Tải bản đầy đủ (.pdf) (76 trang)

Mối quan hệ giữa điều ước quốc tế và pháp luật quốc gia

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (678.91 KB, 76 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
LÊ THỊ MAI ANH

MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐIỀU ƢỚC QUỐC TẾ VÀ
PHÁP LUẬT QUỐC GIA
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT QUỐC TẾ
Mã số: 60 38 60

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN:
TIẾN SỸ NGUYỄN THỊ THUẬN

HÀ NỘI 2011


MỤC LỤC
Mở đầu

1

CHƢƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐIỀU ƢỚC QUỐC TẾ
VÀ MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐIỀU ƢỚC QUỐC TẾ VÀ PHÁP LUẬT
QUỐC GIA

5


1. 1.Khái quát về điều ước quốc tế

5

1.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của điều ước quốc tế

5

1.1.2. Khái niệm điều ước quốc tế

7

1.1.3. Đặc điểm của điều ước quốc tế

8

1.1.4. Vai trò của điều ước quốc tế

12

1.2. Một số vấn đề về cơ sở lý luận của mối quan hệ giữa điều ước quốc tế và
pháp luật trong nước.

15

1.2.1. Các học thuyết về mối quan hệ giữa điều ước quốc tế và pháp luật quốc
gia.

15


1.2.1.1. Thuyết nhất nguyên luận

15

1.2.1.2. Thuyết nhị nguyên luận

17

1.2.2. Cơ sở của mối quan hệ giữa điều ước quốc tế và pháp luật quốc gia

20

1.2.3. Nội dung mối quan hệ giữa điều ước quốc tế và pháp luật quốc gia

23

1.2.4. Thực hiện điều ước quốc tế trong phạm vi lãnh thổ quốc gia

27

CHƢƠNG II: THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐIỀU
ƢỚC QUỐC TẾ VÀ PHÁP LUẬT QUỐC GIA Ở MỘT SỐ NƢỚC

34

2.1. Hệ thống pháp luật Civil Law

34

2.1.1. Thực tiễn giải quyết mối quan hệ giữa điều ước quốc tế và pháp luật

quốc gia của Cộng hòa Pháp.

34

2.1.2. Thực tiễn giải quyết mối quan hệ giữa điều ước quốc tế và pháp luật
quốc gia của Liên bang Nga

38


2.2. Hệ thống pháp luật Common Law

39

2.2.1. Thực tiễn giải quyết mối quan hệ giữa điều ước quốc tế và pháp luật
quốc gia của Vương quốc Anh

39

2.2.2. Thực tiễn giải quyết mối quan hệ giữa điều ước quốc tế và pháp luật
quốc gia của Hoa Kỳ

41

2.3. Hệ thống pháp luật một số nước ASEAN

43

2.3.1. Thực tiễn giải quyết mối quan hệ giữa điều ước quốc tế và pháp luật
quốc gia của Thái Lan.


43

2.3.2. Thực tiễn giải quyết mối quan hệ giữa điều ước quốc tế và pháp luật
quốc gia của Malaysia.

44

2.3.3. Thực tiễn giải quyết mối quan hệ giữa điều ước quốc tế và pháp luật
quốc gia của Phillipines.

47

2.3.4. Thực tiễn giải quyết mối quan hệ giữa điều ước quốc tế và pháp luật
quốc gia của Singapore

48

CHƢƠNG III. THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐIỀU
ƢỚC QUỐC TẾ VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM

51

3.1. Khái quát quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật về điều ước quốc tế
ở nước ta

51

3.1.1. Quy định của Hiến pháp về quan hệ giữa điều ước quốc tế và pháp luật
Việt Nam


51

3.1.2. Quy định của các văn bản quy phạm pháp luật chuyên biệt về mối quan

57

hệ giữa điều ước quốc tế và pháp luật Việt Nam
3.1.2.1.Về nguyên tắc ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế

61

3.1.2.2. Về cách thức thực hiện điều ước quốc tế của Việt Nam.

62

3.2. Những kết quả đạt được trong việc giải quyết mối quan hệ giữa điều ước
quốc tế và pháp luật Việt Nam.

63

3.3. Một số tồn tại liên quan đến mối quan hệ giữa điều ước quốc tế và pháp
luật của Việt Nam

65

3.4. Một số kiến nghị nhằm khắc phục những tồn tại liên quan đến mối quan hệ
giữa điều ước quốc tế và pháp luật của Việt Nam

