Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT học tư TƯỞNG đức TRỊ của KHỔNG tử và ẢNH HƯỞNG của nó đối với VIỆC rèn LUYỆN đạo đức CON NGƯỜI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (238.76 KB, 28 trang )

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦY LỢI
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯

TIỂU LUẬN

TƯ TƯỞNG ĐỨC TRỊ CỦA KHỔNG TỬ
VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐỐI VỚI VIỆC RÈN
LUYỆN ĐẠO ĐỨC CON NGƯỜI

Giảng viên hướng dẫn: TS. Nguyễn Thị Nga
Học viên thực hiện:

Nguyễn Thành Đạt

Mã học viên:

201800089


Hà Nội - 2021

MỤC LỤC


Tiểu luận triết học

GVHD: TS.Nguyễn Thị Nga
PHẦN MỞ ĐẦU


1.

Lý do chọn đề tài
Đức trị là một nội dung cốt yếu của Nho học, là một lý luận chính trị, quản lý có ảnh

hưởng sâu sắc trong xã hội từ thời cổ đại đến nay, không chỉ ở Trung Quốc – nơi nó sinh ra
mà cịn ở cả một số nước trong khu vực.
Nằm cạnh Trung Quốc, Việt Nam không thể không chịu sự ảnh hưởng của Nho giáo. Từ
khi du nhập cho đến nay, Nho giáo đã của những bước thăng trầm biến đổi, từ chỗ bị phản
kháng mãnh liệt đến việc dần dần chiếm lĩnh, khẳng định vị trí của mình từ trong đời sống
nhân dân đến các triều đình phong kiến trung ương tập quyền. Ngày nay, trước những biến
đổi lớn lao của xã hội, Đức trị Nho giáo vẫn đóng vai trị quan trọng trong tư tưởng của người
Việt Nam và là một trong những nhân tố chính trong việc rèn luyện đạo đức con ngườ.
Với truyền thống nhân ái, thủy chung, trọng tình, đạo lý, chúng ta ln đề cao giáo dục
đạo đức trong gia đình và cai trị của gia đình trong việc hình thành và phát triển nhân cách
con người. Một trong những định hướng lớn về phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội được Đại
hội XII của Đảng đề ra là “ Thực hiện chiến lược phát triển gia đình Việt Nam. Phát huy giá
trị truyền thống tốt đẹp, xây dựng gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc và văn minh.”
Vì vậy, nghiên cứu đề tài: “Tư tưởng Đức trị của Khổng Tử và ảnh hưởng của nó đối
với việc rèn luyện đạo đức của con người“ là xuất phát từ việc giới thiệu, tìm hiểu, giải thích
xem liệu nó đã và đang ảnh hưởng như thế nào đối với việc rèn luyện nhân cách và con người
tại thời điểm hiện tai ra sao. Đó chính là lý do tơi chọn làm đề tài nghiên cứu tiểu luận của
mình.

HVTH: Nguyễn Thành Đạt

3

MHV: 201800089



Tiểu luận triết học

2.

GVHD: TS.Nguyễn Thị Nga

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Nho học là một trào lưu tư tưởng, học thuyết triết học, chính trị học tồn tại và phát triển

trong nhiều nghìn năm với nhiều tác giả tiêu biểu. Trong tiểu luận này, tôi chỉ nghiên cứu Nho
học của Khổng Tử, cụ thể là thuyết Đức trị của Khổng tử, trong đó tiểu luận tập trung nhất tới
những luận điểm liên quan tới vấn đề quản lý xã hội.

3.

Nội dung và nhiệm vụ nghiên cứu
Nội dung của tiểu luận là làm rõ những nội dung cơ bản của thuyết Đức trị và ảnh

hưởng của nó trong việc quản lý xã hội của nước ta hiện nay, từ đó đưa ra một số giải pháp,
kiến nghị nhằm phát huy giá trị tích cực, hạn chế tiêu cực của học thuyết này đối với việc
nâng cao hiệu quả của quản lý xã hội của nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Để đạt được điều đó, tiểu luận có các nhiệm vụ chính:

-

Tìm hiểu hồn cảnh ra đời và nội dung cơ bản của thuyết Đức trị của Khổng Tử

-


Xem xét ảnh hưởng của thuyết Đức trị đối với việc tư tưởng và lối sống của con
người.

-

Đề xuất một số giải pháp chung nhằm phát huy giá trị tích cực của Nho giáo đối với
rèn luyện tính cách và đạo đức người Việt Nam hiện nay.

HVTH: Nguyễn Thành Đạt

4

MHV: 201800089


Tiểu luận triết học

GVHD: TS.Nguyễn Thị Nga

PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ NỘI DUNG ĐỨC TRỊ CƠ BẢN CỦA KHỔNG TỬ

1.1.

Hoàn cảnh và điều kiện ra đời của thuyết Đức trị

Trung Quốc là đất nước rộng lớn, có nền văn hóa và lịch sử lâu đời. Trước đời Hạ, dân
tộc Trung Hoa ở vào giai đoạn xã hội cộng sản ngun thủy. Ở đó mọi người sống khơng có
bóc lột, khơng có giai cấp, cùng lao động, cùng hưởng thụ. Họ bầu ra những người tù trưởng
để gánh vác công việc chung.

Bước sang thời Hạ (khoảng thế kỹ XXI – XVI TCN), chế độ chiếm hữu nô lệ được xây
dựng, các tư tưởng quản lý bắt đầu hình thành từ thời nay chỉ bàn tới quyền lực và cách thức
cai trị của các hoàng đế, quân vương đối với thiên hạ và thần dân của họ. Giai cấp chủ nô đã
đề ra các chính sách để phục vụ giai cấp của mình, bắt mọi nơ lệ phải tn theo. Thành hào
được xây dựng, hình thành quân đội, đất nước bắt đầu phân chia theo địa vực, xây dựng cơ
cấu nhà nước. Các đời vua thời kỳ này sử dụng mọi hình phạt tàn khốc để thơng trị nhân dân,
bóc lột sức lao động của các nơ lệ. Nói chung là họ dùng bạo lực một cách tự nhiên, tùy ý chứ
khơng nói đến “đức trị“. Giai cấp thống trị thi hành chế độ thế tập cha truyền con nối thay cho
chế độ nhường ngôi của xã hội nguyên thủy. Để củng cố địa vị thống trị, họ dùng tư tưởng
Thiên mệnh để phục vụ cho lợi ích của mình.
Sang đời nhà Chu (thế kỷ XI – 221 TCN), tư tưởng quản lý đa thay đổi bằng cách bổ
sung “Đức“ vào thuyết “Thiên mệnh“. Họ đã đề xuất tư tưởng “kính đức báo dân“ thi hành
chính sách thống trị tương đối ôn hòa. Tuy nhiên tư tưởng “Đức trị“ chỉ thật sự được đề cập
đến ở cuối đời Xuân Thu với sự xuất hiện của nhà tư tưởng lớn: Khổng Tử.
Từ thế kỷ thử VIII, xã hội Tây Chu bước vào một thời kỳ có nhiều biến động lớn lao,
tồn diện kéo dài cho đến giữa thế kỷ thứ III TCN....Lịch sử gọi đó là thời kỳ Xuân Thu –
Chiến Quốc. Thời đại này, mặc dù kinh tế, chính suy đồi song điểm đặc biệt của văn hóa, xã
hội thời kỳ này là tồn tại một khơng khí học thuật dân chủ, trí thức và nhân tài được coi trọng,
các vương công, đại thần đều mong thu hút được nhiều quân sư, những người có tài để giúp
mình mở rộng thế lực, lãnh thổ.
Chính trong thời đại lịch sử đặc biệt này, các tư tưởng triết học, chính trị.... đã nảy sinh,
phát triển phong phú và vô cùng rực rỡ. Với tư cách là hình thái ý thức xã hội thì đây là tâm
gương phản chiếu những biến động của đời sống xã hội Trung Hoa cổ đại. Mục đích cuối

HVTH: Nguyễn Thành Đạt

5

MHV: 201800089



Tiểu luận triết học

GVHD: TS.Nguyễn Thị Nga

cùng là tìm ra những phương thuốc hữu hiệu nhất để giải quyết nhiệm vụ xã hội – “tề gia, trị
quốc, bình thiên hạ“, phát triển kinh tế, ổn định chính trị, thiết lập lại trật tự xã hội, đảm bảo
đời sống nhân dân ấm no, hạnh phúc. Một trong những tư tưởng nổi bật trong số các tư tưởng
khi đó, thậm chí ảnh hưởng đến suốt chiều dài lịch sử Trung Hoa là Thuyết Đức trị của Khổng
Tử.

1.2.

Nội dung của thuyết Đức trị của Khổng Tử

Sống trong một xã hội lạc hậu, kém phát triển và đầy rẫy những bao lạo, bản thân
Khổng Tử cũng đã trải qua nhiều nghề nên ông nhận thức được nhu cầu về hịa bình, ổn định,
trật tự và thịnh vượng của xã hội và mọi thành viên.
Khổng Tử luôn trăn trở với chuyển quản lý xã hội theo cách tốt nhất. Song, ông không
phải một nhà cách mạng từ dưới đi lên, ổng chỉ muốn thực hiện những cải cách xã hội từ trên
đi xuống, bằng con đường “Đức trị“.
Xã hội lý tưởng mà Khổng Tử muốn xây dựng là một xã hội phong kiến có tơn ti, trật
tự. Từ Thiên Tử tới các chư hầu lớn nhỏ, từ q tộc tới bình dân, ai có phận nấy, đều có quyền
lợi và nhiệm vụ sống hịa hảo với nhau, giúp đỡ nhau, nhất là vua chúa, họ phải có bổn phận
dưỡng dân – lo cho dân đủ ăn đủ mặc và bổn phận giáo dân bằng cách nêu gương và dạy lễ,
nhạc, văn, đức, bất đắc dĩ mới dùng hình pháp. Xã hội đó lấy gia đình làm cơ sở và hình mẫu.
Mọi người đều trọng tình cảm và cơng bằng, khơng có người q nghèo hoặc quá giàu, người
giàu thì khiêm tốn, giữ lễ, người nghèo thì “lạc đạo“.
Dù sao thì ý tưởng trên cũng được cả hai giai cấp bóc lột và bị bóc lột dễ chấp nhận
hơn, dễ thực hiện hơn so với hình mẫu xã hội vơ chính phủ “ngu si hưởng thái bình“ của Lão

Tử và mẫu “quốc cường qn tơn“ bằng hình phạt hà khắc và lạm dụng bạo lực của phái Pháp
gia.
Cái cốt lý luận để xây dựng xã hội trên, cái giúp cho nhà cai trị lập lại trật tự xã hội từ
vơ đạo chính là đạo Nho – đạo Nhân của Khổng Tử. Cho nên, dù có nói về chính trị, giáo dục
hay đạo đức thì Khổng Tử đều xuất phát từ vấn đề nhân sự và mục đích của ơng chính là xây
dựng một xã hội nhân bản.

