 30</sub>0<sub>C vào mùa hè, nằm trong mức khá phù</sub>


hợp để phát triển các loại hình du lịch dưới nước và các chỉ tiêu như pH, độ dẫn điện, độ đục cũng đều


</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

nằm trong giới hạn cho phép. Với điều kiện dòng chảy vừa phải (0,1 – 0,2m/s), độ mặn của nước biển
trung bình trên 27 0<sub>/</sub>


00 và nhiệt độ nước biển trung bình năm là 25,10C,…đều rất thuận lợi cho tắm


biển, lặn biển, thể thao dưới nước.


<i>Tài nguyên sinh vật: hệ sinh thái rừng ngập mặn tại đảo Quan Lạn với quy mơ khoảng 30 ha có vai trị</i>


điều hịa khí hậu, tham gia kiến tạo bảo vệ cảnh quan ven bờ, chống xói mịn bờ biển, bảo vệ hệ thống
đê ven bờ, hạn chế những cơn bão lớn quét qua đây,… Hệ sinh thái vùng triều phân bố chính tại xã
Minh Châu, nơi đây tập trung nhiều loại hải sản có giá trị kinh tế như cá song, cầu gai, hải sâm, trai
ngọc và đặc biệt là sá sùng. Hệ sinh thái vùng triều không chỉ là điểm tham quan du lịch mà còn là
nguồn cung cấp ẩm thực cho du khách đến đảo Quan Lạn. Ngoài ra, đến Quan Lạn du khách còn bắt


gặp hệ sinh thái rong cỏ biển, tập trung tại các bãi ven bờ quy mơ khoảng 100 ha với sự phân bố các
lồi như Halophila ovalis, Zostera japonica [5]. Trên địa bàn xã Minh Châu còn tồn tại hệ sinh thái
rừng Trâm với độ thuần chủng trên 90% [5], được đánh giá là một trong những rừng Trâm tự nhiên
lớn nhất Việt Nam với diện tích khoảng 14 ha, trải dài 4-5km theo hình vịng cung, phủ kín cồn cát
cạnh bãi tắm Chương Nẹp. Rừng Trâm sẽ là điểm lý tưởng tổ chức tour du lịch thám hiểm, đi bộ dã
ngoại, cắm trại và với những du khách có thời gian lưu trú 1-2 ngày có thể tham gia câu cá mú và mực
ngay tại vũng Ơ Lợn. Khơng chỉ vậy, đến với Quan Lạn du khách có cơ hội ngắm rùa biển đẻ trứng tại


bãi Dưới.


Với khơng khí trong lành, các hệ sinh thái điển hình cả về quy mơ và cấu trúc, bãi cát biển mềm mại
đã tạo cho đảo Quan Lạn những điểm mạnh thu hút khách du lịch trong và ngồi nước. Đến với đảo du


khách khơng chỉ tham quan, tìm hiểu, nghiên cứu giá trị tự nhiên đặc sắc mà cịn được tắm biển và
thưởng thức những món ăn ngon chế biến từ hải sản tươi ngay trên bãi biển.


2.3. Tài nguyên du lịch nhân văn


Quan Lạn với tổng số dân 4.787 người thuộc 1.071 hộ và mật độ dân số khá cao 55 người/km2<sub> tại xã</sub>


Quan Lạn và 20 người/ km2<sub> tại xã Minh Châu [6,7]. So với xã Ngọc Vừng và Bản Sen đảo Vân Hải thì</sub>


đảo Quan Lạn có mật độ dân số đơng hơn bởi nơi đây trước kia từng là thương cảng nổi tiếng của Vân
Đồn. Với lịch sử phát triển lâu đời, Quan Lạn đang lưu giữ trong mình những giá trị du lịch nhân văn


đặc sắc.


<i>Di tích lịch sử: từ thế kỷ XI, Quan Lạn đã trở thành thương cảng sầm uất và thịnh vượng của Vân</i>


Đồn. Hiện nay, trên đảo vẫn cịn lưu giữ những di tích của Bến thuyền cổ như bến Cái Làng, bến Cống


Cái thuộc xã Quan Lạn và bến Con Quy xã Minh Châu. Di chỉ còn lại của các bến thuyền cổ là mảnh
gốm, bát đĩa từ thời Đường – Tống của Trung Quốc, tiền Việt từ thời Lý, Trần và Lê. Đình Quan Lạn
là ngơi đình cổ nhất tỉnh Quảng Ninh, là ngơi đình duy nhất cịn thờ vua Lý Anh Tơng được xây dựng
từ thế kỷ XVIII với kiến trúc cổ. Đình với các hàng cột cao 5-6m có đường kính một người ôm không
xuể được làm bằng gỗ Mần Lái, loại cây chỉ có trên đảo đá Ba Mùn (gần cảng Cái Làng), chống chịu
mối mọt cao. Bên cạnh đó, đảo cịn là nơi ghi dấu chiến thắng của vị thành hoàng Trần Khánh Dự tại
đền thờ Trần Khánh Dư thuộc xóm Thái Hịa xã Quan Lạn và di tích dịng sơng Mang lịch sử. Đền
được xây theo kiểu chữ Đinh gồm 3 gian tiền đường và 2 gian hậu cung và đền thờ Trần Khánh Dư là


nơi diễn ra lễ tế thành hoàng trong mỗi dịp lễ hội.


