Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

SINH THÁI VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (143.21 KB, 8 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
KHOA SINH HỌC
-----  -----
CHUYÊN ĐỀ
SINH THÁI VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
BÀI ĐIỀU KIỆN
THẾ NÀO LÀ BẢO VỆ ĐA DẠNG SINH HỌC, NHỮNG
ĐIỀU BẤT HỢP LÝ HIỆN NAY, BIỆN PHÁP KHẮC
PHỤC, LIÊN HỆ ĐỊA PHƯƠNG
Người hướng dẫn : PGS.TS Mai Sỹ Tuấn
Người thực hiện : Ngô Như Hải
Chuyên ngành : Động vật học
Hà Nội, 4 – 2010
I. Khái niệm về đa dạng sinh học (ĐDSH)
Theo công ước về đa dạng sinh học được đưa ra năm 1992 tại Hội nghị
Liên hợp quốc về môi trường và sự phát triển, đa dạng sinh học được định nghĩa
là toàn bộ sự phong phú của các cơ thể sống và các tổ hợp sinh thái mà chúng là
thành viên, bao gồm sự đa dạng bên trong và giữa các loài và sự đa dạng của
các hệ sinh thái.
Mức độ đa dạng sinh học của một quần xã sinh vật được thể hiện ở ba
dạng: Đa dạng về loài – là tính đa dạng của các loài trong một vùng, Đa dạng di
truyền – là sự đa dạng về gen trong một loài. Đa dạng hệ sinh thái – là sự đa
dạng về môi trường sống của các sinh vật trong việc thích nghi với điều kiện tự
nhiên của chúng.
Tính đa dạng sinh học là một phạm trù bao trùm toàn bộ các thành phần
tạo ra của hệ sinh thái đảm bảo sự duy trì một hệ sinh thái đa dạng và phong
phú. Đa dạng sinh học luôn thay đổi cùng với sự tiến hóa của sinh vật trong quá
trình hình thành loài mới, trong sự tham gia vào hoặc sự mất đi của một loài.
Nguyên nhân gây ra các biến đổi đó là do sự biến đổi bất thường của tự nhiên
hoặc do hoạt động của con người.
II. Vai trò của đa dạng sinh học đối với môi trường và cuộc sống con người


Đa dạng sinh học có vai trò chủ yếu là cung cấp nguồn gen cho phát triển
kinh tế, xã hội và duy trì sự cân bằng sinh thái của Trái Đất:
- Đa dạng sinh học có tầm quan trọng rất to lớn đối với sự sống trên Trái
Đất, không gì có thể thay thế được. Tất cả những loài sinh vật nuôi trồng hiện
tại đều có nguồn gốc từ hoang dại, mỗi loài có tính đặc thù và giá trị riêng. Tầm
quan trọng là ở những loài đang còn sống trong điều kiện hoang dại nhưng lại
có quan hệ họ hàng với những loài đã được thuần dưỡng. Chúng có những gen
cần thiết cho sự phát triển, bằng các phương pháp lai ghép nhân tạo có thể tạo ra
những giống mới hoặc kiểu hình đặc biệt. Những kiểu hình mới này có thể có
khả năng kháng được bệnh, có năng suất và chất lượng sử dụng cao và thích
nghi được với những thay đổi của môi trường. Hiện nay có rất nhiều loài hoang
dại được nghiên cứu sử dụng làm lương thực, dược liệu, gỗ, sợi, nhiên liệu, làm
thức ăn cho gia súc hoặc nhiều tính năng sử dụng khác.
Cuộc sống loài người chúng ta phụ thuộc nhiều vào các loài tự nhiên để
tìm ra những chất hóa học mới có thể dùng làm thuốc và kiểm soát sâu bọ, cải
thiện được mùa màng và chăn nuôi. Bảo vệ đa dạng sinh học là bảo vệ an toàn
thực phẩm và môi trường sống trong lành của con người.
- Về mặt sinh thái học, một hệ sinh thái càng có nhiều loài, nghĩa là lưới
thức ăn càng có nhiều mắt xích thì hệ sinh thái đó càng có cơ sở để phát triển ổn
định. Do vậy, chức năng của tính đa dạng sinh học là rất to lớn trong việc giữ
cân bằng sinh thái của Trái Đất. Đa dạng sinh học duy trì các chu trình sinh địa
hóa và do vậy giữ cho khí hậu được ổn định, góp phần bảo vệ các nguồn nước
và đất, thông qua việc tăng độ phì của đất, điều hòa dòng chảy và tuần hoàn
nước, điều hòa oxi và khoáng chất trong khí quyển, sông suối, hồ ao, đất và
2
biển. Bảo vệ đa dạng sinh học là góp phần bảo vệ một hành tinh xanh, kiểm soát
khí hậu của Trái Đất.
Tài nguyên đa dạng sinh học là tài sản của nhân loại, điều đó có vai trò
quyết định tới sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia.
III. Đa dạng sinh học trên thế giới