67


KẾT LUẬN

70


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Mối quan hệ giữa điều ước quốc tế và pháp luật quốc gia là một trong
những vấn đề lý luận và thực tiễn rất được quan tâm trong khoa học pháp lý
quốc tế cũng như trong khoa học pháp lý ở Việt Nam hiện nay. Mối quan hệ
này đặt ra hàng loạt vấn đề cấp thiết địi hỏi phải có sự luận giải vừa mang
tính khoa học, vừa mang tính chính trị pháp lý nhằm giải quyết các vấn đề
sau:
- Thứ nhất, pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia có phải là hai bộ
phận cấu thành của cùng một hệ thống pháp luật thống nhất hay không? Các
quy phạm điều ước quốc tế có vị trí thế nào trong mối tương quan so sánh với
các quy phạm pháp luật quốc gia?
- Thứ hai, việc áp dụng điều ước quốc tế được thực thi bằng phương
thức nào? Nói một cách khác, điều ước quốc tế sau khi đã hoàn tất các thủ tục
ký kết, sẽ được áp dụng trực tiếp hay phải thơng qua một thủ tục chuyển hóa
bằng việc sửa đổi hoặc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật quốc gia.
Do vậy, việc giải quyết một cách triệt để các vấn đề nêu trên đặt nền móng
cho những luận cứ khoa học vô cùng quan trọng, nhằm xây dựng và hoàn
thiện cơ chế thực thi pháp luật quốc tế - đặc biệt là cơ chế thực thi các điều
ước quốc tế theo nguyên tắc Pacta sunt servanda; bảo vệ tối đa lợi ích dân tộc,
bảo vệ triệt để chủ quyền và an ninh quốc gia trong điều kiện hội nhập và tồn
cầu hóa.

2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Trên thực tế, đã có một số đề tài, cơng trình nghiên cứu về các vấn đề
khác nhau liên quan đến mối quan hệ giữa điều ước quốc tế và pháp luật quốc
gia. Ở Việt Nam đã có một số cơng trình nghiên cứu về đề tài này như: Đề tài
khoa học “Mối quan hệ giữa điều ước quốc tế của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam và pháp luật Việt Nam” do tiến sỹ Hà Hùng Cường làm chủ nhiệm;


2

Đề tài khoa học “Nội luật hóa các điều ước quốc tế Việt Nam ký kết và tham
gia phục vụ q trình hội nhập kinh tế quốc tế” do phó giáo sư, tiến sỹ Hoàng
Phước Hiệp làm chủ nhiệm. Ngoài ra, giáo trình luật quốc tế của một số cơ sở
đào tạo luật như Đại học Luật Hà Nội, Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh
và một số bài viết trong các tạp chí cũng bàn về các khía cạnh khác nhau của
mối quan hệ giữa điều ước quốc tế và pháp luật quốc gia. Tuy nhiên, các đề
tài nghiên cứu, các bài viết nói trên thường đề cập đến mối quan hệ giữa điều
ước quốc tế và pháp luật quốc gia một cách chung chung hoặc đi sâu nghiên
cứu về một lĩnh vực trong mối quan hệ tổng quát, chưa bàn sâu về thực chất
mối quan hệ giữa điều ước quốc tế và pháp luật quốc gia và chưa nghiên cứu
một cách tổng thể, toàn diện vấn đề này.
3. Mục đích và phạm vi nghiên cứu của luận văn
a. Mục đích nghiên cứu của luận văn
Làm rõ một số vấn đề cơ bản về điều ước quốc tế trong pháp luật quốc
tế đặc biệt là mối quan hệ giữa điều ước quốc tế và pháp luật quốc gia, từ đó
có cơ sở khoa học cho việc đánh giá pháp luật điều ước quốc tế của Việt Nam
và xác định phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật điều ước quốc tế
Việt Nam nói chung và thực thi điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên
trong tiến trình hội nhập.
b. Phạm vi nghiên cứu của luận văn

Mối quan hệ giữa điều ước quốc tế và pháp luật quốc gia là một vấn
đề phức tạp cả về lý luận, thực tiễn không chỉ đối với Việt Nam mà cả đối với
nhiều nước trên thế giới. Trong phạm vi luận văn này, tác giả chỉ đề cập đến
một số vấn đề lý luận cơ bản và thực tiễn giải quyết mối quan hệ này ở một số
nước, trong đó có Việt Nam nhằm góp phần làm sáng tỏ mối quan hệ giữa
pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia nói chung cũng như mối quan hệ giữa
điều ước quốc tế và pháp luật Việt Nam nói riêng.