<i>Lễ hội: lễ hội đình Quan Lạn cịn gọi lễ hội đua bơi Quan Lạn vừa là kỷ niệm chiến thắng đánh quân</i>


Nguyên Mông của tướng Trần Khánh Dư, vừa là ngày hội cầu được mùa của cư dân vùng biển. Lễ hội
diễn ra từ ngày 10 đến ngày 20 tháng 6 âm lịch hàng năm tại khu vực trung tâm thương cảng Vân


Đồn.


3. Hiện trạng du lịch sinh thái đảo Quan Lạn


Hiện trạng du lịch sinh thái đảo Quan Lạn đã đạt được thành công nhất định như lượng khách du lịch
liên tục tăng qua các năm, hệ thống hạ tầng được quan tâm hơn, người dân địa phương đã bước đầu


</div>
<span class='text_page_counter'>(19)</span><div class='page_container' data-page=19>

<i>và Công nghệ, Tập 30, Số 6S (2014) 1-10 </i>


Từ Hà Nội du khách có thể lựa chọn xe buýt xuất phát từ bến Mỹ Đình đến Cái Rồng hoặc sử dụng xe
khách chạy tuyến Hà Đông – Mỹ Đình – Vân Đồn. Việc đi lại giữa đất liền với đảo Quan Lạn ngày
càng thuận tiện, ngoài tàu gỗ đi từ Hòn Gai, Cái Rồng ra Quạn Lạn thì từ tháng 3 năm 2009 du khách


có thể di chuyển bằng tàu cao tốc tại điểm xuất phát Cái Rồng ra đảo với thời gian hơn 1 giờ.


Trong phạm vi đảo Quan Lạn có ba bến tàu phục vụ cho giao thương đi lại của khách du lịch và người


dân địa phương là bến tàu gần miếu Đồng Hồ, bến tàu gần sông Mang (nối đảo Quan Lạn và đảo Trà
Bản) và cảng cát Nam Hải đưa du khách đi tham quan bãi Minh Châu. Bên cạnh đó, đảo đã đầu tư hệ
thống tàu cao tốc, 5 tàu chở khách đi các xã trong huyện đảo Quan Lạn cùng phương tiện vận chuyển
đường bộ như xe lam (xe túc túc), xe ôm và xe buýt. Với du khách ưa thích tuyến du lịch tham quan


dã ngoại Quan Lạn – Minh Châu – Sơn Hào – Yến Hải thì xe bt sẽ là phương tiện hữu ích.
3.2. Cơ sở hạ tầng – vật chất phục vụ du lịch


Du lịch đảo Quan Lạn đang trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển nên cơ sở hạ tầng – vật chất
kỹ thuật còn nhiều bất cập như: số lượng cơ sở lưu trú, cơ sở ăn uống đạt tiêu chuẩn chưa nhiều, dịch


vụ vui chơi giải trí gần như chưa có và chất lượng dịch vụ cịn hạn chế.


<i>Cơ sở kinh doanh lưu trú và công ty du lịch sinh thái: năm 2013, trên đảo có 54 cơ sở kinh doanh lưu</i>


trú, trong số có 63% số cơ sở tập trung tại bãi Vân Hải, trung tâm xã Quan Lạn và 20 cơ sở tập trung
tại xã Minh Châu. Chất lượng cơ sở lưu trú còn thấp, 50% trong số đó chưa được xếp hạng, chủ yếu là


nhà nghỉ bình dân với cơng suất sử dụng buồng phòng đạt 48% (tập trung các tháng mùa hè). Hiện
nay, số cơ sở lưu trú với quy mô 20 buồng chỉ có 4 cơ sở là Vân Hải Đỏ resort (80 phòng), khách sạn
Lepont Minh Châu (36 phòng), khách sạn Ann (21 phòng) và nhà nghỉ Ngân Hà (22 phịng) (bảng 2).
Bên cạnh đó, dịch vụ “homestay” là hình thức ngủ tại nhà dân cũng đã thu hút được lượng du khách
nhất định vào mùa hè đặc biệt là khách quốc tế, nhưng các cơ sở còn tự phát gây khó khăn cho thống


kê và kiểm duyệt chất lượng.