1.3.

Quan điểm của Khổng Tử về rèn luyện đạo đức con người

Với thế giới quan “thiên, địa, nhân – vạn vật nhất thể“. Trời và người tương hợp, Khổng
Tử nhận thấy các sự vật của vạn vật luôn tuân theo một quy luật khách quan mà ông gọi là
“mệnh trời“. Con người theo Nho học “là cái đức của trời, sự giao hòa âm dương, sự hội tụ
của quỷ thần, cái tinh tú của của hành“. Con người sinh ra đều có bản chất Người nhưng do

HVTH: Nguyễn Thành Đạt

6

MHV: 201800089


Tiểu luận triết học

GVHD: TS.Nguyễn Thị Nga

trời phú khác nhau về năng lực, tài năng và hoàn cảnh sống khác nhau cho nên đã trở thành
những nhân cách không giống nhau. Bằng sự học tập, tu dưỡng không ngừng, con người dần
dần hồn thiện bản chất người của mình – trở thành người Nhân. Và những người hiền này có

xứ mệnh giáo hóa xã hội, thực hiên nhân hóa mọi tầng lớp. Nhờ vậy, xã hội trở nên có nhân
nghĩa và thịnh trị. Học thuyết Nhân trị của Khổng Tử cũng là một học thuyết quản lý xã hội
nhằm phát triển những phẩm chất tốt đẹp của con người, lãnh đạo - cai trị họ theo nguyên tắc
đức trị: người trên noi gương và kẻ dưới tự giác tuân theo.

-

Về đạo Nhân:
“Nhân là yêu người“. Nhân là giúp đỡ người khác thành cơng “Người nhân, người

muốn thành cơng thì cũng giúp cũng người khác thành cơng, đó là phương pháp thực hành
của người nhân“. Nhưng Khổng Tử khơng nói đến tính nhân chung chung ơng coi như đức
tính cơ bản của nhà quản lý. Nói cách khác, người có nhân ln tìm mọi cách đủ thu lợi về
mình, nhân là nguyên tắc cơ bản của hoạt động quản lý ( trong quan hệ nhà quản lý với đối
tượng bị quản lý) vừa là đạo đức và hành vi của các chủ thể quản lý. Khổng Tử nâng tư tưởng
nhân lên thành đạo (nguyễn tắc sống chung cho xã hội) vì một nhà tư tưởng quản lý sâu sắc,
ơng thấy đó là nguyên tắc chung gắn kết giữa chủ thể và khách thể quản lý đạt kết quả xã hội
cao:“ Người khơng có đức Nhân thì Lễ mà làm chi“.

-

Nhân và Lễ:

Nhân có thể đạt được qua Lễ, Lễ là hình thức biểu hiện của Nhân, thiếu Nhân thì Lễ chỉ
là hình thức giả dối:“Người khơng có đức Nhân thì Lễ mà làm chi“.

-

Nhân và Nghĩa:


Đúng lễ cũng là làm đúng nghĩa rồi. Nhân gắn liền với Nghĩa vì theo Nghĩa là thấy việc
gì đáng làm thì phải làm, khơng mưu tính lợi của cá nhân mình,“Cách xử sự của người quân
tử, không nhất định phải như vậy mới được, không nhất định như kia là được, cứ hợp nghĩa
thì làm“, làm hết mình khơng thành thi thơi.
Tư tưởng nhân ái của Khổng Tử có thể so sánh với tình bác ái của Đức Phật và Jesu.
Nhưng ông khác 2 vị kia ở chỗ, trong tình cảm, có sự phân biệt tùy theo mối quan hệ: trước
hết là ruột thịt, sau đến thân, quen và xa hơn là người ngoài.

-

Nhân và Trí

Trí trước hết là “biết người“. Có hiểu biết sáng suốt mới biết cách giúp người mà không
làm hại cho người, cho mình:“Trí giả lợi Nhân“. Rõ ràng là người Nhân không phải người
ngu, không được để cho kẻ xấu lạm dụng lịng tốt của mình. Trí có lợi cho Nhân, cho nên khi

HVTH: Nguyễn Thành Đạt

7

MHV: 201800089


Tiểu luận triết học

GVHD: TS.Nguyễn Thị Nga

Khổng Tử nói đến người Nhân – quân tử, bao giờ cũng chú trọng tới khả năng hiểu người,
dùng người của họ. Phải sáng suốt mới biết yêu người đáng yêu, ghét người đáng ghét.


-

Nhân và Dũng
Dũng là tính kiên cường, quả cảm, dám hi sinh cả bản thân vì nghĩa lớn. Khổng Tử

khen Bá Di, Thúc Tê thà chết đói chứ khơng thèm cộng tác với kẻ bất nhân, là người Nhân.
Khổng Tử rất ghét những kẻ hữu Dũng bất Nhân, vì họ là nguyên nhân của loạn
Đạo của Khổng Tử không quá xa cách với đời, Nhân – Trí – Dũng là những phẩm chất
cơ bản của người quân tử, là tiêu chuẩn của các nhà quản lý cai trị. Tư tưởng đó của Khổng
Tử được Hồ Chí Minh kế thừa có chọn lọc và nó vẫn cịn ảnh hưởng đối với sự phát triển xã
hội hiện nay. Khổng Tử cũng mong phú q, nhưng ơng chỉ thừa nhân nó trở thành lợi ích cho
xã hội khi nó “khơng trái với đạo lí“ và phải đạt được bằng những phương tiện thích đáng.
Khổng Tử khuyên các nhà cai trị không nên chỉ dựa vào lợi để ra quyết định quản lý:“nương
tựa vào điều lợi mà làm hay là sinh ra nhiều điều ốn“. Ơng biết họ có nhiều ưu thế để tranh
lợi với cấp dưới và những người lao động luôn phải chịu mức sống thấp hơn, cho nên, điều
quan trọng đối với nhà quản lý là phải nghiêm khắc với mình, rộng lượng với người và lo
trước nỗi lo của thiên hạ, vui sau cái vui của thiên hạ. Chỉ như vậy xã hội mới có cái lợi dài
lâu là mơi trường chính trị - xã hội ổn định, các giai cấp cùng làm ăn vì mục tiêu chung: kinh
tế thịnh vượng, tinh thần tốt đẹp.
Khổng Tử khuyên các nhà quản lý phải “khắc được tu dục“, không nên cầu lộc cho cá
nhân mình, cứ chun tâm làm tốt cơng việc thì “bổng lộc tự khắc đến“. Làm cho dân giàu là
mục tiêu đầu tiên, cơ bản của nhà quản lý, đối với những người nông dân nghèo khổ đương
thời, Khổng Tử biết lợi ích kinh tế là nhu cầu thiết yếu của họ, nên ơng biết đạo Nhân sẽ khó
thực hiện khi quần chúng nghèo khổ. Tư tưởng “làm cho dân giàu“, “tiên phú, hậu giáo“ là tư
tưởng duy vật của Khổng Tử, được các học giả của Nho giáo và Mặc gia sau này phát triển
thêm. Nhưng những giá trị tư tưởng của Khổng Tử để lại cho hậu thế đã không bị mai một
theo thời gian. Ngày nay, hệ thống học thuyết của Khổng Tử đã trở nên lạc hậu, trước hết là
phần nội dung liên quan tới vấn đề thế giới quan, song nhiều triết lý của ông về đạo đức –
giáo lý, giáo dục, cai trị - quản lý con người và xã hội vẫn là những nguyên tắc và triết học chỉ
đạo một số hoạt động ví dụ như:

Khổng tử nhấn mạnh tới q trình tự tu dưỡng trong hoạt động quản lý “tu thân – tề gia
– trị quốc – bình thiên hạ“
Người nhân thì phải biết hết lịng vì người, biết từ bụng ta suy ra bụng người:“kỷ sở bất
dục, vật thi ư nhân“