Cho đến nay người ta vẫn chưa biết chính xác số lượng các loài sinh vật
có trên Trái Đất. Mới chỉ có chưa đầy 5% số loài ở vùng nhiệt đới được định
loại. Hiện nay nhiều loài mới vẫn tiếp tục được phát hiện. Trung bình cứ mỗi
năm phát hiện ra ba loài chim mới.
Những vùng có đa dạng sinh học cao nhất trên thế giới là rừng mưa nhiệt
đới ở Đông Nam Á, Trung và Tây Phi và vùng nhiệt đới Nam Mĩ. Hơn một nửa
số loài của cả thế giới tập trung trong các vùng mưa nhiệt đới. Biển và đại
dương là niềm hy vọng của nhân loại về tài nguyên đa dạng sinh học ngày càng
giảm dần.
IV. Tài nguyên đa dạng sinh học ở Việt Nam
1. Sự đa dạng về thực vật
Thực vật của Việt Nam rất đa dạng, cả về số lượng loài và các hệ sinh
thái. Sự khác biệt lớn về khí hậu từ Bắc vào Nam, từ các đỉnh núi cao vùng biên
giới phía Bắc – giáp vùng có khí hậu cận nhiệt đới vào tới mũi Cà Mau – gần
vùng xích đạo, đã tạo ra một dải rộng các thảm thực vật bao gồm nhiều kiểu
rừng phong phú.
Cho đến nay đã thống kê được khoảng 7000 loài thực vật bậc cao có
mạch, khoảng 800 loài rêu, 600 loài nấm. Thực vật thủy sinh đã thống kê được
1300 loài.Theo dự đoán của các nhà thực vật học, số loài thực vật ít nhất có thể
lên đến 12000 loài. Trong số các loài thực vật đã biết, có khoảng 2300 loài đã
được nhân dân sử dung làm nguồn lương thực thực phẩm, làm thuốc, làm vật
liệu, tinh chế dầu…
Tuy hệ thực vật Việt Nam không có họ đặc hữu và chỉ có 3% là chi đặc
hữu nhưng số loài đặc hữu chiếm khoảng 10% số loài đã biết. Nhiều loài đặc
hữu địa phương chỉ gặp trong vùng rất hẹp với số lượng cá thể ít. Do đặc điểm
kiểu rừng nhiệt đới ẩm có số lượng loài lớn nhưng không có loài chiếm ưu thế
rõ rệt nên số lượng cá thể của từng loài thường hạn chế và một khi một loài nào
đó trở thành đối tượng được chú ý tìm kiếm để khai thác thì bị kiệt quệ. Hiện
nay một số loài cây gỗ quý như gỗ đỏ, gụ mật, nhiều loài cây thuốc quý ba kích
đã hiếm dần. Thậm chí nhiều loài cây đã trở nên rất hiếm như hoàng đàn,

pơmu…
2. Sự đa dạng về động vật
Hệ động vật Việt Nam cũng hết sức phong phú, không những giàu về
thành phần loài mà còn có nhiều nét đặc trưng, đại diện cho hệ động vật vùng
Đông Nam Á. Hiện đã thống kê được 275 loài thú, 826 loài chim, 180 loài bò
sát, 80 loài lưỡng cư, 5.500 loài côn trùng. Động vật thủy sinh đã thống kê được
9250 loài và phân loài, trong đó có 470 loài động vật nổi, 6400 loài động vật
đáy…
Việt Nam có nhiều loài động vật đặc hữu. Hơn 100 loài và phân loài
chim, 78 loài và phân loài thú là loài đặc hữu. Nhiều loài động vật có giá trị cao
3
cần được bảo vệ như voi, tê giác, bò rừng, bò tót, trâu rừng, bò xám, hổ, báo…
Trong vùng phụ Đông Dương (phân vùng theo địa lý động vật) có 21 loài khỉ
thì ở Việt Nam có 15 loài, trong đó có 7 loài là loài đặc hữu. Có 49 loài chim
đặc hữu trong vùng phụ thì ở Việt Nam có 33 loài, trong đó có 11 loài là đặc
hữu. Trong khi Mianma, Thái Lan, Malaixia, mỗi nơi chỉ có một loài đặc hữu,
Lào có 1 loài và Campuchia không có loài chim đặc hữu nào.
Ở Việt Nam vẫn có thể phát hiện nhiều loài sinh vật mới. Vào đầu thế kỷ
này, ở vùng rừng biên giới giáp với Lào và Campuchia đã phát hiện loài bò xám
– một loài bò hoang có quan hệ họ hàng rất gần gũi với bò nhà. Trước đây tại
rừng Vũ Quang, Hà Tĩnh đã phát hiện được loài trĩ cuối cùng của thế giới. Năm
1992 cũng tại rừng Vũ Quang lại phát hiện thêm con sao la, một loài thú móng
guốc có sừng rỗng. Tiếp sau đó là phát hiện thêm loài hoẵng lớn, to gần gấp 2
lần loài hoẵng thường – đó là 2 loài động vật có vú trong tổng số 7 loài được
phát hiện trên thế giới trong thế kỷ XX. Từ những phát hiện trên, Việt Nam
được thế giới công nhận là một nước có giá trị bảo tồn đa dạng sinh học cao.
V. Hiện trạng về đa dạng sinh học của Việt Nam
Việt Nam được xem là một trong những nước thuộc vùng Đông Nam Á
giàu về đa dạng sinh học. Do sự khác biệt lớn về khí hậu từ vùng gần xích đạo
tới giáp vùng cận nhiệt đới, cùng với sự đa dạng về địa hình đã tạo nên sự đa