3

Để thực hiện mục tiêu trên, luận văn tập trung giải quyết những nội
dung sau:
- Nghiên cứu một số vấn đề lý luận về mối quan hệ giữa điều ước quốc
tế và pháp luật quốc gia.
- Phân tích nội dung mối quan hệ giữa điều ước quốc tế và pháp luật
quốc gia trong một số hệ thống pháp luật cơ bản và thực tiễn pháp luật của
Việt Nam về mối quan hệ giữa điều ước quốc tế và pháp luật quốc gia.
- Chỉ ra những vướng mắc và hạn chế trong các quy định pháp luật
Việt Nam hiện hành về mối quan hệ giữa điều ước quốc tế và pháp luật quốc
gia, những yêu cầu khách quan đặt ra trong tiến trình cải cách tư pháp và hội
nhập quốc tế, đồng thời nêu ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật
Việt Nam về vấn đề này.
c. Phương pháp nghiên cứu
Để hồn thành mục đích và những nhiệm vụ được đặt ra, trên cơ sở
phương pháp luận duy vật biện chứng, luận văn sử dụng các phương pháp
nghiên cứu cụ thể sau: phương pháp lịch sử, phương pháp phân tích, phương
pháp khái qt hóa, phương pháp tổng hợp... Đặc biệt, các phương pháp
nghiên cứu đặc trưng của khoa học pháp lý như: phương pháp phân tích quy
phạm cụ thể, phương pháp so sánh luật, phương pháp quy nạp và diễn dịch...

được sử dụng chủ yếu trong luận văn.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
a. Điểm mới của luận văn
Phân tích một cách tổng thể, tồn diện các khía cạnh pháp lý của một
số vấn đề lý luận cơ bản về mối quan hệ giữa điều ước quốc tế và pháp luật
quốc gia cũng như kinh nghiệm của một số nước trong việc giải quyết mối
quan hệ này.
Trên cơ sở các nguyên lý, lý luận, đường lối chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước và kinh nghiệm của một số nước – luận văn đưa ra những


4

kiến nghị nhằm giải quyết tốt mối quan hệ giữa pháp luật quốc tế và pháp luật
Việt Nam, vấn đề thực hiện các cam kết quốc tế phát sinh từ các điều ước
quốc tế nói chung và từ các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham
gia nói riêng, từ đó góp phần đảm bảo thực thi hiệu quả các cam kết quốc tế
của Việt Nam và đấu tranh cho sự tiến bộ của pháp luật quốc tế trong xu thế
hội nhập toàn cầu.
b. Ý nghĩa của luận văn
Cung cấp cơ sở lý luận cho việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện quy
định về mối quan hệ giữa điều ước quốc tế và pháp luật quốc gia nói chung,
mối quan hệ giữa điều ước quốc tế và pháp luật Việt Nam nói riêng.
c. Kết cấu của luận văn gồm 3 chƣơng
Chƣơng I: Một số vấn đề lý luận về điều ước quốc tế và mối quan hệ
giữa điều ước quốc tế và pháp luật quốc gia
Chƣơng II: Thực tiễn giải quyết mối quan hệ giữa điều ước quốc tế và
pháp luật quốc gia ở một số nước
Chƣơng III: Thực tiễn giải quyết mối quan hệ giữa điều ước quốc tế
và pháp luật Việt Nam.