HVTH: Nguyễn Thành Đạt

8

MHV: 201800089


Tiểu luận triết học

GVHD: TS.Nguyễn Thị Nga

Trong hoạt động kinh tế, không chỉ căn cứ vào lợi nhuận đơn thuần “Giàu sang là điều
ai cũng muốn, nhưng nếu được giàu sang mà trái với đạo lý thì người quân tử khơng thèm:.
Cứ làm việc tốt, phục vụ người tốt thì “bổng lộc tự khắc đến“.
Ở đây có một điểm cần nói rõ hơn:“Chính“ mà khơng Tử nói ở đây là chính trị, chính
sự. Và chính trị là mọi biện pháp được thi hành để quản lý đất nước, làm cho chính sự được
quản lý chặt chẽ, chính sự là chỉ việc làm hành chính. Khổng Tử chủ trương tham gia chính trị
ni dưỡng nhân tài “Tịng chính“ có nghĩa là chấp chính. Lúc bấy giờ, chưa thể có quản lý xí
nghiệp cũng như khái niệm quản lý xí nghiệp. Thời bấy giờ, việc quản lý quốc gia là việc mọi
người quan tâm nhất, đó cũng là chính sự. Do đó, Khổng Tử quan tâm đến “Chính“. Quan
tâm và nghiên cứu việc quản lý quốc gia là tự nhiên. Nhưng quản lý quốc gia là quản lý, còn
về điểm quản lý con người, nó cũng có nét chung như bất cứ việc quản lý nào. Do đó, tư
tưởng quản lý của Khổng tử có ý nghĩa phổ biến.
Nho gia (Khổng Tử) chủ trương “Nhân trị - Đức trị” - tức là lấy chuẩn mực đạo đức là
khuôn phép để trị nước trị dân, lấy cơng việc giáo hố, thu phục nhân tâm là phương châm

hành động cơ bản, lấy tôn ti trật tự, phẩm trật rõ ràng để bình ổn xã hội. Theo họ, tư cách
người cầm quyền quan trọng hơn luật lệ, hễ có người yêu dân, làm gương cho kẻ dưới thì đất
nước sẽ an bình, thịnh trị.
Đạo cai trị - quản lý của Khổng Tử là phản đối tư tưởng “Pháp trị”, ơng đề ra chính
sách quản lý là “Đức trị”, tức là bổ sung Đức và Lễ vào chỗ thiếu của chính sách dùng chính
và hình lúc bây giờ. Ơng nói: “Dùng chính lệnh để dân dắt dân, dùng hình pháp để giữ trật tự,
dân tránh khỏi tội nhưng chưa biết hổ thẹn. Dùng đức để dẫn dắt dân, dùng lễ để giữ trật tự,
dân biết hổ thẹn mà tiến tới chỗ tốt lành”.
Hồi bão chính trị nhất quán trước sau của Khổng Tử là kế thừa sự nghiệp của Văn
Vương, Chu Công, lập lại kỷ cương của nhà Chu. Để có được xã hội đó, dưói góc độ quản lý,
ơng quan tâm nhiều đến quan hệ giữa con ngưòi với con người tức là quan hệ giữa người
quản lý với người bị quản lý. Ở đây ông đề cao chữ Nhân mà sau đó ông nâng lên thành đạo
(đạo Nhân).

1.4.

Nguyên tắc và các phương thức rèn luyện đạo đức con người

HVTH: Nguyễn Thành Đạt

9

MHV: 201800089


Tiểu luận triết học

GVHD: TS.Nguyễn Thị Nga

1.4.1.

Nguyên

tắc

coi

trọng,

đề

cao

mặt

đạo

đức

của

con

người



điều chỉnh các quan hệ xã hội dựa vào các chuẩn mực đạo đức chung.
Khổng Tử luôn khát khao đưa xã hội trở lại thời kỳ thanh bình, thịnh trị của thời
Nghiêu, Thuấn (truyền thuyết của người Trung hoa). Vì thế, có thể nói các chuẩn mực đạo
đức là vấn đề lớn nhất trong học thuyết của ông. Trong học thuyết của Khổng Tử, ông lấy đạo

Nhân làm gốc bởi Nhân tức là đạo làm người, chỉ có thực hiện đạo Nhân mới có thể khắc
phục được thực trạng: bề tôi giết vua, con giết cha, em giết anh, bạn bè lấn át nhau đang diễn
ra như cơm bữa trong xã hội. Theo đạo đức của Khổng Tử thì cái đạo làm người có “tam
cương”, phản ánh ba mối quan hệ rường cột và phổ biến trong xã hội. Đó là: Vua - tơi, cha con, chồng - vợ. Sau này, các học trò của Khổng Tử đã đi từ “tam cương” đến “ngũ luân”,
thêm hai mối quan hệ xã hội cơ bản nữa là anh - em và bè bạn. Việc giải quyết các mối quan
hệ xã hội theo các chuẩn mực nhất định đáng để chúng ta xem xét và kế thừa có chọn lọc
những hạt nhân hợp lý của nó
- Trong mối quan hệ vua - tôi: Khổng Tử đặt vua lên hàng đầu, cố nhiên đã biểu hiện sự
tôn trọng của mình với ngơi vua và qn quyền, song cũng có thể thấy rằng Khổng Tử cho
rằng muốn làm cho quan hệ vua tôi phù hợp với Nhân và Lễ, sự cư xử của qn chủ lại càng
có vị trí quan trọng. Khổng Tử rất chú trọng đến vai trò lãnh đạo của người điều hành chính
sự. Ơng chỉ ra rằng: người điều hành chính sự ở ngơi cao trước tiên phải có hành vi đoan
chính, thì người ở dưới hỏi ai cịn dám khơng đoan chính nữa? Khổng Tử đã nêu rõ tác dụng
quan trọng của vua chúa trong việc trị quốc. Đồng thời ông cũng để xướng người ở ngồi trên
cần nhân hậu với người khác, biết tỏ ra khoan dung, làm việc gì thì trang trọng, khoan hậu
thành thực, cần mẫn, nhân từ, cũng yêu cầu mọi người làm theo bốn đức tốt, bỏ bôn điều
xấu. Đấy là những yêu cầu Khổng Tử đề ra với người ở ngôi trên.
- Trong mối quan hệ cha - con: Khổng Tử địi hỏi người làm cha phải có đức tính nhân
từ, người làm con phải có đức hiếu thảo. Nguyên tắc cơ bản xử lý mối quan hệ với họ là làm
cha mẹ phải có đủ sự thương yêu với con cái, làm con cái phải hiếu thuận với cha mẹ. Ngoài
nghĩa vụ mà người con phải làm đối với cha mẹ, thì cha mẹ cũng phải có nghĩa vụ với con
cái. Là người sinh thành ra con cái, không bậc cha mẹ nào lại không thương yêu con cái mình.
Song thương u con cái địi hỏi cha mẹ: Có nghĩa vụ dạy dỗ con cái mình nên người. Khi
con cái cịn nhỏ, phải lo lắng chăm sóc cho con khôn lớn; khi con cái trưởng thành, phải dạy
dỗ, uốn nắn và làm gương cho con cái để con cái biết đạo ứng xử làm người trong xã hội: biết

HVTH: Nguyễn Thành Đạt

10


MHV: 201800089


Tiểu luận triết học

GVHD: TS.Nguyễn Thị Nga

trung với vua, biết hiếu với cha mẹ, biết kính với người trên, biết đễ với anh em, biết tín với
bạn bè, biết thấy việc nghĩa thì phải làm... và phải biết che chở, bảo vệ con cái.
- Trong mối quan hệ vợ - chồng: Trong một gia đình thì người chồng phải biết thương
yêu vợ con, chăm lo con cái và là chỗ dựa của vợ con. Ngược lại người vợ phải biết chăm lo,
vun vén cho gia đình mình và gia đình nhà chồng, phải biết nghe theo chồng một cách vô điều
kiện. Khổng Tử cho rằng, một nguyên tắc cơ bản ở đây là chú trọng phẩm hạnh mà không chú
trọng dung mạo của người vợ. Trên cơ sở ấy, ông nhấn mạnh vợ chồng phải kính u lẫn
nhau, khơng chỉ người vợ phải kính yêu người vợ phải kính trọng thuận tịng theo
chồng mà người chồng cũng phải tơn trọng người vợ. Tuy nhiên, trong tư tưởng của Khổng
Tử cũng có lúc xem thường nữ giới, ví như ơng cho rằng: chỉ có đàn bà và tiểu nhân là khó
dưỡng dục, gần gũi thì khơng theo phép mà xa cách thì ốn thán.
- Trong mối quan hệ anh - em: Khổng Tử thường hay nhắc đến hiếu đễ, điều đó có
nghĩa là, anh em trong một nhà phải có tình thân mật. Là anh thì phải biết bao bọc, che chở
cho em, phải biết nhường nhịn em; là em thì phải biết kính trọng anh, nghe lời anh. Khổng Tử
cho rằng, anh em vui vẻ, nói khác đi là hồ mục với nhau là điều kiện quan trọng của kẻ sĩ.
Ông rất chú trọng đến hiếu đễ, yêu cầu đệ tử phải làm theo bằng được. Khổng Tử không chỉ
yêu cầu người em phải tơn kính người anh của mình, từ đó u cầu phải tơn kính người lớn
tuổi hơn mình. Đấy chính là điều Khổng Tử nói: Đệ tử vào thì giữ hiếu, ra thì giữ lễ.
- Trong mối quan hệ bạn bè: đề cao đức tín và địi hỏi mọi người phải giữ chữ tín trong
giao tiếp. Đức tin là nền tảng của trật tự xã hội. Bạn bè mà khơng có lịng tin thì khơng cịn
tình bạn, chính quyền mà khơng được dân chúng tin thì chính quyền sớm muộn cũng sẽ đổ.
Khổng Tử đem bạn hữu phân chia thành bạn có ích và bạn có hại, lại nói rằng ở mỗi loại bạn
đó lại có thể chia nhỏ thành bạn các dạng khác nhau. Ví như bạn có ích lại chia thành: bạn

thẳng thắn, bạn rộng lượng, bạn có hiểu biết lắm. Đấy là những người có thể làm lợi cho việc
tu dưỡng đạo đức của mình. Cịn bạn có hại lại chia thành: người xiểm nịnh, người vâng dạ
trước mặt mà sau lưng thì nói xấu, và người hay khoe khoang, giao tiếp với những người đó
chỉ chuốc hại mà thơi. Khổng Tử cịn nhấn mạnh đến việc bạn bè phải bảo ban giúp đỡ lẫn
nhau, song khơng thể dùng lịi lẽ thơ bạo mà phải có phương pháp nhất định, đúng lúc thì
dừng. Nếu khơng sẽ khiến quan hệ bằng hữu đó thành ra xa cách khơng bổ ích gì. Cũng cần
nói thêm rằng, so vói cổ đại thì mối quan hệ trong xã hội ngày nay càng cần phải rộng rãi hơn.
Ra cửa dựa bằng hữu, đã là một phương châm trong cuộc sống của con người hiện đại. Mở
rộng quan hệ, đồng thời cũng chú ý chọn bạn, để tránh bị tổn hại đến mình, điều ấy