Bảng 2. Thực trạng cơ sở lưu trú tại đảo Quan Lạn đến 4 tháng đầu năm 2

014




Xã Tổng số cơ


sở lưu trú


Tổng số cơ
sở lưu trú
được xếp


hạng


Tổng
buồng
phòng


Buồng
phòng
đạt tiêu


chuẩn


Quan Lạn 34 18 897 311


Minh


Châu 20 9 110 85


<i> Nguồn: [6],[7]</i>


Phát triển dịch vụ nói chung hay du lịch nói riêng theo hướng bền vững đang dần trở thành ngành kinh
tế mũi nhọn của huyện đảo Vân Đồn với cơ chế chính sách thu hút đầu tư DLST cởi mở hơn. Trên đảo


đã có 4 doanh nghiệp đầu tư phát triển du lịch sinh thái là Công ty Vân Hải, Công ty VIT Hạ Long,


Công ty Việt Mỹ, Công ty TNHH Vân Hải Xanh.


<i>Cơ sở hạ tầng khác và những khó khăn: do nằm xa đất liền, tính đến tháng 11/2014 đảo Quan Lạn vẫn</i>


chưa có điện lưới quốc gia, mọi hoạt động dựa vào 2 trạm điện chạy bằng diezen và tỷ lệ hộ được
dùng điện cịn thấp khoảng 30%. Khơng chỉ vậy, giá điện tại Quan Lạn rất cao: 17,800 đồng/số điện


(gấp 11 lần so với giá điện quốc gia) và thời gian được cấp điện giới hạn từ 17giờ đến 22 giờ hàng
ngày. Ngồi ra, trên đảo chưa có nước sạch dẫn tới hạn chế trong sinh hoạt của du khách, chi phí nhiều


dịch vụ khác cũng tăng cao như giá “xe ôm” đắt gấp đôi so với đất liền bởi xăng dầu phải chở từ đất
liền ra.


3.3. Loại hình và tuyến du lịch


<i>Loại hình du lịch: dựa trên lợi thế nhiều bãi biển đẹp vẫn cịn ngun sơ, các loại hình du lịch được</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(20)</span><div class='page_container' data-page=20>

nhiên như hệ sinh thái rừng Trâm, bãi rùa đẻ trứng và tìm hiểu giá trị du lịch nhân văn đặc sắc tại đình
Quan Lạn, đền thờ Trần Khánh Dư và lễ hội diễn ra tại đây.


<i>Tuyến du lịch: hiện nay, các tuyến du lịch tổ chức trong xã Quan Lạn và Minh Châu khá ngắn và đơn</i>


điệu, nên chưa thu hút khách du lịch tham gia. Nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh du lịch, các tuyến
du lịch liên kết giữa Quan Lạn, Minh Châu với một số điểm du lịch khác đã được triển khai. Ví dụ


như:


- Tuyến 1: Hạ Long – Ngọc Vừng – Quan Lạn – Minh Châu – Vườn quốc gia (VQG) Bái Tử Long –


Hạ Long (3 ngày 2 đêm).


- Tuyến 2: Cái Rồng – Soi Nhụ - Minh Châu – Cái Lim – Cái Rồng (1 ngày).


- Tuyến 3: Cái Rồng – Trà Thần – Cái Lim – Cái Đẻ - Minh Châu – Quan Lạn – Soi Nhụ - Cái Rồng
(2 ngày 1 đêm).


3.4. Khách du lịch


<i>Khách du lịch: khai thác những tuyến du lịch liên kết, lượng khách du lịch đến xã Quan Lạn ngày càng</i>


tăng ước đạt năm 2013 lượng khách tới Quan Lạn là 18.500 lượt, khách nội địa tăng 22% và khách
quốc tế tăng 26% so với cùng kỳ năm 2012 [7]. Cũng tương tự, lượng khách du lịch đến xã Minh


Châu năm 2010 chỉ đạt 4.500 lượt đến năm 2013 con số này đã tăng 4,6 lần (bảng 3).
<i>Bảng 3. </i>

Lượng khách du lịch đến xã Minh Châu giai đoạn 2010-2014



Năm 2010 2011 2012 2013


Số lượng khách
(người)


4.50
0


6.03
1


8.40
2



21.08
9
Số lượng khách lưu


trú qua đêm (người)


1.25
1


2.13
4


5.23
1


11.83
8
Nguồn: [6]


Thời gian lưu trú trung bình của du khách là 1,5 ngày, với những hoạt động du lịch được ưa thích như
tắm biển bãi Minh Châu, thăm quan đình chùa Quan Lạn và thưởng thức ẩm thực địa phương.


<i>Mức độ hài lòng của du khách: Quan Lạn là hòn đảo đẹp, giàu tiềm năng du lịch, nhưng hệ thống hạ</i>


tầng vật chất còn hạn chế về điện sinh hoạt, nước sạch và giá dịch vụ cao khiến tỷ lệ du khách hài lòng
về du lịch địa phương khơng cao 20,3%, tỷ lệ cảm thấy bình thường là 41,1% và đặc biệt tỷ lệ cảm
nhận không hài lịng tới 16,2%. Ngun nhân khơng hài lịng của du khách chủ yếu do dịch vụ còn
khá đơn điệu, thiếu các hoạt động như vui chơi giải trí trên biển, các hoạt động thương mại dịch vụ về



đêm, sản phẩm lưu niệm của địa phương.
3.5. Hoạt động giáo dục và thuyết minh môi trường


