Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

Tương quan sinh thái - nhân văn và phát triển bền vững (Qua nghiên cứu ở Điện Biên những năm vừa qua

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (11.65 MB, 21 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

TƯƠNG QUAN SINH THÁI -



NHÂN VĂN VÀ PHÁT TRIEN

b e n

v ữ n g



(Qua n g h iê n cứu

<i>ở</i>

Đ iệ n B iê n những năm vừa qua)



<i>Tạ Long - Ngơ Thị Chính *</i>


Báo cáo trình bày kết quả nghiên cứu trường hợp những dữ liệu về tương
quan sinh thái - nhân văn và biến đổi môi trường trong thời gian sáu thập niên
vừa qua tại xã Mường Phăng, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên.


Mường Phăng nằm ở phía đơng bắc của huyện Điện Biên, cách thành phố
Điện Biên khoảng 18km theo đường ô tô mới được mở. Nơi đây có di tích lịch
sử của Bộ chỉ huy chiến dịch Điện Biên Phủ. Tại xã này gồm đủ các hệ nhân
văn đại diện cho huyện Điện Biên như: Các hệ canh tác lúa nước và nương rẫy,
chương trình định canh định cư, lâm nghiệp quốc doanh và lâm nghiệp cộng
đồng, kinh tế tập thể và cá thể thời kỳ hợp tác xã (HTX), hồ chứa nước thuỷ
nông cùng các chương trình phát triển của nhà nước và nước ngoài và kinh tế
hộ gia đình. Tất cả các hệ này đã tác động tới biến động dân số và ảnh hưởng
trực tiếp tới môi trường của địa phương.


<b>1. Sự gia tăng dân sô</b>


Số liệu về dân số toàn xã và theo từng tộc người dưới đây sẽ cho thấy
bức tranh d ân sổ' địa phương từ i960 đến nay. Để thây rõ tương quan dân
số nông nghiệp với hệ sinh thái, ở đây chúng tôi chỉ giới thiệu dân sô” nông
<i>nghiệp, không đưa dân số lâm trường hoạt động tại Mường Phăng vào bảng </i>
số liệu ở dưới.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

TUDNG QUAN SINH THÁI - NHÃN VĂN VÀ PHÁT TRỄN BÊN VỮNG



<b>B ả n g 1: D â n s ô '( n g ư ờ i ) v à tỉ t r ọ n g d â n sô' (% ) n ô n g n g h i ệ p th e o tộ c </b>
<b>n g ư ờ i </b><i><b>ở</b></i><b> M ư ờ n g P h ă n g từ i</b><sub>960</sub><b> đ ế n n a y</b>


Tộc người 1960 1965 1974 1979 1989 1994 2001


Toàn xã


990 1943 2264 3307 5603 6540 7279


loo 196 269 334 566 666 735


Thái 751 1139 1655 2185 3894 4662 5143


75,9 58,6 62,1 66,1 71,1 71,3 70,7


Khơ mú 131 166 575 586 960 1132 1261


13,2 8,5 21,6 17,7 17,1 17,3 17,3


H'mông 108 160 319 403 558 671 842


10,9 8,2 12,0 12,2 10,0 10,3 11,6


Kinh - 478 115 133 101 75 33


<i>-</i> 24,6 4,3 4,0 1/8 1,2 0,45


<i><b>Xgiỉồn.</b></i><b> Phòng Thống kê huyện Điện Biền.</b>



s ố liệu về dân số nơng nghiệp nói trên cho thấy rỏ: Cư dân xã Mường Phăng
tăng nhanh từ 1965-2001. Sự gia tăng này cho thấy họ có thể sống bằng nông
nghiệp trong điều kiện đất ngày càng chật, dân số ngày càng đông ở địa phương.
Sự gia tăng mạnh nhất từ 1979-1989, rõ nhất ở người Thái. Dân số nông nghiệp
Khơ mú và H ’mông tăng dần, trong khi dân số nông nghiệp Kinh lại tụt giảm
ghê gớm trong thời gian tái định cư của họ tại Mường Phăng.


Xét theo tỉ trọng dân số, người Thái là cư dân đa số’ ở địa phương, sau
họ là người Khư mú, đứng thứ ba là người H’mc3ng. Người Kinh trong buổi
đáu tái định cư tại Mường Phăng (bắt đầu từ 1964) có tỉ trọng dân số lớn
<i>thứ nhì ở địa phương, sau người Thái, nhưng hiện nay lại chiếm tỉ trọng quá </i>
nhỏ bé trong dân số nông nghiệp ở địa phương (0,7%).


Như vây sức ép nhân khẩu nông nghiệp của người Thái, Khơ mú và
H’mông lên hệ sinh thái Mường Phăng ngày càng lớn, nhưng sức ép dân số
nông nghiệp của người Kinh lên môi trường ngày càng giảm. Sự bùng nổ dân
số trong 4 thập niên vừa qua ở một xã miền núi như Mường Phăng (775% dân
số toàn xã, 748% dân số Thái, 937% dân số Khơ mú và 735% dân số H’mông)
đã gây áp lực nhân khẩu quá lớn lên hệ sinh thái địa phương.


Sự gia tăng diện tích các loại cây lương thực sẽ cho thấy sức ép dân số nói
trên lên môi trường ở Mường Phăng.


<b>2. Sự mở rộng diện tích cá c loại cây lương thực</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

VIỆT NAM HỌC - KỶ YỀU HỘI THẢO QUÔC TỀ LẦN THỨ HAI


suối và chân đồi. Hệ canh tác trên đất dốc gồm: lúa nương, ngô nương, sắn và
dong giềng.



<b>Bảng 2: sự phát triển diện tích các loại cây lương thực đất bằng và đất </b>


<i><b>dôc ở Mường Phăng từ </b></i>1965<b> tới năm 2000</b>


Cây trồng 1965 1970 1974 1979 1984 1989 1994 1997 2000


Lúa nước 100 92 104 113 124 149 181 199 230


Lúa nương 100 210 145 600 2050 8750 8950 6020 5520


Ngô 100 88 125 138 240 333 352 540 521


Sắn 100 500 900 1857 3143 1357 1129 857 929


Dong giềng 100 50 200 1000 2000 1000 400 350


<i>-Nguồn: Phòng Thống kê Điện Biên</i>


Qua những số liệu trên có thể thấy:


Lúa nước là một loại canh tác b ền vững, nhưng khả năng mở rộng diện
tích của nó lại rất hạn chế: Sự mở rộng này chủ yếu nhờ tăng vụ chiêm -
xuân và khai phá các bãi lầy vơn chiếm diện tích khá lớn dưới chân các
<i>khe núi, thung lũng. Nhưng cho tới nay số bãi lầy chỉ còn 100 ha (N guồn: </i>


<i>P hịng Địa chính Đ iện B iên). Tốc độ mở rộng diện tích lúa nước chậm nhất </i>


so với các cây lương thực khác: Tốc độ mở rộng diện tích sắn tăng vọt ngay
từ năm 1970. Tôc độ mở rộng diện tích lúa nương tới năm 1974 không hơn
lúa nước là bao, nhưng đến năm 1979 bắt đầu vọt lên tới 600%, từ năm 1984


tăng với gia tốc lớn và tới năm 1989 đạt tới mức siêu tốc so với tốc độ phát
triển diện tích các cây lương thực ở Mường Phăng. Diện tích ngơ tăng chậm
hơn sấn và lúa nương, nhưng vẫn nhanh hơn gia tốc của lúa nước (540% so


199% vào năm 1997). Tốc độ phát triển diện tích ngơ và sán không đáng
ngại như của lúa nương.


Sự mở rộng diện tích cây lương thực trên đất dốc nói trên cho thấy sự bất
cập của lúa nước trong bảo đảm đời sống của dân địa phương.