dạng về thiên nhiên và cũng do đó mà Việt Nam có tính đa dạng sinh học cao.
Một dải rộng các thảm thực vật bao gồm nhiều kiểu rừng phong phú đã được
hình thành ở các độ cao khác nhau, như các rừng thông, rừng hổn loại lá kim và
lá rộng, rừng khô cây họ dầu ở các tỉnh Tây Nguyên, rừng ngặp mặn chiếm ưu
thế ở các đồng bằng châu thổ sông Cửu Long và sông Hồng, rừng tràm ở đồng
bằng Nam bộ và rừng hổn loại tre nứa ở nhiều nơi.
Mặc dù có những tổn thất quan trọng về diện tích rừng trong một thời kỳ
kéo dài nhiều thế kỷ, hệ thực vật rừng Việt Nam vẫn còn phong phú về chủng
loại. Theo các tài liệu đã công bố, hệ thực vật nước ta gồm khoảng 11.373 loài
thực vật bậc cao có mạch, khoảng 1.030 loài rêu, 2.500loài tảo và 826 loài nấm.
Theo dự báo của các nhà thực vật học, số loài thực vật bậc cao có mạch ít nhất
sẽ lên đến 15.000 loài, trong đó có khoảng 5.000 loài đã được nhân dân sử dụng
làm lương thực và thực phẩm, dược liệu, làm thức ăn gia súc, lấy gỗ, tinh dầu,
các nguyên vật liệu khác hay làm củi đun. Chắc rằng trong hệ thực vật Việt
Nam còn nhiều loài mà chúng ta chưa biết công dụng của chúng. Cũng có thể có
rất nhiều loài có tiềm năng là một nguồn cung cấp sản vật quan trọng - dược
liệu chẳng hạn. Hệ thực vật Việt Nam có độ đặc hữu cao. Phần lớn số loài đặc
hữu này (10%) tập trung ở bốn khu vực chính: khu vực núi cao Hoàng Liên Sơn
ở phía Bắc, khu vực núi cao Ngọc Linh ở miền Trung, cao nguyên Lâm Viên ở
phía Nam và khu vực rừng mưa ở Bắc Trung Bộ. Nhiều loài là đặc hữu địa
phương chỉ gặp trong vùng rất hẹp với số cá thể rất thấp. Các loài này thường
rất hiếm và các khu rừng ở đây thường bị chia cắt thành những mảnh nhỏ hay bị
khai thác một cách mạnh mẽ. Bên cạnh đó, do đặc điểm cấu trúc, các kiểu rừng
ẩm nhiệt đới thường không có loài ưu thế rõ rệt nên số lượng cá thể của từng
loài thường hạn chế và một khi đã bị khai thác nhất là khai thác không hợp lí thì
chúng chóng bị kiệt quệ. Đó là tình trạng hiện nay của một số loài gỗ quí như gỗ
4
đỏ, gụ mật, nhiều loài cây làm thuốc như Hoàng liên chân gà, Ba kích,... Thậm
chí có nhiều loài đã trở nên rất hiếm hay có nguy cơ tuyệt chủng như Hoàng
đàn, Cẩm lai, Pơ mu,..Khu hệ động vật cũng hết sức phong phú. Hiện đã thống