5

CHƢƠNG I :
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐIỀU ƢỚC QUỐC TẾ VÀ MỐI
QUAN HỆ GIỮA ĐIỀU ƢỚC QUỐC TẾ VÀ PHÁP LUẬT QUỐC GIA
1. 1.Khái quát về điều ƣớc quốc tế
1.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của điều ƣớc quốc tế
Là một bộ phận quan trọng của pháp luật quốc tế, quá trình hình thành
và phát triển của điều ước quốc tế gắn liền với sự hình thành và phát triển của
pháp luật quốc tế qua các thời kỳ.
Lịch sử tồn tại và phát triển của xã hội loài người đã chứng minh rằng
cùng với sự xuất hiện của các quốc gia độc lập, quan hệ giữa các quốc gia
cũng dần được hình thành trong quá trình thiết lập biên giới, quá trình ký kết
điều ước quốc tế để liên minh, liên kết chống ngoại xâm, cùng giải quyết hậu
quả chiến tranh...Theo một số tài liệu khảo cổ học thì những điều ước quốc tế
đầu tiên được ký kết là vào khoảng thế kỷ 30 trước Công nguyên giữa các
quốc gia cổ đại ở Trung Đông. Trong số đó nổi tiếng nhất có thể kể đến Hòa
ước giữa Vua AI Cập Ramzek II và Vua Hatturin III năm 1278 trước Công
nguyên. Tuy nhiên, trong thời kỳ này các điều ước quốc tế cịn rất “thơ sơ” và
chưa được sử dụng rộng rãi. Về phạm vi, chúng chỉ được áp dụng để điều
chỉnh quan hệ giữa các quốc gia trong cùng một khu vực mà chủ yếu là giữa
các quốc gia chiếm hữu nơ lệ có tiềm lực mạnh, về nội dung điều ước quốc tế
thời kỳ này chủ yếu điều chỉnh quan hệ chiến tranh.
Sang thời kỳ phong kiến, cùng với sự phát triển của chế độ phong kiến,
quan hệ giữa các quốc gia phong kiến ngày càng được mở rộng trên nhiều
lĩnh vực như thương mại, khai thác và sử dụng biển, thiết lập và duy trì quan
hệ ngoại giao, quan hệ lãnh sự… Điều này dẫn đến việc hình thành một loạt
các nguyên tắc, các quy phạm được ghi nhận trong các điều ước quốc tế về



6

biển, về thương mại, về ngoại giao và lãnh sự. Một trong những nguyên tắc
kinh điển vẫn còn tồn tại đến ngày nay được ghi nhận nhiều nhất trong các
văn bản điều ước quốc tế và trong quan hệ giữa các nước là nguyên tắc Pacta
- sunt - servanda.
Pháp luật quốc tế thời kỳ tư bản chủ nghĩa được đánh giá có sự phát
triển vượt bậc. Đặc biệt trong thời kỳ chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, các
điều ước quốc tế đã được ký kết trên nhiều lĩnh vực giữa các chủ thể của Luật
quốc tế và không chỉ giới hạn trong phạm vi khu vực mà đã mở rộng ra ở
phạm vi quốc tế. Các điều ước bắt đầu được soạn thảo theo những mẫu chung
nhất định, dựa trên những nguyên tắc được thừa nhận rộng rãi như nguyên tắc
bình đẳng về chủ quyền giữa các quốc gia, nguyên tắc không can thiệp vào
công việc nội bộ của nhau... Giai đoạn chủ nghĩa tư bản lũng đoạn, những
nguyên tắc này bị vi phạm nghiêm trọng bởi sự đàn áp thô bạo của giai cấp tư
sản ở các nước đế quốc với các nước thuộc địa. Do tính tự do thỏa thuận của
các điều ước quốc tế không được đảm bảo nên nhiều điều ước quốc tế thời kỳ
này mang tính hình thức, chỉ thể hiện ý chí của giai cấp tư sản và là công cụ
để giai cấp tư sản phân chia lãnh thổ cai trị, lũng đoạn thị trường cũng như
bảo vệ lợi ích của mình trong các quan hệ quốc tế.
Sau cách mạng Tháng Mười Nga, sự hình thành hệ thống các nước xã
hội chủ nghĩa đã mở ra một thời kỳ mới cho lịch sử phát triển của pháp luật
quốc tế - thời kỳ Luật quốc tế hiện đại. Luật quốc tế đã thực sự thay đổi sâu
sắc về mọi mặt khi có sự tương quan lực lượng giữa các giai cấp trên thế giới.
Các điều ước quốc tế cũng thay đổi cả về nội dung và hình thức. Về nội dung
các điều ước quốc tế thời kỳ này ghi nhận các quan điểm dân chủ, tiến bộ, bảo
đảm quyền bình đẳng giữa các dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ của các quốc gia.
Các ngun tắc phản động dần được xóa bỏ hồn toàn. Một trong những điều