Sự khác biệt trong tốc độ mở rộng diện tích của từng hệ canh tác cây lương
thực nói trên không chỉ do nhu cầu, mà còn do khả năng và điểu kiện để
khai phá và canh tác ở mỗi hệ. Khả năng mở rộng diện tích của con người ở
mỗi hệ cần phải được xác định không chỉ qua tốc độ phát triển, mà qua cả
tỉ trọng diện tích mỗi loại cây trong cơ cấu diện tích các cây lương thực được
nghiên cứu.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

TUŨNG QUAN SINH THẢI - NHÀN VĂN VÀ PHÁT TRỂN BÊN VŨNG


<i><b>Bảng 3: Sự thay đổi cơ câu diện tích cây lương thực ở Mường Phăng từ</b></i>


1965<b> đen 2000</b>


Cây trồng 1965 1970 1974 1979 1984 1989 1994 1997 2000


Lúa nước 83,9 76,2 74,9 59,3 43,2 31,0 35,2 42,9 48,0


Lúa nương 2,43 5,06 3,03 9,19 20,8 53,0 50,6 37,6 33,5


Ngô 11,7 10,1 12,5 10,1 11,7 5,75 4,46 3,75 3,95



Sắn <sub>1,71</sub> 8,44 13,2 19,9 22,3 9,69 9,54 15,5 14,6


Dong riềng 0,24 0,12 0,42 1,53 2,03 0,61 0,23 0,22


-Tổng số 100 100 100 100 100 100 100 100 100


<i>Ngĩtồìi: - Phịng Thống kê Điện Biên.</i>
- Nghiên cứu thực địa, 2001.


Những số liệu trên cho thấy:


- Diện tích lúa nước chiếm tỉ trọng lớn nhất trong đa số các thời điểm, trừ
thời điểm 1989 và 1994. Tỉ trọng này chiếm phần lớn diện tích cây lương thực
vào thập niên i960 và 1970, sau đó bị diện tích cây lương thực trên nương rẫy
lấn át, đặc biệt là lúa nương và sắn. Nhưng từ năm 1994, tỉ trọng diện tích lúa
nước tăng dần lên, mặc dù tốc độ mở rộng diện tích lúa nương và ngô vẫn
tiếp tục tăng (Bảng 2). Sự thay đổi cơ cấu này có thể do tác động của chính
sách giao đất nông nghiệp theo Luật Đất đai năm 1993 và chính sách giao đất
lâm nghiệp theo chương trình 327 cũng vào năm 1993 và quy hoạch khu vực
nương rẫy từ năm 1997 của địa phương.


- Tỉ trọng diện tích lúa nương tăng rõ rệt từ năm 1984, tăng vọt ở thời điểm
1989, giảm dần từ 1994 trở về sau, mặc dù diện tích tuyệt đối vẫn tăng vào năm


1994 (Bảng 2). Điều này cho thấy vai trò lúa nương trong cơ cấu cây lương thực
ở địa phương bắt đầu giảm từ 1994 trở đi. chính do vai trò này đã khiến diện
tích tuyệt đối của lúa nương từ năm 1997 cũng giảm với tốc độ khá nhanh: từ
8950% năm 1994 xuống 6020% vào năm 1997 (Bảng 2).



Đây là một biến chuyển tốt và chắc chắn dựa trên cơ sở của giao đất lâm
nghiệp và giới hạn khu vực canh tác nương rãy. Nhưng sự biến chuyển này còn
chưa đồng đều: Ở người Khơ mú và H’mơng tỉ trọng diện tích lúa nương còn lớn.


- Tỉ trọng diện tích ngơ bắt đầu nhỏ hơn tỉ trọng diện tích sắn từ năm 1974


trở về sau, nhỏ hơn tỉ trọng diện tích lúa nương từ năm 1984 trở đi. Điều này
cho thấy ngược về quá khứ, cây ngô có vai trị lớn hơn cây lúa nương và cây
sắn. Vai trò này đặc biệt rõ ở người Thái, vốn ban đầu ít làm nương. Càng về
sau vai trò của cây ngô càng giảm, nhường chỗ cho cây lúa nương và cây sắn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

VIỆT NAM HỌC - KỶ YỀU HỘI THẢO QUÔC TỀ LẪN THỨ HAI


- Cây sắn vốn mới được nhập vào Mường Phăng từ đầu những năm I960,
nhưng đã phát triển khá nhanh so với các cây lương thực khác cả về diện tích
<i>tuyệt đối và tỉ trọng diện tích. Điều này cho thấy nó có vai trò quan trọng trong </i>


<i>đời sống của địa phương sau cây lúa nước và lúa nương.</i>


- Cây dong giềng luôn chiếm tỉ trọng nhỏ và khá ổn định trong cơ cấu
diện tích cây lương thực ở Mường Phăng (khoảng 0,68%), trong khi diện tích
tuyệt đơi của nó cũng tăng khá nhanh (Bảng 2). Sự ổn định của tỉ trọng dong
giềng cho thây vai trò ổn định của cây này trong phát triển cây lương thực ở
địa phương.


Tốc độ gia tăng và cơ cấu diện tích các loại cây lương thực ở Mường Phăng
nói trên cho thấy cây lúa nước có vai trò quan trọng trong đời sống của người
dân ở đây, nhưng khả năng phát triển của nó bị hạn chế nhiều. Sự hạn chế này
sẽ được giới thiệu ở phần sau.



<b>3. C ác hệ canh tác cây lương thực và môi trường Mường Phăng</b>


<i><b>a. Hệ canh tác lúa nước và khai thác tài nguyên, biến đổi môi trường</b></i>



Các giống cây trồng được sử dụng theo từng hệ sinh thái nông nghiệp
(HSTNN) nhất định (Lê Trọng Cúc, Gillogly, K. & Rambo, A.T., 1990: 20 - 21) và
theo nhu cầu sử dụng cũng như khả năng tạo điều kiện sinh thái, đáp ứng những
nhu cầu sinh lý của cây trồng.


Hệ sinh thái nông nghiệp lúa nước là ruộng nước và hệ canh tác lúa nước.
Ruộng nước bao gồm thổ nhưỡng (thành phần sinh hóa và cấu tạo vật lý của
đất) và nguồn nước được sử dụng cho đất và cho cây lúa (thành phẩn hóa lý,
sinh vật và lượng nước). Hệ canh tác lúa nước bao gồm nhiều quần thể của
những giống lúa khác nhau được sử dụng theo từng loại thổ nhường và nguồn
nước khác nhau, theo thời vụ nhất định và theo ch ế độ làm đất, điều tiết nước
từng khâu canh tác cũng như theo từng giai đoạn sinh trưởng của cây lúa như
gieo hạt, làm mạ, cấy lúa, lúa uốn câu và thu hoạch.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

TUŨMG QUAN SINH THÁI - NHÂN VÁN VÀ PHÁT TRỂN BẾN VỮNG


suất cao hơn. Cạnh đó, việc cấy lúa sớm hay chính vụ cũng cịn do chất lượng
gạo: lúa sớm thường gạo ngon hơn.


Khả năng đáp ứng những nhu cầu sinh lý của cây lúa nước như: có bảo đảm
nước cho nó hay khơng? Có tưới nước, rút nước đúng thời điểm khơng? Có xử lý
được sự chua mặn trong đất và nước để bảo đảm cho cây lúa sinh trưởng khơng?
Có chống được giá rét và bảo đảm ánh sáng cho cây lúa khơng? Có chống được
sâu bệnh cho cây lúa khơng? Có bảo đảm thâm canh để cung cấp đủ thức ăn
cho cây lúa không? Chế độ thâm canh đủ, thừa, hay thiếu so với nhu cầu của
cây lúa?



Tất cả những nhân tố đó quy định sự khác nhau trong sử dụng các hệ canh
<i>tác ( dân gian thường gọi là giống lúa) để khai thác môi trường của người clân </i>
thuộc từng địa phương, từng tộc người cũng như từng làng bản, từng hộ khác
nhau. Dưới đây xin giới thiệu một vài khía cạnh trong việc sử dụng các hệ canh
tác lúa nước.