HVTH: Nguyễn Thành Đạt

11

MHV: 201800089


Tiểu luận triết học

GVHD: TS.Nguyễn Thị Nga

đích xác là nghệ thuật sống mà con người hiện đại cần phải có. Về điều này tư tưởng hữu
quan của Khổng Tử cho đến nay vẫn chiếu toả ánh sáng trí tuệ.
Như vậy, trong mối quan hệ Khổng Tử đều nhấn mạnh một phẩm chất cơ bản - một
chuẩn mực đạo đức xã hội để định hướng, đánh giá hành vi của mỗi cá nhân. Trung, hiếu,
hồ, tín... là nhũng biểu hiện khác nhau của chữ Nhân và cũng là những nguyên tắc chỉ đạo
của các chủ thể cai trị - quản lý

1.4.2.
Các phương thức rèn luyện đạo đức con người

- Một là, mọi người trong xã hội đều coi trọng việc tu thân:
Bởi “trị quốc, bình thiên hạ”, cải tạo xã hội là nội dung trọng yếu của tư tưởng triết học
nhân sinh của Khổng Tử, ở đấy Khổng Tử đã phát triển một khuôn mẫu lý luận khá đặc sắc về
an bang trị quốc, có thể nói đây là thuyết Đức trị. Bởi nó chủ trương lấy đức để cai trị thiên
hạ, cũng bởi thế mà trong tư tưởng Khổng Tử ln lý và chính trị có sự liên quan mật thiết.
Khổng Tử thấy rằng cá nhân chú trọng tu dưỡng đạo đức luân lý, cũng do đó mà ảnh hưởng
đến người khác và xã hội, ở một mức độ nào đó có thể xem là việc chính sự.
Học thuyết của Khổng Tử nhấn mạnh đến ý nghĩa quan trọng coi con người tự giác ngộ
nhân ái làm theo nhân ái, yêu cầu các thành viên trong xã hội đều thông qua tu dưỡng đạo đức
bản thân trở thành người quân tử nối gót thánh hiền, đề xướng thơng qua đức trị và lễ trị mà
xây dựng hình thái xã hội lý tưởng, các thành viên trong xã hội đều có thể đạt được sự bình
yên trong cuộc sống của mình.
- Hai là, người ở địa vị trên, nhà cai trị vốn ở địa vị trên phải nêu gương giáo hoá cho
người dưới noi theo:
Lý tưởng chính trị của Khổng Tử rốt cục là xây dựng một xã hội đại đồng mà con
đường cơ bản để đạt đến lý tưởng đó là sự hài hồ nhất thể - vua, bề tơi và dân chúng. Với ý
nghĩa đó, rất khó nói tư tưởng chính trị của Khổng Tử rốt cục là lấy vua làm gốc hay lấy dân
làm gốc, song phải thừa nhận rằng, trong tư tưởng chính trị của Khổng Tử, quân chủ và đại
thần trong suốt quá trình an bang trị quốc đều ở địa vị chủ đạo. Đương nhiên ở đây, quân chủ
và đại thần có ở địa vị chủ đạo, cũng khơng thấy cả q trình chính trị là muốn ủng hộ cho lợi
ích đặc thù của quân chủ và đại thần, mà là do quân chủ và đại thần trong q trình điều hành
chính sự có vai trò rất quan trọng, bởi thế mà cần phát huy đầy đủ tác dựng của họ khiến vua
bề tôi, dân chúng có thể hài hồ nhất thể. Dẫu rằng tư tưởng hữu quan của Khổng Tử cũng
chưa hề có yêu cầu đem trọng điểm đặt ở quân chủ, song ông cũng rõ ràng là đã đề xuất yêu
cầu vua phải xứng đáng là vua, cũng yêu cầu “vua sai khiến bề tôi bằng lễ”.

HVTH: Nguyễn Thành Đạt

12


MHV: 201800089


Tiểu luận triết học

GVHD: TS.Nguyễn Thị Nga

Xuất phát từ chỗ lấy nhân đức yêu cầu vua chúa thực hiện sự hài hoà nhất thể. Trên cợ
sở Đức Trị, Khổng Tử đã xem xét về chức phận của Vua, bề tôi và dân chúng trong một thời
đại Xuân Thu Lễ nhạc băng hoại, bề tơi khơng biết giữ lễ nghi. Ơng đã tiến hành một sự phê
bình khơng thoả hiệp, hy vọng xây dựng lại lễ chế, khôi phục sự thống nhất thiên hạ của quân
chủ.
- Ba là, Đạo Nhân - triết lý về quản lý:
Là người quản lý, cai trị giỏi thì vua quan phải làm cho nhân dân tin tưởng và phục
tùng. Muốn vậy, người quản lý phải có “Nhân”. Theo ơng “Nhân là u người”. Trong gia
đình thì trọng hiếu đễ, u trẻ, kính già; ngồi xã hội thì mọi người yêu thương giúp đỡ nhau.
Đối với nhân dân (giai cấp bị trị), ông nhận ra rằng, chữ Nhân cũng rất quan trọng. Ta
biết rằng, trong xã hội lúc bây giờ, mâu thuẫn xã hội rất gay gắt, nhân dân thường hay chống
đối lại giai cấp thống trị. Theo ơng, cái gốc của sự phản kháng là vì chưa thấm nhuần được
đạo Nhân. Do đó, dân chúng cũng phải hiểu rõ được đạo hiếu đễ của điều Nhân. Khi đó, họ sẽ
khơng phạm thượng làm loạn.
Theo Khổng Tử, để thực hiện Đức trị thì phải có những chính sách để quan tâm đến dân
chúng như: biết lo cho dân, phải tiết kiệm, sai khiến dân phải hợp thời. Tuy nhiên ta cũng thấy
rằng, tư tưởng của Khổng Tử còn nhiều nhược điểm bảo thủ, thiếu dân chủ và ảo tưởng. Là
người đại diện cho giai cấp thống trị nên nhìn chung tư tưởng của ơng vẫn phục vụ cho giai
cấp thống trị. Tuy nhiên, thuyết “Đức trị” của Khổng Tử cũng có giá trị rất lâu dài, được nhiều
nhà quản lý sau đó kế thừa và thu được nhiều kết quả tốt đẹp.
- Bốn là, Coi việc dùng lễ, nhạc là cơ sở để quản lý toàn xã hội:
Lễ mà Khổng Tử nói ở đây là những lễ nghi, quy phạm đạo đức thời Tây Chu, tức là Lễ
nhà Chu. Khổng Tử nêu lên sự tự giác làm điều nhân, vì Lễ đã xác lập căn cứ nhân tính nội

tại, đồng thời cũng đã là quy tắc sinh hoạt... Do đó, Nhân và Lễ ở trong chính trị theo Đức trị
của ơng có liên hệ mật thiết: một mặt Nhân thành ra căn cứ nội tại của Lễ, là động lực nội tại
để thúc đẩy Lẽ; mặt khác, Lễ trở thành nội tại hố của nhân chính đức trị, là con đường cơ
bản để thực hiện nhân chính. Trong tư tưởng chính trị theo thuyết Đức trị ở Khổng Tử, Lễ là
quy phạm cơ bản của hành vi chính trị quốc gia, là đường lối cơ bản của cuộc sống thường
ngày của dân chúng, đồng thời là thủ đoạn cơ bản để giáo hoá dân chúng. Tinh thần của lễ,
nhạc ở cả trong đức nhân. Phải có lịng nhân, phải yêu người, trọng người, rồi sau mới thêm lễ
và nhạc, cũng như phải có sẵn nền trắng rồi sau mới vẽ một hình đẹp lên được. Lễ trước tiên
là một loại quy phạm và nghi thức trong đời sống có từ rất sớm, nó quy định phải làm những
gì. Khổng Tử cho rằng Lễ là một loại quy phạm và nghi thức, mà thơng qua đó giúp con

HVTH: Nguyễn Thành Đạt

13

MHV: 201800089


Tiểu luận triết học

GVHD: TS.Nguyễn Thị Nga

người phát triển được đức Nhân, trở thành người sống có văn hố và tự giác, không cần ai ép
buộc. Một khi hành vi làm trái của người ta đã đến mức vi phạm pháp luật thì ắt phải dùng
phép tắc để trói buộc. Cũng cần nói rằng tác dụng của lễ và phép tắc một trước một sau có tác
dụng bồi bổ cho nhau mà không thể thiếu được.
Trong xã hội hiện đại, đạo đức vẫn có thể được xem là cơ sở của hình phạt. Nếu như
thành viên của một xã hội đều chẳng có cảm nhận đạo đức sẽ thành ra khơng cịn biết kiêng kị
là gì nói chi đến liêm sỉ nữa, vậy thì pháp trị cũng khó thi hành được. Khổng Tử nghĩ đến một
xã hội vượt lên trên chế độ hình phạt mà lấy đức lấy lẽ cai trị quốc gia, hiếu hiện đầy đủ sắc