kê được 300 loài và phân loài thú, 830 loài chim, 260 loài bò sát, 158 loài ếch
nhái, khoảng 547 loài cá nước ngọt và 2.000 loài cá biển và hàng vạn loài động
vật không xương sống ở cạn, ở biển và nước ngọt. Hệ động vật Việt Nam không
những giàu về thành phần loài mà còn có nhiều nét độc đáo, đại diện cho vùng
Đông Nam Á. Cũng như thực vật giới, động vật giới Việt Nam có nhiều loài là
đặc hữu: hơn 100 loài và phân loài chim và 78 loài và phân loài thú là đặc hữu
cho vùng phụ địa lí động vật Đông dương. Có rất nhiều loài động vật có giá trị
thực tiễn cao và nhiều loài có ý nghĩa lớn về bảo vệ như voi, Tê giác, B. rừng,
Hổ, Báo, Voọc vá, Voọc xám, Trĩ, Sếu, C. quắm. Trong vùng phụ địa lí động
vật Đông dương có 21 loài khỉ thì ở Việt Nam có 15 loài, trong đó có 7 loài đặc
hữu của vùng phụ này. Có 49 loài chim đặc hữu cho vùng phụ thì ở Việt Nam
có 33 loài, trong đó có 11 loài là đặc hữu của Việt Nam; trong khi Miến Điện,
Thái Lan, Ma Lai, Hải Nam mỗi nơi chỉ có 2 loài, Lào 1 loài và Campuchia
không có loài đặc hữu nào. Khi xem xét về sự phân bố của các loài trong vùng
phụ Đông Dương nói chung, số loài thú và chim và các hệ sinh thái có nguy cơ
bị tiêu diệt nói riêng, chúng ta có thể nhận ra rằng Việt Nam là một trong những
vùng xứng đáng có ưu tiên cao về vấn đề bảo vệ. Không những thế, hiện nay ở
Việt Nam đang còn có những phát hiện mới rất lí thú. Chỉ trong 5 năm từ 1992
và 1997 đã phát hiện được 6 loài thú lớn và hai loài cá mới cho khoa học, trong
đó có hai loài thuộc vùng rừng Hà Tĩnh là loài Sao la (Pseudoryx nghetinhensis)
và loài Mang lớn hay còn gọi là Mang bầm (Megamuntiacus vuquangensis), nơi
mà trước đây không lâu đã phát hiện loài trĩ cuối cùng trên thế giới, loài Gà lam
đuôi trắng hay còn gọi là Gà lừng (Lophura hatinhensis). Năm 1997 một loài thú
lớn mới nữa cho khoa học được mô tả, đó là loài Mang Trường Sơn
(Caninmuntiacus truongsonensis) tìm thấy lần đầu tiên ở vùng Hiên, thuộc tỉnh
Quảng Nam. Năm 1997 phát hiện loài Mang Pù Hoạt (Muntiacus puhoatensis) ở
Nghệ An, Cầy Tây Nguyên (Viverra tainguyenensis) ở Đaklak. Ở khu vực Vũ
Quang trong những năm gần đây phát hiện được thêm hai loài cá mới cho khoa
học đó là loài cá lá giang (Parazacco vuquangensis) và cá chép Quy Đạt
(Cyprinus quidatensis). Chúng ta tin rằng Việt Nam chắc chắn còn rất nhiều loài

động, thực vật chưa được các nhà khoa hoc biết đến.
Về mặt đa dạng sinh thái, Việt Nam có nhiều kiểu rừng khác nhau, từ
kiểu rừng rậm thường xanh đến kiểu rừng rụng lá ở các độ cao khác nhau, từ đai
thấp (lowlands), cận núi (sub-montane), núi (montane), cận núi cao (sub-
alpine), các kiểu rừng núi đất, rừng núi đá vôi, rừng ngập mặn, rừng tràm, tre
nứa...Việt Nam cũng có đất ngập nước khá rộng trải ra khắp nước nhưng chủ
yếu ở vùng đồng bằng sông Cửu Long và vùng đồng bằng sông Hồng. Đây
không những là vùng sản xuất nông nghiệp quan trọng của Việt Nam mà còn là
nơi sinh sống của 39 loài động vật được coi là những loài có nguy cơ bị tiêu diệt
ở vùng Đông Nam Á thuộc các nhóm thú, chim và bò sát. Ngoài ra Việt Nam
còn có phần nội thủy và lãnh hải rộng khoảng 226.000 km2 trong đó có hàng
ngàn đảo lớn nhỏ và nhiều rạn san hô phong phú. Ở Việt Nam các rạn san hô
5

×