<i>- Khả năng p h á t triển thĩiỷ lợi đ ể mở rộng d iện tích canh tác và tăng vụ:</i>
Hệ thông thuỷ lợi truyền thống của người Thái là mương, phai, lái và lìn.
Hệ thơng này đã được người Khơ mú, Hmông và Kinh sử dụng. Hệ thống
mương dẫn nước từ khe về ruộng được xây dựng ở những khu ruộng trong
các khe núi và các bãi lầy. Ở các bãi lầy mương không chỉ dùng đ ể tưới mà
cả đ ể tiêu nước.


Khi lựa chọn địa điểm làm ruộng người ta thường phải tính tới việc làm
thuỷ lợi (đắp phai, đào mương và đắp lại phai sau mỗi lần bị mưa lũ làm hỏng
hoặc cuốn trôi) sao cho phù hợp với sức lao động của gia đình hoặc của số
gia đình cần làm ruộng. Tuy vậy, trong điều kiện sản xuất nhỏ, lao động thủ
cổng, cơ bấp, người nông dân không thể cải tạo được môi trường thiên nhiên
đ ể tạo nên một hệ thống thuỷ lợi có thể chủ động nguồn nước tưới cho đồng
ruộng, mà chỉ có thể lợi dụng nó đ ể phục vụ cho mình và chịu mang dấu ấn
của tự nhiên trên hệ thống thuỷ lợi của mình (Mai Văn Hai & Bùi Xuân Đính,


1997: 190).


Dấu ấn của tự nhiên trong hệ thống mương phai chính chính ở chỗ người ta
phải chọn nơi cao nhất làm phai dẫn nước vào ruộng: so với khu ruộng cần được
<i>tưới: thường ở nhiều khu ruộng có những thửa cao hơn so với mặt nước được </i>
phai dâng lên, do đó, nước khơng thể dãn lên những thửa aiộng này được. Hoặc
có những địa điểm có đất canh tác, nhưng khơng có nguồn nước để tưới, người


ta không thể biến thành ruộng được, đành làm nương bằng hoặc bãi chăn thả
hoặc bỏ hoang, nếu cỏ khổng mọc được. Đây chính là hạn ch ế của hệ thống
thuỷ lợi mương phai.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

VIỆT NAM HỌC - KỶ YỀU HỘI THẢO QUÔC TỀ LẮN THỨ HAI


<b>Bảng 4: Sô" phai đập (cái) , mương (m) và diện tích tưới (ha) tương </b>
<i><b>ứng của mỗi loại trong toàn xã và theo từng tộc người ở Mường Phăng </b></i>
<b>năm 2001</b>


Chủ sử Tổng số Đập xây* Phai giọ thép * Phai gô <b></b>


X-dụng


ha m cái ha m cái ha m cái ha m


Toàn xã 274 8435 5 78 3950 14 108 2360 19 88 2125


Thái 195 3855 2 45 450 14 108 2360 11 42 1045


Khơ mú 39 3930 3 33 3500 <b>-</b> <b>-</b> <b>-</b> 4 6 430


H'mông 38 650 <b>-</b> <b>-</b> <b>-</b> <b>-</b> <b>-</b> <b>-</b> 4 38 650


Kinh 3 3 <b>-</b> <b>-</b> <b>-</b> <b>-</b> <b>-</b> <b>-</b> 3 3 600


<i>Nguồn: - ƯBND xã Mường Phăng </i>
- Nghiên cứu thực địa, 2001


* Đập được xây bàng gạch, trụ bàng bê tông cốt thép. Phai giọ thép là phai dân gian được kè


<i>bằng đá đựng trong các giọ thép to để tạo thành khối liên kết chác chán hơn so với phai đá không </i>
đựng trong giọ thép. Phai gổ chỉ được kè bằng cọc tre hay tlìùn cây và chán bằng các tấm gổ to, dày.


Những số liệu trong Bảng 4 cho thấy: Hệ thống thuỷ lợi của người Khơ núi
và người Thái được chú trọng xây dựng kiên cố, trong khi hệ thống của người
H ’mông và người Kinh vẫn là các phai gỗ, loại đơn giản, cổ sơ và kém chắc chán
nhất, sức tưới thấp nhất so với đập và phai giọ thép, lại luôn bị nước lũ phá
hỏng, cuốn trôi.


Nguồn đầu tư cho phai giọ thép từ ngân sách nhà nước thơng qua Phịng
Nông nghiệp và phát triển nông thổn huyện Điện Biên đưa về xã và thông
qua xã đưa về các bản. Nguồn đầu tư xây dựng đập xây từ nguồn vốn ODA
của Chính phủ Nhật Bản tài trợ từ đầu những năm 1990 đưực đưa về xã thông
qua UBND huyện, từ đó giao cho lâm trường Điện Biên trực tiếp thực thi. Hiệu
quả của sự đầu tư xây dựng đập xây và phai giọ thép có thể thấy khá cao
qua chỉ số diện tích tưới của nó so với diện tích tưới của phai gỗ. Tuy vậy,
s'ự thiếu cân đơì đầu tư nêu trên cũng cho thây những thiếu sót của sự đầu
tư ở địa phương.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

TUONG QUAN SINH THÁI - NHÂN VĂN VÀ PHÁT TRIỂN BÊN VỮNG


đưa vào ruộng, không phải đập ngăn để giữ nước làm hồ chứa. Vì vậy, mức nước
của nó khơng đủ khả năng dâng cao để chảy tới tất cả các thửa ruộng cần tưới.
Sự hoàn thiện hệ thống phai dưới dạng đập xây hoặc giọ thép chỉ làm kiên cố
<i>hóa phai, chưa thay đổi được tính năng của chúng. Chính vì vậy nên người </i>
Hmơng đang đề nghị tổ chức AV của Hà Lan, hiện đang triển khai chương trình
xóa đói giảm nghèo ở một số xã của huyện Điện Biên, trong đó có Mường Phăng,
để tổ chức này xây dựng cho họ một hồ đập chứa nước có thể tưới diện tích lớn
cả trong mùa khô.



Số liệu trong Bảng 5 sẽ cho thấy hạn chế của hệ thống thuỷ ỉợi vừa được giới
thiệu ở trên.


<i><b>Bảng 5: Tỉ lệ diện tích được tưới và được cây 2 vụ lúa ở Mường Phăng </b></i>
<b>năm 2001</b>


Loại ruộng Đ.vị Toàn xã Thái Khơ mú H'mông Kinh


Tổng diện tích Ha 365 224 46 90 5


Ruộng được tưới % 75 87 85 42 60


Ruộng 2 vụ % 62 79 68 20 0,00


<i>Ngttồn: - UBND xà Mường Phăng.</i>
- Nghiên cứu thực địa, 2001.