Hoạt động giáo dục và diễn giải môi trường tại các điểm du lịch là nguyên tắc hoạt động cơ bản của
DLST, hoạt động này tại đảo Quan Lạn đã có và gắn kết chặt chẽ với VQG Bái Tử Long. Vườn
thường xuyên mở các khóa học nâng cao nhận thức về “bảo tồn rùa biển” cho các thầy cô dạy môn
sinh vật và làm cơng tác Đồn, Đội của huyện Vân Đồn cũng như các ngư dân đang sinh sống vãng lai


và nuôi trồng thủy sản trong VQG. Trung tâm giáo dục cộng đồng do Fronter – Việt Nam đã tài trợ
xây dựng phòng trưng bày tại xã Minh Châu, du khách có thể tìm hiểu giá trị tự nhiên, lịch sử cũng
như những loài động thực vật quý hiếm của Vườn tại đây. Bên cạnh đó, hai xã Quan Lạn và Minh
Châu cũng đã mở các lớp bồi dưỡng kỹ năng du lịch cho một số nhà nghỉ, khách sạn và khóa học tiếng


anh, bồi bàn, buồng phòng, nấu bếp, hướng dẫn viên nhưng số lượng người tham gia còn hạn chế.
3.6. Hỗ trợ cộng đồng địa phương


Du lịch tại đảo Quan Lạn đã bước đầu mang lại lợi ích xã hội cho người đân địa phương, giảm tỷ lệ
thất nghiệp bằng việc tạo cơ hội việc làm tại các khu du lịch, resort, cơ sở kinh doanh lưu trú và ăn
uống với các cơng việc cụ thể như quản lí nhà nghỉ, khách sạn, chạy xe túc túc đưa đón khách du lịch,


mở quán ăn, lễ tân, hướng dẫn viên, bán hải sản, cho thuê xe máy,… Dựa trên kết quả điều tra xã hội
học tại đảo Quan Lạn vào tháng 5 năm 2013, nhóm tác giả đã thu thập được thông tin về mức độ tham


</div>
<span class='text_page_counter'>(21)</span><div class='page_container' data-page=21>

<i>và Công nghệ, Tập 30, Số 6S (2014) 1-10 </i>


<i>Bảng 4. </i>

Sự tham gia du lịch của một số hộ dân tại đảo Quan Lạn



Họ và tên


Thôn, Xã Năm bắt đầu hoạt<sub>động du lịch</sub>



Người tham
gia/tổng số người


trong gia đình Hoạt động tham gia
Phạm


Hữu Thỏa


Đông Nam,
Quan Lạn


2008 Xây dựng
nhà nghỉ Khải


Huyền


6/7 Kinh doanh nhà nghỉ; bán hải sản
khô; cho thuê xe đạp, xe máy
Phạm


Hùng Văn


Xóm Đồi,
Quan Lạn


2011 Mượn đất
cơng ty Vic giá 1


triệu/năm



4/6


Xây dựng lều nghỉ chân gần bãi
tắm Quan Lạn; thu mua hải sản,


(từ tháng 4-9)
Nguyễn


Trọng
Đức


Đông Nam,
Quan Lạn


2002 Xây dựng


nhà nghỉ Ngân Hà 2/5


Kinh doanh nhà nghỉ; Bán tạp
hóa; Cho thuê xe máy, xe đạp
Bùi Thị


Hải


Quang
Trung,
Minh Châu


2013 Bán tạp hóa 2/4 Bán hàng tạp hóa; Bán hải sản



khơ
Nguyễn


Thị Thảo


Nam Hải,
Minh Châu


2007 Mua xe túc


túc 1/4


Chạy xe túc túc (giá
600.000đ/chuyến); Bán hải sản


khô
Lài Xuân


Thành


Ninh Hải,
Minh Châu


2010 Bắt đầu cho
khách nghỉ lại tại


nhà


3/4



Cho khách nghỉ qua đêm; Hướng
dẫn du lịch; cho thuê xe máy, xe


đạp


Du lịch đã thu hút số hộ nhất định tham gia, có gia đình tới 6/7 người làm dịch vụ du lịch, các hình
thức tham gia khá đa dạng và có sự phân hóa giữa xã Quan Lạn và Minh Châu. Dịch vụ tham gia phổ
biến của người dân xã Quan Lạn là kinh doanh lưu trú, cho thuê xe máy xe đạp, còn với xã Minh Châu


là dịch vụ hướng dẫn viên, lái xe túc túc và bán hải sản khô.
3.7. Đánh giá chung du lịch đảo Quan Lạn


<i>a. Thuận lợi</i>


Đảo Quan Lạn thuộc cụm đảo ven bờ tỉnh Quảng Ninh có vị trí chiến lược về an ninh quốc phịng, là
bức bình phong vững vàng ngăn sóng biển, che chắn cho Vân Đồn, giúp Vân Đồn trở thành nơi neo