thái của chủ nghĩa ý tưởng đạo đức trong lĩnh vực quản lý xã hội.
Năm là, Thực hiện Chính danh trong quản lý xã hội:
Để làm rõ vị trí, vai trị của người quản lý, Khổng Tử đổ ra thuyết “Chính danh”. Tử Lộ
hỏi nếu được vua nước Vệ mời ra làm chính sự thì phải làm việc gì trước, Khổng Tử trả lời:
“phải chính danh”. Ơng nói: “Danh khơng chính thì lời nói chẳng thuận, lời nói khơng thuận
thì việc chẳng nên, việc khơng nên thì lễ nhạc chẳng hưng vượng, lễ nhạc khơng hưng vượng
thì hình phạt chẳng trúng, hình phạt khơng trúng ắt dân khơng biết xử trí ra sao. Vì thế, người
quân tử đã nêu được tên gọi ắt nói được ra lời, đã nói được ra lời ắt làm được. Đối với lời nói
ra, người qn tử khơng bao giờ cẩu thả vậy”, Điều gọi là “chính danh” tức là phải đặt tên
được đúng sự vật, gọi sự vật bằng tên của nó khiến danh đúng với thực chất sự vật. Khái niệm
“chính danh” của Khổng Tử địi hỏi đặt tên đúng sự vật và gọi sự vật bằng đúng tên của nó,
khiến danh đúng với thực chất sự vật. Trong quản lý, chính danh là phải làm việc xứng đáng
với danh hiệu, chức vụ mà người đó được giao.
Trong thời đại mở cửa, hội nhập hiện nay, chúng ta thấy tư tưởng quản lý của Khổng Tử
có nhiều điểm bảo thủ, thiếu dân chủ và ảo tưởng. Tuy nhiên ở thời của Khổng Tử, luật pháp
còn rất sơ sài, quyền lực thực sự được quyết định bởi ý chí và hành vi của vua và tầng lớp cai
trị, người dân cịn đói nghèo, dốt nát, khơng có quyền tự bảo vệ mình. Trong bối cảnh đó,
Khổng Tử muôn xây dựng một xã hội lý tưởng bằng việc bắt đầu “từ trên xuống dưới”, ơng
phải, kêu gọi lịng Khoan dung, sự gương mâu của các nhà quản lý. Nhà quản lý “có đạo”,
một “chính nhân qn tử”, theo ông, như một người cha - người chủ gia đình vậy. Họ phải
chăm nom, điều hành và giáo hoá các thành viên của tổ chức như con em mình, với tình
thương và bao dung, nhưng khi thưởng phạt lại căn cứ vào trách nhiệm, công lao của từng
người cụ thể dưới quyền, chứ khơng vì quan hệ thân hay sơ. Nhìn rộng ra cả nước là một gia
đình lớn, có một người chủ là vua, dưới là bề tôi (tầng lớp cai trị), cuối cùng là thứ dân. Một

HVTH: Nguyễn Thành Đạt

14

MHV: 201800089



Tiểu luận triết học

GVHD: TS.Nguyễn Thị Nga

tổ chức có trật tự, thứ bậc rõ ràng, song lại có cùng mục tiêu là thực hiện điều Nhân trong
kinh tế, chính trị - xã hội và văn hoá - giáo dục.
- Sáu là, Hạn chế dùng pháp luật và hình phạt hà khắc:
Khổng Tử chủ trương đức trị cho nên khơng thích chính hình. Chính là dùng lệnh, hình
là hình pháp. Khi xử kiện ông cũng như người khác, nhưng ông vẫn cho rằng làm sao cho dân
khỏi kiện nhau mới hơn. Ông cho rằng: Dùng hình lệnh để dắt dẫn dân, dùng hình phạt để bắt
dân vào khn phép, dán tránh khỏi tội, nhưng không biết hổ thẹn. Dùng đạo đức để dắt dẫn
dân, dùng lễ giáo để đặt dân vào khn phép, dân biết hổ thẹn mà theo đường chính. Khổng
Tử phản đối “Pháp trị’ và thấy nhân dân cũng có nhu cầu được đối xử một cách nhân ái:
“Nhân dàn đối với đạo nhân, coi đạo nhân cần thiết hơn nước lửa. Mà (nước lửa cịn có khi
nguy hiểm) đã có người sa xuống nước dẫm vào lửa mà chết, chứ đạo nhân thì tuyệt nhiên
khơng nguy hiểm, chưa thấy ai theo đạo nhân mà chết”; nhưng ông đã bảo có hạng người hạ
ngu, khơng giáo hố được, cho nên bất đắc dĩ phải dùng chính hình, khơng thể bỏ pháp lệnh,
thưởng phạt được. Thưởng phạt khéo dùng thì có thể giúp cho sự giáo hố và giữ nước được
trị. Vậy pháp trị bổ túc cho nhân trị. Cần lễ giáo nhưng cũng cần cả chính hình. Dù vậy, Nhân
đức là nguyên tắc chung gắn kết giữa người quản lý với người bị quản lý nhằm đạt hiệu quả
xã hội cao .

CHƯƠNG 2: THUYẾT ĐỨC TRỊ ĐỐI VỚI PHƯƠNG THỨC RÈN LUYỆN ĐẠO
ĐỨC CON NGƯỜI

HVTH: Nguyễn Thành Đạt

15


MHV: 201800089


Tiểu luận triết học

GVHD: TS.Nguyễn Thị Nga

2.1. Ảnh hưởng của thuyết Đức trị đối với việc rèn luyện đạo đức con người
2.1.1. Phương thức quản lý xã hội ở Việt Nam trong lịch sử dưới ảnh hưởng của
thuyết Đức trị
Trải theo chiều dài hàng nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước, trên cơ sở quan
điểm, tư tưởng của mình, nước ta cũng đã tiếp thu những tư tưởng, lý luận từ bên ngồi; ảnh
hưởng ấy nơng sâu, đậm nhạt như thế nào cũng tuỳ theo từng thời điểm khác nhau với những
tư tưởng, lý thuyết khác nhau. Thuyết Đức trị - nhìn từ góc độ chính trị học, quản lý học hay
Nho giáo - được du nhập vào Việt Nam theo gót chân của kẻ xâm lược (thời kỳ Bắc thuộc).
Do vậy, thời kỳ đầu, Nho giáo không khỏi bị nhìn nhận như một vũ khí xâm lược, thống trị,
đồng hố của nước ngồi, nó xung đột khơng nhiều thì ít với tư tưởng tín ngưỡng, phong tục
tập qn của đa số nhân dân và vì thế nó bị phản kháng mãnh liệt. Với phương châm “mất
nước chứ khơng mất làng”, ơng cha ta ngồi phương pháp đấu tranh vũ trang để giành lại tự
chủ, còn tiến hành hàng loạt phương pháp đấu tranh khác không kém phần gay go, quyết liệt,
nhằm phá tan âm mưu đồng hoá của địch, nhằm bảo tồn nòi giống, bảo tồn những phong tục
tập quán bản địa và những di sản văn hố truyền thống của mình; luỹ tre làng như những bức
tường thành kiên cố và gai góc, như những tấm áo giáp vững chãi khơng một thứ vũ khí nào
của địch có thể xuyên thủng được.
Đến thời kỳ chúng ta giành lại chủ quyển tự chủ, thời kỳ tiền lập quốc, Nho giáo vẫn
chưa thịnh. Các nhà Ngô, Đinh, tiền Lê, trong buổi đầu của việc xây dựng nhà nước phong
kiến dân tộc, chắc đã phải bận rộn quá nhiều với nhiệm vụ đuổi giặc ngồi, bình giặc trong
việc võ cấp thiết hơn là việc văn, thời gian thật là thanh bình trong nước chẳng mấy khi được
lâu dài. Nhà nước sử dụng nhân tài từ cả ba nguồn: Phật, Đạo, Nho mà trước hết là từ Phật

giáo rồi kế đó là Đạo giáo, cịn Nho giáo thì chưa được trọng thị lắm, nhân tài Nho giáo hãy
còn hiếm hoi, mờ nhạt như sao buổi sáng. Tập tục của triều đình thì xa lạ với tư tưởng Nho
giáo.
Bước ngoặt lớn lao trong lịch sử dân tộc cũng là bước ngoặt lớn trong tiên trình ảnh
hưởng của Nho giáo được đánh dấu từ khi nhà Lý thành lập. Suốt từ đó trong những vương
triều phong kiến kế tiếp nhau (tiêu biểu - Lý, Trần, Lê, Nguyễn) đều khơng nhiều thì ít sử
dụng Nho giáo, lấy Đức trị là kế sách đê’ trị nước - tiêu biểu nhất triều đình nhà Lê lấy Nho
giáo làm quốc giáo. Ngay ở triều đại nhà Lý, Phật giáo thịnh đạt đến cực độ, thật là một “thời
vàng” của Phật giáo. Phật giáo có thế lực nhất cả ở triều đình và dân chúng. Song Phật giáo
dù được sùng thượng đến đâu, dù “cố gằng nhập thế” đến mức nào, cơ bản nó cũng khơng
phải là một đạo trị nước. Nhà Lý sùng Phật, nhưng muốn trị nước, muốn củng cố chế độ
phong kiến, thì ở vào thế một nước láng giềng có nhiều mối quan hệ văn hoá và chủng tộc với

HVTH: Nguyễn Thành Đạt

16

MHV: 201800089


Tiểu luận triết học

GVHD: TS.Nguyễn Thị Nga

Trung Hoa, nhà Lý khơng thể khơng chọn Nho giáo. Có thể nói rằng, trong thời Lý, triều đình
sử dụng cả hai nguồn Nho và Phật để trị nước, Phật giáo ở đường tín ngưỡng là chính, Nho
giáo ở đường chính trị lần lần trở thành chính. Sở đĩ như vậy, bởi vì bản thân phật giáo đã
khơng thích ứng được với tư cách là công cụ cai trị, trái lại Đức trị Nho giáo với hệ thống các
nguyên tắc, các chuẩn mực rất chi tiết, rất cụ thể của nó, quy định, điều chỉnh hành vi của con
người, của xã hội đã thể hiện được tính ưu việt của mình đối với sự cai trị của các triều đình