<i>- Sử dụnq các giống lúa đ ổ khai thác mơi tntờìig mộng nước.</i>


Như phần thuỷ lợi đã nêu diện tích chủ động nước tưới của Mường Phăng
còn hạn ch ế (Bảng 4 và 5). Lưựng nước phân phối không đồng đều giữa các
chân ruộng: chỗ thấp nước luôn đủ và nhiều màu, chỗ cao nước ít hoặc thất
thường, lại ít màu (xem thêm c ầ m Trọng, 1978: 97 - 98). Vì vậy người ta phải
sử dụng hệ canh tác sao cho phù hợp với điểu kiện thuỷ lợi và đất đai ở từng
chân ruộng. Theo bà con địa phương, cả ngườiThái, người Khơ rẳ, người
H’inơng và người Kinh, năng suất lúa chủ yếu phụ thuộc vào đồng mộng (đất
và nước): ruộng nào đủ nước, nhiều mùn thì lúa có năng suất cao; aiộng nào
cao, thiếu nước, đất rắn, lúa có năng suất thấp. Điều kiện này đã chi phối như
thế nào tới cây lúa nếp và cây lúa tẻ? Điều này cần được chú ý khi nghiên cứu
những cư dân hiện đang sử dụng nhiều lúa nếp hoặc đang chuyển dần từ lúa


nếp sang lúa tẻ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

VIỆT NAM HỌC - KỶ YỀU HỘI THẢO QUÔC TỀ LÁN THỨ HAI


<b>Bảng 6: Các giốíng lúa được sử d ụng th eo đ iều k iệ n th u ỷ lợi củ a các tộc </b>


<b>người </b>

<i><b>ở</b></i>

<b> Mường P hăng h iệ n nay</b>


Tộc
người


Ruộng cao ít nước Ruộng cao trung bình,
đủ nước


Ruộng th ấp , n h iều nước
và m ộ n g bãi lầy


Giống gốc Giống DN* Giống gốc Giống DN G iống gốc G iống DN


Thái Khẩu lón,
khẩu xẻ,
khẩu lanh


Khẩu Tủa chùa,
tẻ Cao Bằng,
bao thai, lúa
chịu hạn


Khẩu chiến,
khẩu lanh,


khẩu tan


IR64, Q5,
khang dân


Khẩu tan T ạp giao,
k h an g d â n ,
lúa nguyên
chủng
Khơ




Như của người Thái


H ’m ơng Plẹ m ơng Khẩu lón Plẹ mông,
Plẹ tráng


Khẩu tan,
khẩu chiến,
giống mới
như ở người
Thái


Plẹ ch ẹ Khẩu tan,
giống mới n h ư
giống ở người
Thái


Kinh Bao thai Chân trâu



lùn, khẩu
chiến


K hang dân,
tạp giao


<i><b>Nguồn: </b></i> <i><b>- N ghiên cứu thực địa, 2001.</b></i>


- P h ịng N ơng n g h iệ p và P hát triển n ô n g th ô n Đ iện Biên.
* DN= du n h ập .


Sự sử dụng giống theo điều kiện địa hình và thuỷ lợi ở trên cho thấy người
Mường Phăng đã ra sức tìm những giải pháp thuỷ lợi và hệ canh tác để khai thác
tối đa điều kiện sinh thái lúa nước của địa phương. Nhưng sự nỗ lực bằng hệ
canh tác cũ, cổ truyền đã tỏ ra bâ't cập khi dân số đã quá tải và người ta phải
du nhập các giống mới năng suất cao, đòi hỏi thâm canh cao để có thể bảo đảm
cuộc sống của mình.


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

TUDNG QUAN SINH THÁI - NHÀN VĂN VÀ PHÁT TRỂN BẾN VŨNG


<b>B ảng 7: Cơ cấu d iện tích g iơ n g lúa cũ và m ới củ a các h ộ thuộc các tộc </b>


<b>ngư ời </b>

<i><b>ở</b></i>

<b> Mường P hăng n ăm 2001</b>


Đơn vị: %


Thời vụ Giống lúa Thái Khơ mú Hmông Kinh


Chiêm xuân



Cũ - - -


-Mới 100 100 100


-Mùa


Cũ 48 48 70 6


Mới 52 52 30 94


<i><b>Nguồn: N ghiên cứu thự c địa, 2001.</b></i>


Như vậy trong vụ chiêm xuân tồn bộ diện tích canh tác được sử dụng giống
lúa mới lai tạo (do Phòng Nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện và tổ chức
A.v. của Hà Lan đưa vào). Hiện trạng này do các tộc người chưa hề làm vụ chiêm
xuân, nên họ khơng có giống lúa cho vụ này. Nhưng trong vụ mùa giống mới
còn ít dược sử dụng hơn so với vụ chiêm xuân. Xin lưu ý vụ chiêm xuân được
phát triển sớm nhất ở người Thái và người Kinh qua con đường HTX. Tuy vậy,
do tập quán ăn cơm nếp và quen với khẩu vị các loại gạo truyền thống, thêm
nữa do việc cấy vụ chiêm xuân mới phổ biến rộng rãi từ năm 2000, khi tổ chức
A.v. của Hà Lan bắt đầu chương trình xóa đói giảm nghèo của mình bàng hỗ trợ
giống và phân bón cho một số bản làm vụ chiêm- xuân, nên bà con chưa thể
chuyển ngay sang trồng giống lúa mới hoàn toàn được.


Một nguyên nhân rất quan trọng nữa là giá giống lúa mới khá cao. Chẳng
hạn, giá lúa tạp giao là l6000đ/kg, lúa lai - 15000đ/kg, lúa bao thai nguyên chủng
- 7000đ/kg. Trong tính tốn quen thuộc của người dân, giá lúa và tiền phân hóa
học quá nặng so với những giống cũ họ tự tạo hoặc trao đổi được hoặc quá cao
so với cấy chay (tức khơng bón phân). Vì vậy, chỉ khi được cấp hoặc trợ giá


giống và phân hóa học họ mới hăng hái dùng giống mới.


Người Kinh vốn đã quen sử dụng giống mới trong nhiều thập niên, nên tỉ lệ
diện tích giống mới của họ cao là điều dễ hiểu. Ở người Hmơng tỉ trọng diện
tích giống mới còn thấp, chắc chán do điều kiện thuỷ lợi của họ còn hạn chế
Bảng 4 và 5), chưa đủ khả năng đáp ứng những nhu cầu cao của giống lúa mới;
củng có thể cịn do diện tích ruộng bình quân đầu người của họ còn cao.


Từ thực trạng sử dụng giống mới nói trên có thể thấy giải pháp phát triển
giống lúa nước mớí chưa thành hiện thực đủ để giảm sức ép nhân khẩu lên đất
nông nghiệp ở Mường Phăng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

VIỆT NAM HỌC - KỶ YỀU HỘI THẢŨ QUÔC TỀ LẪN THỨ HAI


Trong kĩ thuật trồng lúa nước truyền thống của các dân tộc ở Việt Nam, người
ta chỉ làm một vụ (vụ mùa) và chỉ cấy chay (khơng bón phân). Lối canh tác này
cũng thấy ở người Thái (Cầm Trọng, 1978: 103 - 104), người Khơ mú (Khổng
Diễn (chủ biên), 1999: 129), và người H’mông (Phạm Quang Hoan và các cộng
sự, 1995 : 209). Trong kĩ thuật canh tác của mình người Kinh đã biết đúc kết tầm
<i>quan trọng của phân bón trong câu thành ngữ “ nhất nước, nhì phân, tam cần, </i>


<i>tứ g iơ n g ”. Vì vậy, khi tái định cư tại Điện Biên, họ,- những cán bộ kĩ thuật nông </i>


nghiệp của huyện và những nông dân-, đã sử dụng kĩ thuật này để phát triển
nông nghiệp trên quê hương mới và đã phổ biến sang các dân tộc địa phương
(Tạ Long và Ngơ Thị Chính, 2000: 64-108). Đồng thời họ cũng học một số kĩ
thuật thâm canh của các dân tộc bản địa trong sử dụng nước để rửa chua, diệt
hạt cỏ, cày ngả rạ để tăng mùn và đốt tro để tăng kali cho đất (Tạ Long và Ngơ
Thị Chính, 2000: 95 & 104).



Ở Mường Phăng kĩ thuật thâm canh bằng bón phân chuồng, phân xanh và
p hân hóa học cũng như thay đổi giống lúa đã được thực hiện ngay từ khi thành
lập HTX nông nghiệp cấp thôn bản ( i960) tới HTX cấp cao quy mô liên thôn
bản của người Thái và người Kinh. Kĩ thuật này cũng được phổ biến ở hai tộc
người làm ăn cá thể là Khơ mú và H’mông. Nhưng hiệu quả của nỗ lực thâm
canh này ra sao trong mấy thập niên qua?


Điều này có thể thấy được qua phân tích các yếu tố chi phối thâm canh ở
địa phương: Sự phát triển của chăn nuôi để cung cấp nguồn phân chuồng cho
cây lúa cũng như sự phát triển giao thông nội đồng để có thể dễ dàng vận
chuyển phân bón ra đồng ruộng.