đậu tàu thuyền an toàn và thuận tiện trong kết nối du lịch đảo Quan Lạn với đảo xung quanh.
Với nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú như bãi Minh Châu, bãi Nhãng Rìa, bãi Bể Thích, bãi
Chương Nẹp, bãi Giữa, hệ sinh thái rừng Trâm, hệ sinh thái rừng ngập mặn…cùng các giá trị nhân văn


đặc sắc như các bến thuyền cổ, di tích lịch sử và lễ hội là tiềm năng thuận lợi cho phát triển du lịch
sinh thái địa phương. Độ sâu tại các bãi biển trên đảo khá thấp từ 5 đến 10m, được bao bọc trong vịnh
Bái Từ Long nên nước biển tại các bãi tắm rất sạch. Ngồi ra, các thơng số khí hậu, hải văn khá thuận


lợi cho loại hình du lịch tắm biển và nghỉ dưỡng.


Du lịch đã dần thay đổi chất lượng cơ sở hạ tầng địa phương như đường giao thông, phương tiện vận
chuyển kết nối đảo Quan Lạn với thị trấn Cái Rồng và đường bộ kết nối các thôn trong đảo; số lượng


cơ sở lưu trú và dịch vụ ăn uống cũng ngày càng tăng. Bên cạnh đó, du lịch đã giúp người dân nâng


cao chất lượng sống, giúp họ có thêm việc làm và thu nhập.


<i>b. Khó khăn</i>


Du lịch Quan Lạn có tính mùa khá rõ nét, lượng khách du lịch đến đảo tập trung chủ yếu vào các
tháng hè từ tháng 4 đến tháng 7, 8 dương lịch do vậy cơng suất sử dụng phịng khách sạn khơng thực


</div>
<span class='text_page_counter'>(22)</span><div class='page_container' data-page=22>

Đảo Quan Lạn nằm cách thành phố Hạ Long khoảng 55km nên khả năng cung ứng nước ngọt, điện
lưới cho sinh hoạt của người dân và du khách cịn nhiều khó khăn kéo theo sự nghèo nàn và đơn điệu


của dịch vụ vui chơi giải trí, dịch vụ thương mại về buổi đêm.


Hiện nay, số doanh nghiệp du lịch tại đảo cịn ít và đa phần đầu tư cho lưu trú, ăn uống mà chưa chú
trọng cho sản phẩm du lịch tại các điểm như bãi Minh Châu, Sơn Hào, bãi Nhãng Rìa. Số lượng cơ sở


lưu trú tăng qua các năm nhưng chất lượng còn hạn chế, số buồng phòng đạt tiêu chuẩn thấp và chất
lượng nguồn lao động du lịch chưa đáp ứng yêu cầu phát triển.


4. Một số giải pháp phát triển và quản lý du lịch sinh thái đảo Quan Lạn
4.1. Đề xuất mơ hình cơ sở dữ liệu GIS phục vụ quản lý du lịch sinh thái


Với mục tiêu giúp các nhà quản lý có thể truy vấn, cập nhật, quản lý dữ liệu du lịch trên địa bàn được
thuận lợi và dễ dàng, nhóm tác giả đã đề xuất mơ hình cơ sở dữ liệu (CSDL) GIS phục vụ quản lý du


lịch đảo Quan Lạn thể hiện đầy đủ các nội dung về tài nguyên du lịch tự nhiên, tài nguyên du lịch
nhân văn, cơ sở hạ tầng du lịch, tuyến du lịch,…


Các nguồn dữ liệu nhóm tác giả thu thập được bao gồm dữ liệu không gian và dữ liệu thuộc tính. Dữ


liệu khơng gian là 148 mảnh bản đồ địa chính (trong đó có 69 mảnh bản đồ tỷ lệ 1/1000, 79 mảnh bản


đồ tỷ lệ 1/2000). Ngồi ra cịn có bản đồ hiện trạng sử dụng đất xã Quan Lạn năm 2010 định dạng
*.dgn tỷ lệ 1/2000. Dữ liệu thuộc tính nhóm tác giả thu thập từ các nguồn là báo cáo kinh tế - xã hội
các xã Minh Châu, Quan Lạn qua các năm; số liệu thống kê du lịch huyện Vân Đồn, tài liệu thu thập
từ điều tra thực địa,… Hình 2 mơ tả quy trình xây dựng CSDL do đề tài đề xuất với sự hỗ trợ của phần


mềm ArcGIS.