phong kiến Việt Nam thời bấy giờ.
Từ nhà Lê trở đi, Nho giáo thành quốc giáo ở Việt Nam. Nho giáo đã góp phần đắc lực
trong cuộc chống Minh. Nhà Lê phát triển nhanh việc giáo dục và thi sử theo kiểu Trung
Quốc. Tiếp đó, sau khi nhà Nguyễn đánh thắng Tây Sơn, lập nền thống trị trên cả nước Việt
Nam từ Nam chí Bắc và uy quyền tuyệt đối của Nho giáo được khẳng định rõ rệt. Tuy nhiên,
có thể nói đây là triều đình phản động nhất nên Nho giáo cũng được sử dụng như một vũ khí
lợi hại nhưng khai thác nó ở những cái lạc hậu nhất biến nó thành hà khắc hơn nhiều, thần bí
hơn nhiều.
Tóm lại, suốt chiều dài lịch sử phong kiến Việt Nam, Nho giáo được sử dụng như một
phương thức cai trị đất nước về mặt chính trị. Ở góc độ quản lý xã hội thì nó được gọi là “Đức
trị”, “Văn trị” - đó là đạo trị nước, là tầm nhìn vĩ mơ, là ở cấp trung ương, triều đình. Ảnh
hưởng của phương thức cai trị này là rất lớn, nó được đánh giá cả về mặt tích cực, cũng như
mặt tiêu cực. Về mặt tí ch cực, nó đã góp phần cho các vương triều có một hệ tư tưởng phong
kiến chuẩn mực, hồn chỉnh bảo vệ lợi ích giai cấp thống trị, ổn định xã hội, thiết lập một trật
tự xã hội có tổ chức chặt chẽ, trên dưới rõ ràng, tuyển lựa được những người hiền tài, người
hiền vào giữ những cương vị lãnh đạo đất nước - từ đó tạo lập được thế mạnh nhất định của
một nhà nước phong kiến có tổ chức chặt chẽ, có sức mạnh to lớn chống lại hầu hết những
cuộc xâm lăng của kẻ thù, gây dựng phát triển đất nước đi lên không ngừng. Tuy nhiên, việc
dùng “Đức trị”, “văn trị”, lấy “Nho giáo” làm quốc giáo, quốc giáo độc tơn, thì trong triều
đình cũng như trong hàng sĩ phu, nhiều tập tục ngàn nãm vốn khá tốt đẹp của dân tộc, của dân
gian bị xem rẻ và ruồng bỏ. Việc trọng thị những người đỗ đạt qua con đường thi cử - mà chủ
yếu là học lý thuyết, đọc sách thánh hiền, từ đó tạo ra một đội ngũ quan chức, những người
lãnh đạo đất nước, những nhà quản lý chỉ nghiêng về lý thuyết, lễ nghĩa, câu chữ mà thiếu đi
kiến thức thực tế và nghiệp vụ quản lý. Họ như một tầng lớp bề trên, tách hẳn với nhân dân,
xa lạ với nhân dân. Việc học sách thánh hiền, làm theo những lời dạy của thánh hiền được
xem là chuẩn mực trong điều kiện thực tế riêng biệt ở nước ta và thời điểm lịch sử nhất định
đã gây ra nhiều bất cập, khiến cho công việc tổ chức điều hành không hiệu quả - bởi cái đúng

HVTH: Nguyễn Thành Đạt


17

MHV: 201800089


Tiểu luận triết học

GVHD: TS.Nguyễn Thị Nga

đắn ấy, cái hợp lý thời điểm của Khổng Tử nhưng kéo dài mãi cái đúng đắn ấy, duy trì mãi cái
hợp lý ấy trong khi điều kiện thực tiễn đã thay đổi (“lệ cổ”) sẽ trở nên bất cập, bảo thủ và sai
lầm.
2.1.2. Ảnh hưởng của thuyết Đức trị đối với việc rèn luyện đạo đức tư tưởng con
người
Đức trị là một thành phần cơ bản của Khổng học và Nho giáo ở Việt Nam. Như trên đã
phân tích, nó có ảnh hưởng sâu sắc và đã trở thành một bộ phận của tư tưởng và văn hố
truyền thống nước ta. Nó góp phần tạo nên các tập qn, thói quen, tình cảm, suy nghĩ... của
người Việt Nam qua nhiều thê hệ. Cho đến nay, mặc dù lịch sử có những bước thay đổi lớn
lao, tuy nhiên thuyết Đức trị vẫn ảnh hưởng ở những mức độ khác nhau trong các phạm vi và
lĩnh vực khác nhau của quản lý xã hội.
- Đối với quản lý gia đình:
Trong học thuyêt Nho giáo, gia đình vừa là tê bào của xã hội vừa là cơ sở để Nho giáo
xây dựng đường lôi đức trị. Vì vậy, nó cũng là một phạm trù lớn,chứa đựng nhiều nội dung
thâm thuý, ý nghĩa sâu xa có nhiều liên quan ảnh hưởng đến những phạm trù khác về đạo đức
và cuộc sống con người.
Thuyết Đức trị đã xây dựng nên những mối quan hệ chặt chẽ trong gia đình “cha ra cha,
con ra con, anh ra anh, em ra em, chồng ra chồng, vợ ra vợ, thế là gia đạo chính” - theo những
mối quan hệ ấy là hàng loạt những quy chuẩn tương ứng được đặt ra: hiếu, đễ, tam tòng, tứ
đức,... tất cả tạo nên một trật tự vơ cùng bền chặt thậm chí có khi rất khắc nghiệt. Quản lý gia
đình theo đó được đặc trưng bởi phong cách quản lý gia trưởng “cha mẹ đặt đâu con ngồi

đấy”, quyền lực tuyệt đối thuộc về người cha, người chồng... Có thể nhận định rằng, chung
quanh vấn đề gia đình, thuyết Đức trị đã có những kiến giải thích hợp, góp phần xây dựng và
duy trì những quan hệ xã hội ổn định trong những điều kiện lịch sử xã hội nhất định. Song
đồng thời cũng phải góp phần thấy được khơng ít những tiêu cực, gây tác hại khơng nhỏ trước
đây và cịn để lại hậu quả xấu cho đến ngày hôm nay.
Ngày nay, sự nghiệp đổi mới đang tạo ra nhiều sự đổi thav trong sinh hoạt gia đình.
Trong ỉĩnh vực sản xuất nơng nghiệp và thủ công nghiệp, nền kinh tế đã từ gia đình chuyển
sang tập thể nay lại ngược trở lại phát triển kinh tế hộ gia đình, lợi ích của gia đình khơng
thuộc một cách giản đơn vào lợi ích xã hội. Nó đang được phát triển mạnh mẽ trong mối quan
hệ hài hồ và hợp lý với lợi ích xã hội.
Làm giàu khơng cịn là việc đáng chê trách và cần phải e ngại. Nó đang được cổ vũ và
khuyến khích đối với gia đình và mỗi con người. Lợi ích chính đáng của gia đình và cá nhân

HVTH: Nguyễn Thành Đạt

18

MHV: 201800089


Tiểu luận triết học

GVHD: TS.Nguyễn Thị Nga

được tự do phát triển, đang là động cơ thúc đẩy trí tuệ và tài năng, phát huy truyền thống dũng
cảm và sáng tạo của cả dân tộc.
Tuy nhiên, xu hướng làm giàu đã nhiều lúc gắn liền với những hành động gian dối, lừa
đảo. giẫm đạp lên nhưng chuẩn mực thông thường cùa đạo đức. Đã dần dần làm xấu đi những
quan hệ truyền thống giữa cha con, chồng vợ. anh em, trong phạm vi gia đình. Trong thực tế,
lối quản lý ‘'gia đình trị”, bố trí cán bộ chủ chốt trong một tổ chức, nhất là doanh nghiệp nhà

nước, toàn là anh em. người nhà dễ dẫn đến tình trạng kéo bè kéo cánh, vì lợi ích cục bộ, là
ngun nhân cùa tinh trạng “ tham nhũng tập thể, có tổ chức”. Đó chính là mặt trái cùa
phương thức quản lý kiểu gia đình mà Nho giáo đã đề cao. Nếu như quan hệ xã hội bắt đầu từ
quan hệ gia đình, nếu như quy tắc ứng xử ngoài xã hội bắt đầu từ quy tắc ứng xừ trong gia
đình thì phải chãng những hiện tượng tiêu cực ngày nay cũng là kết quả cùa sự suy thối gia
đình? Phải chăng đã đến lúc cần khơi phục lại những yếu tố tích cực của thuyết Đức trị ở góc
độ xã hội, đê từ quan điểm nhân nghĩa của cha ỏng đưa đời sống phú quý cua xã hội đi vào
con đường lành mạnh? Và như thế rõ ràng "Đức trị" cịn có thể đem lại cho chúng ta rất nhiều
điều bổ ích.
Trong xã hội ta hơm nay và ngày mai, gia đình vẫn tiếp tục giữ một vai trò quan trọng
trong sự nghiệp chung của đất nước. Thuyết Đức trị trong xây dựng và quản lý gia đình tiếp
tục đem lại cho chúng ta nhiều điều bổ ích. Chúng ta cần phát huy những yếu tố tích cực trong
nó kết hợp với truyền thống gia đình quý báu của dân tộc ta, thích ứng trong điều kiện tình
hình mới của đất nước - như thê chúng ta sẽ có sự ổn định, tốt đẹp từ những tế bào, từ những
viên gạch đầu tiên đế xây dựng nên một xã hội mới văn minh, tươi đẹp hơn.
- Đối với rèn luyện tính cách và đạo đức con người
Có thể phân tích hai chiều ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của thuyết Đức trị trong Nho
giáo như sau:

+ Ảnh hưởng tích cực:

HVTH: Nguyễn Thành Đạt

19

MHV: 201800089


Tiểu luận triết học


GVHD: TS.Nguyễn Thị Nga

Mặt trái của kinh tế thị trường đã làm mai một những giá trị truyền thống, vì vậy tư
tưởng Đức trị của nho giáo đóng vai trị nền tảng trong xây dựng con người Việt Nam phát
triển tồn diện, mơi trường văn hóa lành mạnh, văn minh trên tất cả lĩnh vực đời sống:

-

Đạo đức của Nho gia góp phần nhất định trong việc giáo dục kỷ cương, nề nếp gia
đình và củng cố tinh thần trách nhiệm đối với gia đình, làng – xã;

-

Đạo đức của Nho giáo góp phần nâng cao tinh thần trách nhiệm của cha, mẹ, của
những người lớn tuổi, trở thành tấm gương đạo đức cho con cái noi theo. Bố, mẹ,
những người lớn tuổi đi trước có nền tảng đạo đức, tư tưởng lối sống lành mạnh là
cơ sở xây dựng nền tảng phát triển nhân cách cho các thế hệ mai sau;

-

Tư tưởng Nho gia nếu vận dụng đúng đắn góp phần xây dựng Đảng và nhà nước
vững mạnh.