Khả năng đáp ứng nguồn phân chuồng cho sự phát triển bền vững của cây
lúa trên ruộng có thể thấy qua số liệu so sánh số trâu bò và lợn bình quân một
gia đình của các tộc người ở Mường Phăng và của người Kinh ở xã Noong Luống
thuộc lòng chảo Điện Biên, cư dân có truyền thống thâm canh tăng vụ trong
nhiều năm của huyện Điện Biên.


<b>Bảng 8: SỐ' trâu bị và lợn bìn h quân m ột hộ của các tộc người ở Mường </b>


<i><b>P hăng và của người K inh ở xã N oong Luốhg (lò n g chảo Đ iện Biên)</b></i>


Gia súc Đơn vị


Mường Phăng Noong Luông


Thái Khơ mú H'mơng Kinh Kinh


Trâu bị Con/hộ 4 1,1 2,1 0,14 1,4



Lợn k g /h ộ 125 49 77 100 404


<i><b>Ngĩỉồìỉ: N ghiên cứu thực địa, 2001.</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

TƯONG QUAN SINH THÁI - NHÂN VĂN VÀ PHÁT TRIỂN BÊN VŨNG


Phăng thường được chăn thả hoặc thả dông trên núi suốt vụ mùa (từ tháng 5 tới
tháng 10), vì vậy nguồn phân này không nhiều bằng phân lợn, con vật chủ yếu
được nuôi nhốt trong chuồng hoặc quanh nhà. Ở Noong Luống phân lợn là nguồn
phân chuồng chính được bón cho ruộng. Ở xã Thanh Luông, nơi năng suất lúa
chiêm xuân cao hơn cả lúa mùa, phân lợn cũng là nguồn phân chuồng chính, vì
chỉ 39% số hộ người Kinh được điều tra nuôi trâu bị, nhưng 100% hộ ni lợn
(Tạ Long và Ngô Thị Chính, 2000: 110).


Sự so sánh trên cho thấy hạn chế của nguồn phân chuồng ở Mường Phăng.
Sự hạn chế này sẽ ảnh hưởng tới năng suất lúa nước của địa phương. Sự thiếu
hụt nguồn phân chuồng này lớn nhất ở người Khơ mú và H’mơng, thậm chí ngay
cả ở người Kinh, nó sẽ được khắc phục khi người dân phát triển đàn lợn và làm
chuồng trâu bò để lấy phân của chúng.


Nhưng điều khó khăn nhất đối với việc dùng phân chuồng bón cho lúa ở
Mường Phăng là giao thông nội đồng q khó khăn, chỉ thích hợp với việc đi
bộ, không thuận lợi cho cả việc gánh phân, chưa nói tới việc chở phân bằng xe
trâu hay xe đạp thồ, xe máy. Khó khăn này lớn nhất ở đồng ruộng của người
Kinh, vì địa hình đồng ruộng của họ quá phức tạp. Chính vì vậy nên ở đây người
ta khơng sử dụng xe bị và xe đạp thồ hoặc xe công nông để vận chuyển ngoài
đồng ruộng.


Để khắc phục được tình trạng này cần sự đầu tư bao nhiêu và cần bao nhiêu
thời gian? Khó khăn này cản trở sự phát triển của thâm canh cây lúa để nó có


thể thay dần nương rẫy tới mức nào? Hi vọng vấn đề này sẽ được quan tâm và
giải đáp trong tương lai.


<i><b>b. Các hệ canh tác nương rẫy và mơi trườìig Mường Phăng</b></i>



<i>* Chế độ luân canh</i>


<i>- Chế độ luân canh theo khoảnh và bỏ hóa đ ể tái sinh nìng</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

VIỆT NAM HỌC - KỶ YỀU HỘI THẢO QUÔC TỀ LẲN THỨ HAI


<i><b>Bảng 9: Chê' độ luân canh của người Khơ mú và Hmông ở Mường </b></i>


P h ă n g <b>thời kỳ làm nương rừng già (trước 1970)</b>


T i ê u c h í Đ ơ n vị K h ơ m ú H m ô n g


- S ố k h u n ư ơ n g :


+ Lúa K h u 2 2


+ N g ơ <i>} ì</i>


2 2


- S ố k h o ả n h n ư ơ n g ở m ỗ i k hu:


+ Lúa K h o ả n h 4 5


+ N g ô II



4 5


- T h ờ i g i a n b ỏ h ó a :


+ Lúa N ă m / k h u 4 5


+ N g ô II <sub>4</sub>


5
- Chu kỳ s ử d ụ n g đất ư ê n m ỗi khoảnh:


+ Lúa N ă m / lầ n 8 10


+ N g ô »» 8 10


<i>Nguồn: Nghiên cứu thực địa, 2001.</i>


Như vậy, với chu kỳ sử dụng đất ở mỗi khoảnh từ 8 - 10 năm lại được làm
ở hai địa điểm, sẽ giúp hạn chế khoảng trống ở từng khu vực, tránh rửa trôi và
phân bố màu đều hơn, giữ được sự màu mỡ cho đất, giúp cây trồng phát triển
tốt và rừng tái sinh nhanh hơn so với tập trung số khoảnh nương tại một địa
điểm.


<i>Dân địa phương gọi loại rừng này là mtơng p h á t hoặc nương rìtng già. Tên </i>
<i>gọi nương p h á t còn được dùng để chỉ nương mới phát ở bãi cỏ gianh, cỏ chít. </i>
<i>Từ nương rìtng già được dùng để chỉ nương được canh tác trên đất rừng già, </i>
nhưng thực ra việc canh tác trên đất rừng già chỉ trong vụ đầu, từ vụ thứ hai trên
cùng một khoảnh nương, rừng được phát sau thời gian bỏ hóa đã là rừng tái sinh.
<i>Vì vậy, theo chúng tôi nên gọi loại nương này là nương luân canh theo khoảnh</i>



<i>- khu và bỏ hóa đ ể tái sinh rỉtng. Có tác giả gọi loại nương này là nương luân </i>


<i>khoảnh khép kín hay du canh khép kín (Bùi Minh Đạo, 2000: 108).</i>


Với nương luân canh theo khoảnh - khu, một hộ gia đình từ 6 - 8 nhân khẩu
mỗi vụ cần canh tác khoảng 2 ha (xem thêm, Đặng Nghiêm Vạn, 1972:106 - 107)
cộng thêm đất dự trữ để luân canh, cần 16 ha (người Khơ mú) đến 20 ha (người
H’mông).


<i>- C hế độ luân canh theo cây trồng và chuyển canh theo nương</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

TUDNG QUAN SINH THÁI - NHÀN VÀN VÀ PHÁT TRIỂN BẾN VŨNG


nhân tố đó đã tạo đà cho dân địa phương, đặc biệt người Thái là xã viên của
các HTX, vốn đang khao khát phát triển kinh tế riêng, tiếp sau lâm trường phá
những rừng còn lại để làm nương. Do hết rừng, ch ế độ luân canh theo khoảnh
khơng cịn nữa: mỗi nhà vãn có nương lúa, nương ngô / sắn, mỗi loại nương ở
2 - 3 khu khác nhau, nhưng ở mỗi khu, mỗi loại nương chỉ còn một khoảnh, chứ
không nhiều khoảnh như trước đây nữa. Vì vậy, người ta phải thực hiện luân
canh theo cây trổng và chuyển canh từ nương này sang nương kia.