Hình 2. Quy trình xây dựng CSDL GIS phục vụ quản lý du lịch sinh thái đảo Quan Lạn
Cấu trúc CSDL bao gồm 3 nhóm chính là nhóm nền địa lý, nhóm cơ sở hạ tầng phục vụ cho du lịch và


nhóm tài nguyên du lịch. Cụ thể các nhóm này bao gồm các lớp đối tượng sau:
Bảng 5. Các lớp đối tượng trong CSDL


ST
T


Tên lớp đối
tượng


Mô tả Định


dạng


Các trường thuộc tính


1 RanhGioi Ranh giới hành chính Polyline Loại ranh giới


2 HienTrang Hiện trạng sử dụng đất Polygon Mục đích sử dụng, năm hiện



trạng, ghi chú


3 GiaoThong Giao thông Polyline Tên, mô tả


4 DiemKTXH Điểm kinh tế, xã hội như ủy
ban, trường học,…


Point Tên, mô tả


5 BenTauThuy Bến tàu thủy Point Tên bên tàu, tọa độ X, tọa độ Y


6 CoSoLuuTru Cơ sở kinh doanh lưu trú Point Tên cơ sở, địa chỉ, số phịng,
mơ tả chất lượng


7 DoanhNghiepD


L


Doanh nghiệp du lịch Point Tên, địa chỉ, hình thức cung
ứng


8 TTGDCongDo


ng


Trung tâm giáo dục cộng đồng Point Tọa độ X, tọa độ Y, ý nghĩa
Mục tiêu nghiên cứu


Thu thập dữ liệu


Chuẩn hóa dữ liệu


Thiết kế cấu trúc CSDL <sub>Dữ liệu thuộc tính</sub>
Dữ liệu khơng gian


</div>
<span class='text_page_counter'>(23)</span><div class='page_container' data-page=23>

<i>và Cơng nghệ, Tập 30, Số 6S (2014) 1-10 </i>


9 BaiTam Bãi tắm Polygon Nhiệt độ, độ đục, pH


10 HeSinhThai Hệ sinh thái Polygon Tên hệ sinh thái, mô tả


11 DiTich Di tích lịch sử như đền, chùa,


Point Tên, địa chỉ, mơ tả, hình ảnh
minh họa


12 LeHoi Điểm lễ hội Point Tên, thời gian diễn ra, mơ tả,


hình ảnh minh họa


13 TuyenDuLich Tuyến du lịch Polyline Tên, chiều dài, giá cả, thời


gian, mô tả


14 GhiChuKhac Ghi chú khác Point Tên ghi chú


Dựa trên cấu trúc dữ liệu đã xây dựng, các lớp đối tượng được tiến hành biên tập và cập nhật thơng tin
thuộc tính trong CSDL.



Nhóm tác giả đã xây dựng được CSDL phục vụ quản lý du lịch sinh thái đảo Quan Lạn với một số các
chức năng cơ bản như hiển thị thông tin, tra cứu thông tin và đo đạc. Đây cũng là những chức năng mà
du khách muốn tìm hiểu khi đến với đảo. Hình 3 thể hiện các thơng tin thuộc tính của di tích lịch sử
đình Quan Lạn - ngơi đình cổ nhất của tỉnh Quảng Ninh. Du khách có thể nhìn thấy hình ảnh trực quan


của ngơi đình này. Tương tự, khách du lịch có thể xem được các thơng tin của các đối tượng khác như
nhà nghỉ, khách sạn, hay các điểm lễ hội,…


Hình 3. Minh họa chức năng hiển thị thơng tin thuộc tính


Một trong những nhu cầu của du khách là muốn tìm kiếm những tuyến du lịch phù hợp với sở thích
của mình để thăm quan và nghỉ ngơi. Hệ thống cũng có thể cung cấp một số cơng cụ tìm kiếm với các
điều kiện như loại hình du lịch, giá cả, hay thời gian. Chỉ cần nhập điều kiện tìm kiếm vào cơng cụ lựa
chọn theo thuộc tính, hệ thống sẽ hiển thị kết quả phù hợp. Hình 4 là ví dụ với điều kiện tìm kiếm là
thời gian của tuyến du lịch là 2 ngày 1 đêm và loại hình du lịch sinh thái. Kết quả hiển thị là tuyến du


lịch màu đỏ. Các thuộc tính chi tiết của tuyến cũng được hiển thị trực quan giúp du khách nắm bắt
được thông tin, bao gồm mô tả tuyến du lịch, giá cả và phương tiện đi lại, cũng như các hình ảnh đặc


</div>
<span class='text_page_counter'>(24)</span><div class='page_container' data-page=24>

Hình 4. Minh họa chức năng tìm kiếm thơng tin tuyến du lịch
4.2. Một số giải pháp phát triển du lịch sinh thái


Hiện nay, các tuyến du lịch trên đảo chưa thực sự đa dạng, còn thiếu các tuyến du lịch cho mục đích
thể thao giải trí. Với mục tiêu mở rộng sức ảnh hưởng của du lịch địa phương, đề tài cũng cho rằng
cần đẩy mạnh liên kết du lịch với một số cụm điểm du lịch nổi bật như: Hà Nội – Vân Đồn – VQG Bái


Tử Long – đảo Quan Lạn; Hà Nội – Cái Rồng – đảo Quan Lạn; Hà Nội – Vịnh Hạ Long – đảo Quan
Lạn; Hà Nội – Hòn Gai – đảo Quan Lạn.