+ Ảnh hưởng tiêu cực:
Thứ nhất: Mặt bảo thủ, lạc hậu của đạo đức Nho gia là một trong những rào cản tạo
nên sự bất bình đẳng giới trong việc phân công lao động và hưởng thụ các quyền lợi trong
gia đình và xã hội:
Trong quá trình tồn tại và phát triển gia đình, các mâu thuẫn, xung đột trong cuộc sống
vợ chồng là một điều tất yếu, khó tránh khỏi. Tuy nhiên, gia đình muốn tồn tại, phát triển bền
vững phải là một thực thể hài hòa, biết chấp nhận và giải quyết mâu thuẫn, xung đột hợp lý,

tránh đẩy tới bạo lực. Cùng với sự bất bình đẳng về giới thì việc phân cơng lao động và hưởng
thụ các quyền lợi trong gia đình và xã hội cũng bị ảnh hưởng. Một thói quen phổ biến hiện
nay là khi người chồng có địa vị thấp sẽ khó chấp nhận người vợ hoạt động xã hội, làm cán bộ
với những chức vụ nhất định, còn người vợ cũng xem đó như chuyện nghịch cảnh.
Thứ hai: Mặt bảo thủ, lạc hậu của đạo đức Nho gia là là một trong những rào cản xây
dựng gia đình văn hóa:
Văn hóa là cái nơi hình thành nên nhân cách và cách ứng xử của con người. Trong quá
trình tiếp biến văn hóa để từ đó xây dựng nên một gia đình văn hóa mới với những tiêu chí
đạo đức đảm bảo sự kế thừa và các giá trị truyền thống kết hợp với yếu tố thời đại, thì những
yếu tố bảo thủ, lạc hậu của đạo đức Nho giáo đang còn là trở ngại không nhỏ. Chúng ta biết
rằng, nền kinh tế thị trường luôn tác động mạnh mẽ đến hoạt động có mục đích của con người
nhằm nâng cao đời sống vật chất cho bản thân và cho gia đình. Xét về mặt đạo đức,, kinh tế
thị trường làm cho con người ta năng động hơn trong cách suy nghĩ và cách làm việc, hình

HVTH: Nguyễn Thành Đạt

20

MHV: 201800089


Tiểu luận triết học

GVHD: TS.Nguyễn Thị Nga

thành nhân cách tự chủ, độc lập rèn luyện ý thức kỷ luật lao động và sáng tạo. Những yếu tố
đó đã hình thành nên những phẩm chất đạo đức về nghĩa vụ công dân, ý chí, lịng dũng cảm,
tính ngun tắc, tính khiêm tốn, chất trí tuệ về hành vi đạo đức biết giải quyết mối quan hệ
giữa gia đình với xã hội, giữa cá nhân và tập thể.
Thứ ba: Lễ giá của đạo Nho ăn sâu vào giáo dục đạo đức gia đình nhiều khi gây nên

sự lãng phí, phiền tối trong đời sống gia đình xã hội:
Dẫu biết rằng Nho giáo là học thuyết luôn luôn tôn thờ và nhớ về nguồn cội. Một trong
những điểm tích cực, tiến bộ của Nho giáo là lấy lòng hiếu thảo phụng dưỡng cha me và thờ
cúng tổ tiên, coi trọng giòng giống, họ hàng. Nho giáo còn quy định về dòng họ, giữa những
người thân thuộc họ bên nội và họ bên ngoại. Những quan hệ đó khơng chỉ có quan hệ tình
cảm mà cịn có trách nhiệm và nghĩa vụ với nhau.
2.2. Vấn đề phát huy tính tích cực của thuyết Đức trị và hạn chế tiêu cực của
nó đối với phương thức rèn luyện đạo đức trong giai đoạn hiện nay
Tìm hiểu, nghiên cứu về thuyết Đức trị khi nó đã từng tồn tại trên 2500 năm và luôn
được bổ sung, cải biến qua nhiều thời kỳ khác nhau là điều không mấy dễ dàng, hơn nữa lại là
khai thác thuyêt Đức trị dưới góc độ quản lý xã hội trong điều kiện cụ thể trực tiếp ở Việt
Nam hiện nay thì cơng việc càng khó khăn gấp bội. Tuy nhiên, trên cơ sở những nghiên cứu,
phân tích một cách hệ thống ở phần trước, tôi xin đề xuất một số giải pháp cơ bản có tính định
hướng sau:
Thứ nhất, Cần tiếp tục nghiên cứu và đánh giá một cách có hệ thống, khoa học vê vị trí,
vai trị và ảnh hưởng của Nho giáo nói chung, thuyết Đức trị nói riêng, đối với cách rèn luyện
tư tưởng đạo đức của người Việt Nam.
Ở nước ta, các cơng trình nghiên cứu về Nho giáo và thuyết Đức trị của nó đã có rất
nhiều, rất cơng phu, tuy nhiên hầu hết đều khai thác dưới góc độ triết học, đạo đức học... Như
chúng ta đã biết, thuyết Đức trị là một học thuyết chính trị - xã hội, nó ra đời và tồn tại suốt
một thời gian dài trong lịch sử, nó đã từng là công cụ thống trị của giai cấp phong kiến một
cách hữu hiệu và như thế, nó là một lý thuyết của quản lý, lý thuyết về sự cai trị. Do vậy, mặc
dù cách gọi phổ biến của lý thuyết này là Nho giáo thì ở đây khơng chỉ hiểu “giáo” là “tơn
giáo”, là một loại hình “tơn giáo” mà còn là “giáo dục”, là “con đường” là “phương pháp”, là
một đạo trị nước, là một trào lưu tư tưởng riêng biệt, hay dưới góc độ khoa học quản lý có thể
coi đây là một lý thuyết về phương thức quản lý.

HVTH: Nguyễn Thành Đạt

21


MHV: 201800089


Tiểu luận triết học

GVHD: TS.Nguyễn Thị Nga

Do vậy, tổ chức nghiên cứu, đánh giá học thuyết quản lý “Đức trị” một cách quy mơ,
tồn diện - tìm ra những cái tinh tuý của nó, cái căn cốt của nó, cái vượt thời đại của nó - trên
cơ sở những nét đặc trưng trong phương thức quản lý của người Việt. Từ đó tìm ra sự kết hợp
độc đáo, hình thành hệ phương thức quản lý hiệu quả cho chúng ta ngày nay - là việc làm rất
thiết thực và có ý nghĩa vô cùng to lớn.
Thứ hai, Phát huy những chuẩn mực đạo đức tốt đẹp của học Đức trị Nho giáo đối với
mọi tầng lớp để xây dựng phẩm chất con người hiện nay.
Đức trị Nho giáo đưa ra hệ chuẩn mực, những nguyên tắc đạo đức rất khắt khe đối với
bộ phận những quan lại, chức sắc, những đấng bề trên, “cha mẹ của dân”, đòi hỏi họ phải là
những người quang minh, chính trực, thanh liêm, những bậc đại nhân quân tử, đức cao vọng
trọng. Đối với vua thì phải là đấng minh quân, vua hiền sao cho “như ngôi sao bắc đẩu khiến
các ngôi sao khác đều phải nhìn về”, mọi người được coi là bề trên phải nêu gương để người
dưới noi theo. Giá trị đạo đức đích thực của cả người trên và người dưới là phải thương yêu,
đoàn kết lẫn nhau, cùng xây dựng sức mạnh cộng đồng, biết chấp nhận hy sinh lợi ích cá nhân
vì nước, mọi người ai ở địa vị nào, bổn phận nào giữ đúng, làm đúng chức năng, nhiệm vụ ở
địa vị, bổn phận đó.
Việt Nam đang trong thời kỳ đơi mới, đang trong q trình hội nhập quốc tế, đang dần
hoàn thiện nhà nước pháp quyền và cơ chế thị trường. Tất cả còn đang ở trước mắt, cịn đang
vật lộn với những khó khăn chồng chất, nhiệm vụ đối với cán bộ và nhân dân trong sự nghiệp
xây dựng XHCN còn rất nặng nề và gian nan. Trong bối cảnh ấy, một bộ phận không nhỏ cán
bộ đảng viên của chúng ta hiện nay đã không giữ được kiên định, hoang mang, dao động, phai
nhạt lý tưởng, một bộ phận tha hoá biến chất, suy thối đạo đức trầm trọng, có lối sống thực

dụng, chạy theo đồng tiền, để đồng tiền chi phối, từ đó đã lợi dụng chức quyền để tham ô,
tham nhũng, rút ruột nhà nước, cậy thế, cậy quyền hạch sách nhân dân, gây phiền hà cho nhân
dân... Còn quần chúng nhân dân trước những luồng gió mới của cơ chế thị trường cũng đã có
những biến đổi sâu sắc, những nếp sống, thói quen, những chuẩn mực đạo đức, ứng xử của
người dân theo nét truyền thống đã bị lu mờ đi nhiều. Giờ đây, tình trạng coi thường tơn ti trật
tự trong gia đình, con cái ngược đãi cha mẹ, cha mẹ thì khơng quan tâm đến con cái, anh em
mâu thuẫn, bất đồng, dịng tộc thì xung đột, ganh ghét, lẫn nhau.... diễn ra khá phổ biến.
Vấn đề đặt ra là cần khắc phục ngay tình trạng suy thối trên, cần nghiêm túc nhìn nhận
lại những biến đổi theo chiều hướng tiêu cực như vậy ở nước ta hiện nay, từ đó thấy rằng, xây
dựng một hệ chuẩn mực mới cho người cán bộ công chức cũng như đời sống văn hoá mới
trong dân cư là hết sức cần thiết. Trên cơ sở ấy, việc kế thừa và phát huy những chuẩn mực tốt

HVTH: Nguyễn Thành Đạt

22

MHV: 201800089


Tiểu luận triết học

GVHD: TS.Nguyễn Thị Nga

đẹp của Đức trị Nho giáo, thiết nghĩ, đó là điều có ý nghĩa vô cùng to lớn và rất thiết thực.
Riêng về phẩm chất người làm chính trị, đạo Nho cũng quy định là phải có thái độ nghiêm túc
đối với cơng việc; phải trung thực, tiết kiệm và thương yêu mọi người; khi muốn động viên
nhân dân làm việc gì thì phải chú ý thời vụ. Đối với con người phục vụ cho chế độ, Nho giáo
cũng địi hỏi “kính kỳ sự nhi hậu kỳ thực”, theo nghĩa hiện đại của chúng ta là hãy lo phục vụ
cho tốt, đừng vội đòi hỏi đãi ngộ... Đó là những điều mà chúng ta không thể không suy nghĩ
và vận dụng trong đời sống chính trị và quản lý xã hội hơm nay.