Việc luân canh theo cây trồng sẽ được giới thiệu ở dưới. Ở đây chỉ nói về
nguyên tắc của nó: ở nương lúa người ta luân canh theo vụ, mỗi vụ một loại
giống lúa khác nhau cho phù hợp với độ màu mỡ của đất. Khi đất đã quá
bạc màu, trổng lúa không cho thu hoạch, người ta trồng ngô hay sắn, tuỳ vị
trí và địa hình nương và độ ẩm của đất phù hợp với cây trồng nào. Xin lưu
ý phương thức luân canh cây trồng giữa các hệ canh tác lúa, ngô và sắn chỉ
có thể như sau:



Lúa
Lúa
Lúa
Ngô


S ắ n


2 - 4 v ụ 1 - 2 v ụ


...-...— — -■■■■■— ^


1 -3 v ụ


N g ô


1 - 3 v ụ


" • ...


1 -3 v ụ


---S ắ n


1 -2 vụ


1 - 3 vụ


ý d ĩ --- ►



1 -3 v ụ


---W


Bỏ hóa
Bỏ hóa
Bỏ hóa
Bỏ hóa
Bỏ hóa
Việc luận canh theo công thức hay được nêu dưới đây:


Lúa Ngô Sắn


3 - 4 năm
3 - 5 năm
4 -5 năm
3 - 4 năm


3 n ă m


Bỏ hóa


Lúa


Lúa


Lúa
Ngơ
Sắn



Chúng tơi chưa được biết tới ở Mường Phăng, vì ngơ là cây ưa ẩm, sắn lại ưa
khơ, có thể do bộ rễ của hai loài khác nhau. Việc luân canh giữa lúa với ngô
hoặc lúa với sắn có thể thực hiện được, vì lúa có nhiều giống thích hợp với nhiều
loại đất đai, địa hình, độ ẩm khác nhau, trong đó có nơi thích hợp với lúa và
ngơ, có nơi thích hợp với lúa và sắn.


Như vậy mỗi hộ từ 6 - 8 nhân khẩu mỗi vụ canh tác 2 ha nương theo phương
pháp luân canh theo cây trồng, mỗi nương canh tác taing bình được 3 - 5 năm,
thời gian bỏ hóa chỉ 3 - 5 năm đã rút chu kỳ sử dụng đất ngắn hơn trước đây
như sau:


Nương luân canh theo khoảnh khu : 8 - 1 0 năm / lần
Nương luân canh theo cây trồng và theo khu : 2 năm / lần


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

VIỆT NAM HỌC - KỶ YỀU HỘI THẢO QUÔC TỀ LẴN THỨ HAI


<i>nhanh chóng, khơng có giải pháp quảng canh nào bù đắp lại độ m àu mỡ bị m ất </i>
<i>đi của đất.</i>


Điều này thể hiện sự thiếu đất canh tác nương rẫy cũng như sự khủng hoảng của
nông nghiệp đất dốc và hạn chế của nông nghiệp lúa nước trong bảo đảm đời sống
của người dân địa phương. Có lẽ vì vậy mà hàng loạt giải pháp phát triển nông
nghiệp lúa nước đã được thực hiện (thuỷ lợi, giống mới, phân bón, kĩ thuật thâm
canh); và vì canh tác nương rẫy đã tới ngưỡng mà cư dân vốn sống nhiều bằng nương
rẫy không nhiệt tình với làm ăn tập thể trên ruộng nước thời kỳ HTX, nay lại hăng
hái tham gia các chương trình phát triển nơng nghiệp của huyện Điện Biên và của
nước ngoài triển khai tại xã mình.


<i>* Kĩ thuật sử dụng giống lúa mcơng đ ể luân canh, khai thác đất.</i>



Sự khác biệt trong khả năng sử dụng các loại giống để khai thác nương của
các tộc người ở Mường Phăng thể hiện qua các giống trên từng loại nương trong
Bảng 10.


<i><b>Bảng 10: Các gi Ổng lúa nương được các tộc người ở Mường Phăng </b></i>
<b>sử dụng theo loại nương trước kia và hiện nay</b>


Loại nương


Thái Khơ m ú H ’m ô n g


G iố n g d u n h ậ p G iố n g địa
p h ư ơ n g


G iố n g du
n h ạ p


G iố n g
địa
p h ư ơ n g


G iố n g d u n h ậ p


1. Nương
p h á t rừng
n g u y ê n sinh,


rừ ng tái sinh


- C ủa người Thái


ngoài xã: Khẩu
ta b ộ n g , k h ẩ u t ế
lau, c á y lau, lâng


p h ẩ n g , l3m


Ngọ mát, êl,
d u â n , con
p ơ ơ n g , clc,


kgioóc, dzrị
giặc *


Plẹ tráng,
trấu, chài,
tlang, áng,
tla, trầu, đ à


2. N ương cũ
b ỏ h ó a
k h ô n g có


rừ ng và
n ư ơ n g cũ
lu ân c a n h


- Từ người Thái
ngoài xã: k h ẩ u
lanh, k h ẩ u pe,



p u lau
- T ừ người
H 'm ông: tẻ m èo,


m ô n g si, Thái
Lan


Ngọ prăng,
n g ọ tla


- Từ người
Thái ngoài
xã: k h ẩ u pe,
pu lau,
-Từ người
H ’m ông:
m ô n g si, m a
cha, Thái
Lan


Plẹ fủa, Plẹ
tráng, m ủ a


c h u a


- Từ người Thái
ngoài xã: lâng
ph á n g , k hẩu pe,
k h ẩ u ta bộng.



- T ừ người
H ’m ơ n g ngồi xã:
plẹ trì, m ơ n g si,
Thái lan, m a cha.


<i>Nguồn: Nghiên cứu thực địa, 2001.</i>
* Chú giải một số giống lúa:


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

TUDTMG QUAN SINH THÁI - NHÃN VĂN VÀ PHÁT TRỂN BÊN VỮNG


<b>Bảng 1 1 : Các giông lúa nương được các tộc người ở Mường Phăng sử </b>
<b>dụng để luân canh theo chất đất của từng vụ trên nương cũ hiện nay</b>


T h ờ i vụ T h á i K h ơ m ú H m ô n g


- V ụ đ ầ u T a b ộ n g , t ế lau,
T h á i Lan...


N g ọ p r â n g , tla,
T h á i Lan, p u lau


Plẹ t r á n g , p h ủ a ,
trầ u , T h á i Lan.
- V ụ t h ứ hai L â n g p h ẩ n g , t ế


lau, T h á i Lan


P r â n g , k h ẩ u p e ,
m ô n g si, T h á i Lan



M ủ a c h u a , k h ẩ u p e ,
T h á i Lan.


- Vụ th ứ ba, th ứ tư M ô n g si, k h ẩ u p e K h ẩ u p e , m a c h a ,
m ô n g si


K h ẩ u p e , m a c h a ,
m ô n g si


<i>Nguồn: Nghiên cứu thực địa, 2001.</i>


Từ các giống lúa được các tộc người ở Mường Phăng sử dụng qua các giai
<i>đoạn khác nhau có thể thấy: Giống lúa được thay đổi theo từng vụ đ ể phù hợp </i>


<i>với chất đấ t và để-có th ể khai thác kiệt màu tri tóc khi bỏ hóa. Kiểu sử dụng hệ </i>


canh tác này hoàn toàn khác với sự ổn định của hệ canh tác trên ruộng. Sự khác
biệt trong hệ canh tác trên nương và trên ruộng nói trên phải chăng chứng tỏ sự
ổn định của hệ sinh thái nông nghiệp lúa nước và sự thiếu bền vững của hệ sinh
<i>thái nông nghiệp nương rẫy? Thực chất, sự thay đổi của hệ sinh thái nông nghiệp </i>


<i>nương rẫy bắt nguồn tử áp lực dân số, không p h ả i tử thuộc tính vốn có của hệ </i>
<i>canh tác này. vốn ban đầu canh tác bền vững trên đất dốc theo lối làm một vụ </i>
<i>và bỏ hóa đ ể rìtng tái sinh đã đicợc cư dân nương rẫy sử dụng, họ không dùng </i>
<i>giải p h á p thâm canh tăng vụ nhĩC trôn mộng, vì trên đất đốc khi đã mất rừng có </i>


thâm canh cũng không giữ được màu (phân bón các loại).