Nhằm khắc phục những tồn tại, vướng mắc trong quá trình hoạt động của DLST tại đảo Quan Lạn nói


riêng hay hệ thống đảo ven bờ tỉnh Quang Ninh nói chung nhóm tác giả cũng đề xuất một số giải pháp


khắc phục như:


<i> Cải thiện cơ sở hạ tầng, vật chất kỹ thuật phù hợp với DLST: cải thiện chất lượng đường bộ đến các</i>
điểm du lịch như đường đến bãi Sơn Hào, bãi Quan Lạn; nâng cao khả năng cung ứng nước ngọt và
điện lưới quốc gia cho đảo. Đảo cần tiếp tục nâng cấp về số lượng cũng như chất lượng của hệ thống
cơ sở ăn uống, mua sắm, lưu trú, giải trí tại các bãi tắm. Bên cạnh đó, đảo cũng cần quan tâm đến chất
lượng thông tin liên lạc, dịch vụ y tế tại các xã Quan Lạn, Minh Châu nhằm phục vụ tốt hơn cho người


dân trên đảo và khách du lịch. Địa phương có thể kêu gọi vốn đầu tư cho xây dựng các bến du thuyền,
bãi đáp trực thăng và khu nghỉ dưỡng cao cấp 5 sao để đón khách quốc tế từ nhiều quốc gia trong
Đông Nam Á. Nhằm đa dạng hóa các sản phẩm du lịch địa phương có thể tổ chức các hoạt động vui


chơi như Bungee, chèo xuồng Caiac, quan sát hệ động thực vật hoang dã trên đảo.


<i>Tăng cường giáo dục môi trường trong du lịch sinh thái: thiết kế và phổ biến các tờ gấp, tờ rơi gìn giữ</i>


mơi trường phù hợp đặt từng trạm kéo dài từ khu du lịch sinh thái Vân Hải thuộc xã Quan Lạn tới các
bãi Chương Nẹp, Nhãng Rìa của xã Minh Châu. Bên cạnh đó, tiếp tục tăng cường các phương tiện
truyền tin, giáo dục môi trường trên tuyến tham quan đi dạo trong rừng Trâm, tham quan bãi rùa đẻ
trứng, khu du lịch sinh thái Vân Hải; xây dựng Trung tâm đón khách cùng giáo dục môi trường tại khu


du lịch sinh thái Vân Hải và các hoạt động giáo dục môi trường cho người dân địa phương hai xã cần
tổ chức thường niên.


<i>Khuyến khích sự tham gia của cộng đồng địa phương vào hoạt động du lịch: du lịch tại đảo Quan Lạn</i>


đã dần lôi kéo người dân địa phương vào các dịch vụ du lịch như chạy xe túc túc, cho thuê xe đạp, cho
thuê xe máy, bán đặc sản địa phương, cung ứng khách sạn, nhà nghỉ, dịch vụ homestay, phục vụ ăn



</div>
<span class='text_page_counter'>(25)</span><div class='page_container' data-page=25>

<i>và Công nghệ, Tập 30, Số 6S (2014) 1-10 </i>


nhập cho cộng đồng địa phương. Nhằm nâng cao khả năng tham gia du lịch của cộng đồng địa phương
có thể tổ chức một số mơ hình du lịch sinh thái cộng đồng như:


<i>Mơ hình kiốt dịch vụ: đặt tại bãi Chương Nẹp, bãi Nhằng Rìa xã Minh Châu. Du khách sẽ được trải</i>


nghiệm quy trình sản xuất mực khô, sá sùng khô, tôm khô… và tại đây du khách có thể mua đặc sản
địa phương về làm q.


<i>Mơ hình ni thủy hải sản: mơ hình được đề xuất sẽ giúp đa dạng hóa các hình thức tham gia của cộng</i>


đồng vào du lịch và cung cấp thực phẩm cho khách. Tại xã Minh Châu tập trung nuôi nhuyễn thể như
tu hài, ốc với quy mô nuôi 150 ha và tiến hành nuôi thả tự nhiên cầu gai, bào ngư, hải sâm với quy mô
khoảng 359 ha. Với xã Quan Lạn mơ hình ni tu hài có thể tổ chức tại đầm Cống Chậu và một số ao,
đầm thuộc thôn Hải Yến, thôn Đông Nam quy mơ đạt 326 ha. Bên cạnh đó, ven rừng ngập mặn cũng
là địa điểm thuận lợi cho nuôi ngán, ốc, bào ngư, cá ghim, sá sùng… Các điểm nuôi thủy hải sản là nơi


trải nghiệm thú vị cho du khách ưa khám phá cuộc sống của người dân miền biển.