Thứ ba, Chủ động tham khảo kinh nghiệm khai thác Đức trị Nho giáo ở một số nước
cháu Á (Nhật Bản, Hàn Qc, Singapore) để đưa ra những cái nhìn tổng qt hơn trong việc
ứng dụng thực tiễn sao cho hiệu quả, tránh lãng phí và rườm rà
Trong những thập kỷ gần đây, giới nghiên cứu đã đánh giá lại vai trò của Đức trị Nho
giáo trong quản lý xã hội ở một số nước và lãnh thổ của Châu Á (Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài
Loan, Singapore) - là những nước có truyền thống Nho giáo lâu đời. Có nhiều nhận định khác
nhau, song tựu trung lại đều thống nhất Đức trị Nho giáo đã góp phần quan trọng vào sự phát
triển thịnh vượng của các quốc gia đó trong những thập kỷ gần đây. Việt Nam và những nước
trên đều có những điểm tương đồng về mặt kinh tế, chính trị, văn hoá. Với tinh thần chủ động,
sáng tạo, chúng ta có thể tham khảo kinh nghiệm khai thác những giá trị tích cực của Nho
giáo ở các nước này để phục vụ cho sự nghiệp đổi mới.
Tham khảo kinh nghiệm khai thác Đức trị Nho giáo ớ những nước này, địi hỏi chúng ta
phải có tinh thần sáng tạo, bên cạnh đó cũng cần có thái độ thận trọng bởi Đức trị Nho giáo
với tư cách là hệ tư tưởng cũ, đã có khơng ít những ảnh hưởng tiêu cực trên các lĩnh vực của
đời sống xã hội, đặc biệt trong lĩnh vực chính trị, quản lý xã hội như đã trình bày ở phần
trước.
Về yêu cầu cơ bản của một bộ máy cai trị, bộ máy quản lý thì dù xưa hay ngày nay đểu
cần phải đảm bảo là “túc thực, túc binh, dân tín”. Đây là mục tiêu của một nhà nước, đồng
thời cũng là các biện pháp cơ bản để quản lý xã hội, quản lý đất nước. Khơng có ba điều ấy tất
khơng thể cai trị được. Cũng trong vấn đề trị nước, phải xác định được lực lượng quyết định
nhất trong sự thành bại, thịnh suy của một triều đại là Dân. “Dân là gốc nước, gốc bền thì
nước yên”. Đây cũng là giá trị nền tảng cơ bản, rất vững chãi của Đức trị Nho giáo mà các
nước trên khai thác va phát huy rất tốt, và đó cũng là vấn đề chúng ta cần suy nghĩ họctập, rút
kinh nghiệm.
Thứ tư: Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam để khắc phục
những hạn chế, tàn dư xấu mà Đức trị Nho giáo để lại.

HVTH: Nguyễn Thành Đạt

23


MHV: 201800089


Tiểu luận triết học

GVHD: TS.Nguyễn Thị Nga

Hơn một nghìn năm Bắc thuộc với ảnh hưởng của tư tưởng Đức trị Nho giáo - đó là
qng thời gian rất dài hình thành nên tập quán sống theo lệ làng chứ không theo pháp luật
của người dân Việt Nam. Trong các thế kỷ tiếp theo, khi nước nhà đã giành được độc lập, có
triều đình phong kiến Việt Nam đã xây dựng các bộ luật (Luật Hồng Đức-thời Lê, Luật Gia
Long-thời Nguyễn) nhằm cai trị theo pháp luật. Tuy nhiên, nhà nước và pháp luật phong kiến
nhìn chung cịn hà khắc, và là cơng cụ áp bức, bóc lột nhân dân lao động của giai cấp thống trị
phong kiến. Do đó phần nào lại vẫn gây sự thờ ơ, khinh thường, thái độ tiêu cực của đông đảo
quần chúng nhân dân đối với pháp luật. Cho đến hiện nay, nhân dân ta vẫn cịn tồn tại thói
quen sống theo cơng thức đạo đức đã trở thành tập quán chứ không sống theo pháp luật. Đó
phần nào là sản phẩm của sự ảnh hưởng tiêu cực của Đức trị Nho giáo ở Việt Nam suốt một
thời gian dài trong lịch sử. Vì vậy, xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyển XHCN Việt
Nam là giải pháp nhằm khắc phục tình trạng đó.
Thứ năm: Thực hiện dân chủ hố trong tồn xã hội nhằm khắc phục tính chun quyền
độc đốn do Đức trị Nho giáo để lại:
Một phương diện quan trọng để khắc phục ảnh hưởng tiêu cực của Đức trị Nho giáo
trong quản lý ở nước ta hiện nay là cần phải thực hiện dân chủ hố trong tồn xã hội.
Nền dân chủ XHCN vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển của xã hội ta. Xây dựng
nền dân chủ XHCN là đòi hỏi tất yếu khách quan của quá trình cách mạng XHCN, đồng thời
nền dân chủ XHCN từng bước được xây dựng, hoàn thiện sẽ tạo điểu kiện cho việc đấu tranh
khắc phục mọi ảnh hưởng tiêu cực của tư tưởng Nho giáo trong đội ngũ cán bộ cũng như
trong toàn xã hội
Thực hiện xây dựng XHCN ở nước ta trong thời gian qua cho thấy, nước ta chưa thực

hiện được một cách đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân mà cách mạng xác lập.

Trong xã

hội vẫn cịn khơng ít hiện tượng mất dân chủ, dân chủ hình thức, có nơi rất nghiêm trọng.
Bệnh quan liêu, tư tưởng phong kiến, gia trưởng cịn nặng”.
Những khuyết điểm đó cho thấy mất dân chủ đi liền với tư tưởng phong kiến Nho giáo,
góp phần tạo nên những hiện tượng tiêu cực, trì trệ trên các mặt đời sống xã hội. Vì vậy, thực
hiện dân chủ trong tồn xã hội là giải pháp tích cực nhằm hạn chế những hiện tượng tiêu cực
trên. Dân chủ hố XHCN có nội dung cơ bản là xây dựng nền dân chủ XHCN và xác lập
những điều kiện cần thiết để nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình một cách thực sự,
đầy đủ, làm cho dân chủ từng bước đi sâu vào mọi mặt đời sống xã hội.
Tác dụng của việc thực hiện dân chủ hố ở chỗ, trước hết nó làm cho nhân dân thực thi
được quyền lực của mình. Mọi quyền lực đều xuất phát từ nhân dân, do nhân dân, vì nhân

HVTH: Nguyễn Thành Đạt

24

MHV: 201800089


Tiểu luận triết học

GVHD: TS.Nguyễn Thị Nga

dân; nhân dân kiểm tra, giám sát, phản biện. Quyền lực của nhân dân được thực hiện tập trung
thống nhất ở Quốc hội - cơ quan quyền lực cao nhất do dân bẩu ra, được nhân dân uỷ quyền,
gắn liền với sự kiểm tra, giám sát, phản biện của nhân dân. Đây là cơ chế chặt chẽ, vừa linh
động, cho phép kết hợp đúng đắn tính tự giác, tính năng động vươn lên của cá nhân dưới sự

kiểm tra giám sát, phê phán của nhân dân. Cơ chế này cho phép phát hiện và khắc phục kịp
thời mọi biểu hiện tiêu cực ở cán bộ, nhất là các bệnh giáo điều, quan liêu, gia trưởng những
căn bệnh có nguồn gốc từ xã hội phong kiến Nho giáo hàng năm về trước.
Dân chủ hoá là q trình phát huy mọi năng lực sáng tạo, tích cực của mọi thành viên
trong xã hội nên nó có khẳ năng chống lại mọi hiện tượng bảo thủ, trì trệ, phá vỡ mọi thành
kiến, đố kỵ, bè phái, cục bộ, đẳng cấp, đặc quyền, đặc lợi. Dân chủ hoá tiến tới sự thực hiện
rộng rãi nền dân chủ XHCN, tự nó tạo ra cơ chế thúc đẩy việc làm chủ của mỗi con người và
khả năng đóng góp của họ. Như vậy thực hiện dân chủ hoá XHCN vừa tạo ra môi trường xã
hội rộng lớn để thực hiện dân chủ đầy đủ hơn, vừa giáo dục dân chủ cho cán bộ và nhân dân,
vừa tạo động lực bên trong thúc đẩy mỗi con người suy nghĩ và hành động theo nhưng giá trị
văn minh của dân chủ XHCN, đồng thời tạo ra cơ chế xã hội năng động, chặt chẽ giúp cán bộ
và nhân dân ta vượt lên trên sự ảnh hưởng tiêu cực của tư tương Nho giáo. Dân chủ hoá xã
hội là cơ sở để phát huy sức dân, để thực hiện đại đoàn kết dân tộc - động lực to lớn nhất
trong sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta hiện nay.
Thực tiễn đất nước sau 15 năm đổi mới đã chứng minh: Cùng với sự nghiệp đổi mới
tồn diện, dân chủ hố XHCN đã đạt những bước phát triển quan trọng góp phần tạo ra môi
trường xã hội tốt đẹp hơn, lành mạnh hơn cho sự phát triển kinh tế, văn hóa….

KẾT LUẬN

HVTH: Nguyễn Thành Đạt

25

MHV: 201800089


×