Việc thay đổi các loại giống theo từng vụ để khai thác kiệt đất thể hiện sự
thối hóa trong canh tác nương rẫy. Sự thối hóa này ngoài nguyên nhân đất chật


người đơng, cịn có ngun nhân nhân văn nào khác nữa?


<i>* Kĩ thuật canh tác cây lương thực trẽn nương và môi tncờng Mường Phăng.</i>


<i>- Kĩ thỉ lật làm nương mới:</i>


Nương mới là nương được làm trên đất rừng nguyên sinh (dân địa phương gọi
<i>là n líơng rìtnggià) hoặc trên đất rừng thứ sinh (dân địa phương gọi là nương ríỉng </i>


<i>non) hoặc trên đất cỏ gianh, cỏ chít nguyên sinh. Dân địa phương gọi nương được </i>


<i>làm trên ba loại thảm thực vật này là nương phát.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

VIỆT NAM HỌC - KỶ YÊU HỘI THẢO QUÜC TỀ LẪN THỨ HA)


Trong kĩ thuật làm nương phát, thời vụ phát, đốt, gieo hạt và làm cỏ được
chú trọng đặc biệt. Tuy chưa đúc kết được vai trò thứ bậc của các khâu canh tác
<i>đối với sự phát triển của cây trồng như thường thấy ở người Kinh (như “ nhất thì </i>


<i>nhì th ụ c ”, “công cấy là công bỏ, công làm cỏ là công ă n ”), nhưng bà con ở đây </i>


cũng đã đúc kết được tương quan giữa thời vụ và hệ sinh thái, cũng như tưng
quan giữa các khâu kĩ thuật với sự phát triển của cây trồng: bà con đã thấy rằng
nếu phát nương muộn, cây chưa kịp khô đã gặp mưa, khi đốt chúng khó cháy
hết. Hoặc khi hạ cây nếu không chặt hết cành, cây tươi lâu, khi đốt cây không
cháy hết, sẽ ít gio, cỏ và hạt cỏ không cháy hết, sau này chúng sẽ mọc lại nhiều,
phải tốn công làm cỏ. Hoặc, khi đốt nương gặp trời mưa, hoặc đất sũng nước,
cây cháy không hết cũng sẽ dễ bị mất mùa, đói kém.


Để bảo đảm thời vụ và kết quả thu hoạch người ta đã đầu tư số công khá


lớn vào phát đốt nương và làm cỏ: trong tổng số công lao động của cả vụ lúa
nương (bao gồm từ phát nương, đốt dọn nương, tra hạt, làm cỏ, thu hoạch), công
phát và đốt nương chiếm tới 30%, tra hạt - 9%, làm cỏ - 22% (Đặng Nghiêm Vạn,


1972: 62).


<i>- Kì thuật làm nương cũ:</i>


Kĩ thuật làm nương cũ đã có một số thay đổi so với kĩ thuật làm nương mới
ở các khâu sau:


<i>Thứ nhât: không phát rừng, hạ cây, vì khơng còn rừng để làm nương hoặc </i>


không được phép làm nương trên đất rừng.Thay vào đó, người ta phải phát cỏ
trước khi gieo trồng khá sớm (tháng 9 năm trước), và đốt nương sớm hơn nương
mới nhiều (tháng 11 năm trước). Tới trước vụ gieo trồng khoảng 1 - 2 tháng,
người ta lại cuốc đất, để lật úp cỏ và phơi ải đất. Kĩ thuật phát đốt sớm nhằm
tăng lượng phân hữu cơ cho đất: cây được phát đốt đã tạo ra một lớp tro và xác
một lớp thực vật đầu tiên, sau đó một lớp cỏ khác lại mọc lên và được cuốc lật,
phơi ủ 1 - 2 tháng, vừa dể diệt cỏ vừa nhằm tạo thêm cho đất một lớp màu và
phân huỷ chúng thành mùn. Thực chất đây là một hình thức thâm canh trên
nương, nhờ đó mà tuy canh tác trên nưưng cũ, nhưng người ta có thể làm 3 - 5
vụ rồi mới bỏ hóa. Nhưng vì cho tới nay họ vẫn không làm các đường đồng mức
và không trồng cây chống xói mịn cũng như các cây họ đậu để bồi bổ cho đất,
nên không thể thâm canh được.


<i>Thứ hai, thay vì chọc lỗ tra hạt, người ta phải bừa đất nương (ở chỗ đất thoai </i>


thoải hoặc nương bằng) hay cuốc xới đất trước khi gieo trồng. Kĩ thuật này nhằm
làm tơi đất và giũ rễ cỏ ra khỏi đất, sau đó người ta dùng cào sắt cào hết cỏ rác


ra khỏi nương để hạn ch ế cỏ mọc. Khâu cuối cùng là gieo vãi hoặc chọc lỗ tra
hạt ở đất vừa được làm tơi, hoặc cuốc hốc tra hạt rồi lấp đất.


<i>Thứ ba, ở nương cũ công làm cỏ nhiều hơn, vì cỏ mọc nhanh hơn. Và ở đây </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

TUDNG QUAN SINH THÁI - NHÃN VĂN VÀ PHÁT TRỂN BÊN VỮNG


<b>4. Biến đổi của hệ sinh thái Mường Phăng từ thập niên 1 9 7 0 trở lại đây</b>


Theo số liệu địa chính của Mường Phăng, có sớm nhất từ năm 1988 và các
thời điểm tiếp sau vào các năm 1994 và 2000, diện tích rừng xã này biến đổi
như sau:


<b>Bảng 12: Biên đổi diện tích rừng (tự nhiên và trồng) của xã Mường </b>
<b>Phăng từ 1988 - 2000</b>


Năm Đ iT N tồn xã (ha) Diện tích rừng


Ha % so DTTN toàn xã


1988 9270 3388 36,6


1994 9270 3100 33,4


2000 9270 2333 25,2


<i>Nguồn: - Phòng Thống kê Điện Biên (về năm 1988 và 1994) </i>
- Phịng Địa chính Điện Biên (về năm 2000)


* DTTN = diện tích tự nhiên



Qua bảng thống kê trên thấy rõ: cho tới năm 2000 diện tích rừng Mường
Phăng vãn tiếp tục giảm, mặc dù Nhà nước đã có chính sách giao đất cho dân
trồng và bảo vệ rừng từ năm 1993 và huyện Điện Biên cùng xã Mường Phăng
cũng đã thực thi chính sách này. Sự suy giảm diện tích rừng sau khi đã triển khai
Chương trình 327 (từ 1993) ở địa phương có thể do việc khoanh nương hoàn
thành muộn (1997), nên người dân vẫn có thể tự do mở rộng nương.


Sự suy thoái của rừng và diện tích trống trọc được phản ánh qua số liệu
dưới đây.


<i><b>Bảng 13 : Đất lâm nghiệp ở Mường Phăng năm 20001</b></i>


Đơn vị


DTTN*
toàn xã


Rừng
nguyên
sinh và bán


nguyên
sinh


Rừng
tái sinh


Rừng
trồng



Đất
khoanh
nuôi để
tái sinh


rừng


Đất
trông


trọc


Nương
rẫy


Ha 9270 194,8 1022,4 509,9 2341,1 2498,8 818,8


% 100 2,1 11 5,46 25,3 27 8,83


</div>
<span class='text_page_counter'>(19)</span><div class='page_container' data-page=19>

VIỆT NAM HỌC - KỶ YỀU HỘI THẢO QUỒC TỄ LẦN THỨ HAI


SỐ liệu về các loại đất dốc của các nguồn khổng thống nhất với nhau: diện
tích rừng tự nhiên (gồm rừng thứ sinh và tái sinh) trong nguồn của Phịng Địa
chính Điện Biên là 2333 ha so 1217 ha của Hạt Kiểm lâm Điện Biên, đất chưa
sử dụng (tức đất khơng có rừng) là 4289ha so 4840 ha của Hạt kiểm lâm. Diện
tích nương rẫy các loại theo nguồn của phòng Địa chính là 714 ha, của Phòng
Thống kê Điện Biên là 846 ha. s ố liệu giữa các nguồn có liên quan tới các loại
đất dốc được sử dụng chỉ thống nhất về diện tích rừng trổng. Chúng tơi lựa chọn
số liệu của Hạt kiểm lâm vì nó là của cơ quan chủ quản về lâm nghiệp.