<i>Tuyên truyền quảng bá du lịch: tăng cường phát hành các ấn phẩm, sách hướng dẫn du lịch, tờ rơi giới</i>


thiệu về du lịch đảo Quan Lạn rộng rãi đến nhiều đối tượng trong và ngoài nước. Kết hợp với cơng ty
lữ hành các tỉnh thành phố giới thiệu hình ảnh đảo Quan Lạn trên internet, truyền hình… và tổ chức


định kỳ phát phiếu thăm dò để lấy ý kiến của du khách trong một số tuyến du lịch tắm biển tại bãi
Minh Châu (thôn Ninh Hải), khu du lịch Vân Hải và đến thờ Trần Khánh Dư vào mùa lễ hội nhằm
đánh giá những mặt mạnh, yếu, được và chưa được để có hướng tiếp thị cũng như điều chỉnh kịp thời



trong quá trình vận hành du lịch.
5. Kết luận


Đảo Quan Lạn nói riêng, hệ thống đảo ven bờ tỉnh Quảng Ninh nói chung cịn lưu giữ các giá trị du
lịch sinh thái đặc sắc: hệ thống bãi cát biển đẹp như Minh Châu, Sơn Hào, Nhãng Rìa, Chương Nẹp;
hệ sinh thái rừng trâm thuần chủng; các di tích lịch sử, di chỉ bến thuyền cổ, lễ hội đình Quan Lạn,….
Bên cạnh tài nguyên du lịch đa dạng thì khả năng tiếp cận từ đất liền ra đảo bằng tàu và khả năng cung


ứng cơ sở lưu trú đã có những chuyển biến tích cực là nền tảng thuận lợi cho phát triển du lịch sinh
thái.


Lượng khách du lịch đến đảo Quan Lạn tắm biển, nghỉ dưỡng vào mùa hè ngày càng tăng thể hiện qua
số lượt khách đến xã Minh Châu năm 2013 tăng 4,6 lần so với năm 2010. Thực trạng du lịch tại đảo đã
bước đầu thỏa mãn các nguyên tắc phát triển của DLST như bảo tồn giá trị du lịch, nâng cao ý thức
bảo vệ môi trường và bước đầu mang lại lợi ích tài chính cho người dân địa phương. Tuy nhiên, khả
năng cung ứng dịch vụ điện lưới, nước sinh hoạt, vui chơi giải trí cịn đơn điệu. Do vậy, đề tài đã đề
xuất một số giải pháp nhằm tiến tới xây dựng mơ hình du lịch sinh thái bền vững tại đảo Quan Lạn nói
riêng hay đảo ven bờ nói chung. Ngồi ra, địa phương cần tích cực cơng tác quảng bá hình ảnh du lịch
bằng việc đầu tư xây dựng cơ sở dữ liệu GIS và cung cấp thông tin trên mạng Internet rộng rãi hơn.


Tài liệu tham khảo


[1]. P.P. Wong (1991), Coastal Toursim in Southeart Asia, United States Coastal Resources
Management Project, 40 pages.


[2]. Phạm Trung Lương (2002), Du lịch sinh thái, những vấn đề lý luận và thực tiễn phát triển ở Việt
Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội, 45 tr.


[3]. Lê Đức An (1999), “Nghiên cứu hệ thống đảo ven bờ phục vụ quản lý tổng hợp vùng biển Việt
Nam”, Tuyển tập báo cáo khoa học tập 2, Hội nghị khoa học cơng nghệ tồn quốc lần thứ IV, Hà Nội,



tr. 725-729.


[4]. UBND tỉnh Quảng Ninh (2009), Báo cáo thuyết minh tổng hợp quy hoạch chung xây dựng khu
kinh tế Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh, Quảng Ninh, 252 tr.


[5]. Vũ Văn Thành (2006), “Tiềm năng phong phú của du lịch Vân Đồn”, Kỷ yếu hội thảo khoa học
quốc tế “Nâng cao nhận thức và nănh lực phát triển du lịch bền vững trong thời đại tồn cầu hóa”, Hạ


</div>
<span class='text_page_counter'>(26)</span><div class='page_container' data-page=26>

[6]. UBND xã Minh Châu (2013), Báo cáo kinh tế xã hội xã Minh Châu, Quảng Ninh, 17 tr.
[7]. UBND xã Quan Lạn (2013), Báo cáo kinh tế xã hội xã Quan Lạn, Quảng Ninh, 14 tr.


Abstract.


Potential resources and resolution to develop eco-tourism in
Quan Lan island, Van Don district, Quang Ninh province


Pham Quang Tuan, Duong Thi Thuy, Le Phuong Thuy
Faculty of Geography, VNU University of Science


Quan Lan Island which is located in the coastal islands system of Quang Ninh has an important role in
terms of national security and the development of marine economy. In especially, the general planning
of socio-economic in Van Don by 2020, with a vision to 2030, the island has been identified as one of
the four typical clusters of eco-tourism system in this district. However, the situation of eco-tourism
exploitation in the island is quite fragmented and spontaneous. In this paper, we would like to analyze


the natural potential and humanity potential specifically based on the comprehensive analysis view,
environment monitoring and field survey. Then we would like to propose the resolutions in order to
support the management and development of eco-tourism in Quan Lan island such as establishment of



GIS database model, improvement of infrastructure, strengthen environmental education as well as
encourage the participation of local communities in tourism activities.


<i>Key words: coastal islands system, eco-tourism, Quan Lan Island, Van Don district, Quang Ninh</i>


</div>

<!--links-->

×