Trong các loại đất ở trên rừng bán nguyên sinh là rừng tự nhiên bị khai thác
xơ xác nhưng chưa bị triệt hạ; rừng tái sinh là rừng bị phá trụi nhưng cây đã
mọc lại thành rừng; đất khoanh nuôi để tái sinh rừng là đất rừng nhưng khơng
có rừng, mới chỉ có ít cây non; đất trống trọc là nơi khơng có cây, chỉ có các
<i>loại bụi như sim (Rhodomirtns tomentoso), mua (melastoma candidnm ), cỏ lào </i>
<i>( chromolaena odorata) hoặc chỉ có cỏ gianh ( imperata cylindnca) và lau (sac- </i>


<i>chanim spontaneum ). số liệu dưới đây sẽ cho thấy rõ hơn về hiện trạng rừng ở </i>


Mường Phăng.


<i><b>Bảng 14: Các loại rừng hiện còn ở Mường Phăng hiện nay</b></i>


Đơn
vị


Tổng
số


Rừng nguyên sinh & bán nguyên sinh Rừng tái sinh
IIIB IIIA3 IIIA2 IIIA1


Rừng gỗ
núi đá


Tre
nứa


Hỗn



giao IIB IIA


Ha 1217 56 19,4 31,9 87,5 - - - 6,3 1016


% của


DTTN 13,1 0,60 0,21 0,34 0,94


- - - 0,07 11


Chú giải:


III B : rừng nguyên sinh IIIA1 : rừng nghèo sau khai thác


IIIA3 : rừng gô đủ tuôi khai thác Ị Ị g . r ừ n g tái sinh chưa đủ tuổi khai thác


IIIA2 : rừng gơ trung bình IIA : rừng non tái sinh sau nương rẫy


<i>Ngĩiồĩỉ : Hạt kiểm lâm Điện Biên.</i>


<b>5. Kết luận</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(20)</span><div class='page_container' data-page=20>

TƯDNG QUAN SINH THÁI - NHÀN VĂN VÀ PHÁT TRIỂN BÊN VỮNG


một lần tới canh tác lúa nước hai vụ bằng giống mới đang thay dần giống cũ và
băng kĩ thuật thâm canh trên ruộng cũng như luân canh nhiều vụ bằng các giống
lúa khác nhau trên một khoảnh nương với chu kỳ sử dụng đất rút ngắn xuống
2 năm.



Những đổi thay đó đã không làm giảm sức ép của con người lên môi trường,
ngược lại dân số nông nghiệp sống dựa vào đất đai tăng nhanh tới hàng chục lần
trong hơn nửa thế kỷ với tốc độ tự nhiên và cơ học. Nền kinh tế tự cấp tự túc lương
thực vẫn còn ngự trị, đa dạng kinh tế chưa được hé mở theo hướng phi nông nghiệp.
Con người từ cán bộ các cấp tới dân chúng ra sức xoay chuyển để tạo ra một nền
nông - lâm nghiệp bền vững, nhưng triển vọng vẫn chỉ trông cậy vào sự phát triển
lúa nước. Triển vọng này khó vững chác và khó khăn được khó tháo gỡ do sức ép
nhân khẩu lên đất đai gây ra.


Hi vọng với chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần và chủ trương
đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế, kinh tế nước nhà sẽ được đa dạng
hỏa, tạo cơ sở để chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp đồng thời phát triển công
nghiệp và dịch vụ để chuyển dần lao động và nhân khẩu ra khỏi nơng nghiệp.
Từ đó, th ế phát triển nông - lâm nghiệp bền vững sẽ được xác lập dần, môi
trường sẽ dần tránh khỏi suy thoái, đa dạng sinh thái sẽ dần được phục hồi và
phát triển, trả lại dần cho thiên nhiên màu xanh vốn có của nó.


<b>CHÚ TIIÍCH</b>


1. Theo tài liệu của ngành địa chính (mầu chung của Tổng cục địa chính ban hành theo quyết định số
507/1999/QíVrCHC ngày 12/10/1999, đất dốc không có rừng (gồm đất khoanh nuôi và đất trống trọc)
được gọi là đất chưa sử dụng. Theo tài liệu của ngành kiểm kìm, nương rẩy được gọi là đất lùm
nghiệp chưa được giao.


<b>TÀI LIỆU TIĨAM KIỈẢO</b>


<i>1. Lẽ Trọng Cúc, Gillogly,K. & Rambo.A.T. Agroecosystems o f the M idlands o f Northern Vietnam. </i>
Environment and Policy Institute, East - West Center, Occasional Paper, No. 12, 1990.


<i>2. Khổng Diễn, D ân số rà dân số tộc người ở Việt Nam . Nxb. Khoa học xà hội, Mà Nội, 1995.</i>


<i>3. Khổng Diễn (Chủ biên), N hũng dặc đ iểm kin h tế - x ã hội các d â n tộc m iền n ú i ph ía Bắc, </i>


Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1996.


<i>4. Khổng Diễn (Chủ biên), Dân tộc Khơ mít ở Việt Nam. Nxb. Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 1999.</i>


<i>5. Bùi Minh Đạo, Trồng trọt truyền thống của các d â n tộc tại chỗ Tây N guyên. Nxb. Khoa học </i>
xã hội, Hà Nội, 2000.


<i>6. B ế Viết Đdng (Chủ bien), N hũng biến dổi r ề kin h tế - vă n hóa các tỉnh m iề n n ú i p h ía Bắc. </i>
Nxb. Khoa học xà hội, Hà Nội, 1993.


<i>7. Jam ieson,N.L., Le Trong Cue, Rambo,A.T.. The D evelopm ent crisis in V ietnam 's M ontai ris. East</i>
- West Center, special reports, Num ber 6 Novem ber 1998.


</div>
<span class='text_page_counter'>(21)</span><div class='page_container' data-page=21>

VIỆT NAM HỌC - KỶ YỀU HỘI THẢO QUÔC TỀ LẪN THỨ HAI


<i>9. Tạ Long - Ngô Thị Chính, Sự biến đổi n ề n nồng nghiệp cháu th ổ - Thái B ìn h ở vùng n ú i D iện </i>
<i>B iên Lai Châĩt. Nxb. Nông nghiệp, Hà Nội, 2000.</i>


<i>10. Tạ Long, D ồn n é n d â n sổ trong nồng thôn và p h á t triển nông nghiệp (qita tài liệu ở tỉnh Hà </i>
<i>Bắc). Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, 1993, số </i>


<i>3-11. Tạ Long, D ôi n é t về ả n h hưởng củ a n hữ ng n h â n tố đ ịa lý, sin h th á i và n h â n v ă n đ ố i với </i>
<i>p h á t triển nông nghiệp ở m ột x ã thuộc đồng bằng sông Hồng. T ạp c h í D ân tộc học, 1995, </i>


số 3.


<i>12. Cầm Trọng, Người Thái ở Tây Bắc Việt Nam, Nxb. Khoa học xà hội, Hà Nội, 1978.</i>



13- Trung tâm nghiên cứu nông lâm kết hợp Quốc tế, Trung tâm sinh thái nông nghiệp (Trường
<i>Đại học Nông nghiệp Hà Nội), Viện khoa học kĩ thuật nông nghiệp Việt Nam. K inh nghiệm </i>
<i>q u ả n lý đ ấ t bỏ hóa sau nương rẫy ở Việt Nam, Nxb. Nông nghiệp, Hà Nội, 2001.</i>


</div>

<!--links-->

×