ước quốc tế quan trọng nhất đánh dấu sự thay đổi mạnh mẽ này là Hiến


7

chương Liên hợp quốc. Hiến chương đã ghi nhận nhiều nguyên tắc cơ bản
điều chỉnh quan hệ hợp tác như: ngun tắc giải quyết hịa bình các tranh
chấp quốc tế, cấm dùng vũ lực và đe dọa dùng vũ lực.. Sự hình thành của
Hiến chương Liên hợp quốc cũng cho thấy sự phát triển về phạm vi của các
điều ước quốc tế, không chỉ dừng lại ở quan hệ khu vực mà còn phát triển
rộng khắp các quốc gia trên thế giới, tiến tới xu hướng tồn cầu hóa trong các
giai đoạn sau của thời kỳ này. Các lĩnh vực ký kết điều ước quốc tế cũng ngày
càng mở rộng điều chỉnh hầu hết các quan hệ chính trị, kinh tế, văn hóa…
1.1.2. Khái niệm điều ƣớc quốc tế
Vấn đề pháp điển Luật điều ước quốc tế được thảo luận khá sớm, song
chỉ trong khuôn khổ Liên hợp quốc tới năm 1969 mới soạn thảo và thông qua
được Công ước Viên về Luật điều ước quốc tế và mãi đến năm 1980 Cơng
ước này mới có hiệu lực. Cơng ước Viên 1969 về Luật điều ước quốc tế đã
pháp điển hóa và phát triển hàng loạt các quy phạm vốn là tập quán quốc tế
trong lĩnh vực điều ước quốc tế. Điều 1 của Công ước quy định rõ: “Điều ước
là từ dùng để chỉ một thoả thuận quốc tế được ký kết bằng văn bản giữa các
quốc gia và được pháp luật quốc tế điều chỉnh, dù được ghi nhận trong một
văn kiện duy nhất hoặc trong hai hay nhiều văn kiện có quan hệ với nhau và
bất kể tên gọi riêng của nó là gì”. Trên cơ sở phạm vi điều chỉnh, Công ước
Viên năm 1969 về Luật điều ước quốc tế chỉ tiếp cận điều ước quốc tế mà chủ
thể là các quốc gia. Thực tiễn quốc tế cho thấy các chủ thể khác của Luật
quốc tế đặc biệt là các tổ chức quốc tế cũng tham gia ký kết khơng ít điều ước
quốc tế.
Đối với Việt Nam, theo Pháp lệnh về ký kết và thực hiện điều ước quốc
tế của Việt Nam năm 1998 tại Điều 2 quy định: "Điều ước quốc tế mà nước

Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một bên ký kết, dưới đây gọi là điều


8

ước quốc tế, là thoả thuận bằng văn bản được ký kết giữa nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam và một hoặc nhiều quốc gia, tổ chức quốc tế hoặc chủ
thể khác của pháp luật quốc tế, không phụ thuộc vào tên gọi như hiệp ước,
công ước, định ước, hiệp định, nghị định thư, công hàm trao đổi và danh
nghĩa ký kết”. Đồng thời Pháp lệnh cũng quy định nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam ký kết điều ước quốc tế với các danh nghĩa: Nhà nước; Chính
phủ; Tịa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao; Bộ cơ quan
ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ (gọi chung là Bộ, ngành)
Sau đó, Pháp lệnh này đã được thay thế bằng Luật điều ước quốc tế
năm 2005 trong đó có định nghĩa: "Điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam ký kết hoặc gia nhập là thỏa thuận bằng văn bản được ký kết
hoặc gia nhập nhân danh Nhà nước hoặc nhân danh Chính phủ nước Cộng
hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam với một hoặc nhiều quốc gia, tổ chức quốc tế
hoặc chủ thể khác của pháp luật quốc tế, không phụ thuộc vào tên gọi là hiệp
ước, công ước, hiệp định, định ước, thỏa thuận, nghị định thư, bản ghi nhớ,
công hàm trao đổi và danh nghĩa ký kết”.
Như vậy, cách xác định điều ước quốc tế theo Luật ký kết, gia nhập và
thực hiện điều ước quốc tế năm 2005 của Việt Nam đã thể hiện sự tương đồng
và phù hợp với các quy định của pháp luật quốc tế về khái niệm điều ước
quốc tế.
1.1.3. Đặc điểm của điều ƣớc quốc tế
Điều ước quốc tế là văn bản pháp lý quốc tế do các chủ thể của pháp
luật quốc tế thỏa thuận xây dựng nên trên cơ sở tự nguyện và bình đẳng nhằm
ấn định, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể trong
quan hệ quốc tế. Điều ước quốc tế có những đặc điểm cơ bản sau:

- Thứ nhất, điều ước quốc tế là một văn bản pháp lý


9

Văn bản là hình thức tồn tại rất phổ biến của điều ước quốc tế. Khi đề
cập đến điều ước quốc tế dù trong thực tiễn hay trong các văn bản pháp luật,
điều ước quốc tế được nhắc đến thường chỉ là những điều ước thành văn.
Công ước Viên năm 1969 cũng như pháp luật kí kết điều ước quốc tế của các
quốc gia đều quy định hình thức có giá trị pháp lý ghi nhận kết quả thỏa thuận
giữa các quốc gia là bằng văn bản. Ngoài ra, trong thực tiễn ký kết điều ước
quốc tế còn xuất hiện cả điều ước bất thành văn (hay còn gọi là điều ước quân
tử). Tuy nhiên việc xác định trách nhiệm pháp lý của bên vi phạm (trong việc
thực thi điều ước) khi xảy ra tranh chấp sẽ trở nên khó khăn nếu các bên
khơng thiện chí. Mặc dù tại Điều 3 của Công ước Viên năm 1969 ghi nhận
việc không áp dụng Công ước đối với thỏa thuận quốc tế không ghi thành văn
bản nhưng cũng đồng thời khẳng định hiệu lực pháp lý của những thỏa thuận
này không bị ảnh hưởng bởi việc không điều chỉnh của Công ước. Như vậy,
điều ước quốc tế bất thành văn được coi như một loại điều ước đặc biệt.
- Thứ hai, chủ thể của điều ước quốc tế là chủ thể luật quốc tế
Xác định rõ tư cách chủ thể của điều ước quốc tế có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng bởi đó là một trong những yếu tố quyết định giá trị pháp lý của
văn bản điều ước được ký kết. Bản chất của luật quốc tế là hình thành từ sự
thỏa thuận nên trong quan hệ quốc tế khơng có cơ quan lập pháp chuyên trách.
Điều ước quốc tế là văn bản chứa đựng các nguyên tắc, quy phạm pháp luật
quốc tế do chủ thể luật quốc tế xây dựng, tạo lập nên. Bởi vậy, về mặt nguyên
tắc, những thực thể khơng có tư cách chủ thể luật quốc tế thì khơng phải là chủ
thể của điều ước quốc tế hay nói cách khác chủ thể của điều ước quốc tế là chủ
thể luật quốc tế.
Công ước Viên năm 1969 khẳng định “Điều ước là một thỏa thuận

được ký kết bằng văn bản giữa các quốc gia” hoàn toàn phù hợp với phạm vi
điều chỉnh của Công ước chứ không khẳng định chỉ có quốc gia mới là chủ
thể điều ước quốc tế hay các quan hệ điều ước chỉ phát sinh giữa các quốc


10

gia. Bởi vì, ngồi quốc gia - chủ thể cơ bản của luật quốc tế và có quyền tham
gia ký kết điều ước quốc tế thì cịn có các chủ thể khác của luật quốc tế mà
điển hình là tổ chức quốc tế liên chính phủ (Ví dụ: Liên hợp quốc,
ASEAN…) đang tham gia ngày càng nhiều vào quan hệ quốc tế nói chung và
quan hệ điều ước nói riêng. Quyết định không mở rộng phạm vi điều chỉnh
của Công ước Viên 1969 tới các chủ thể khác của luật quốc tế được Ủy ban
luật quốc tế giải thích như sau: “Các điều ước được ký kết giữa các tổ chức
quốc tế có rất nhiều những đặc thù riêng và Ủy ban cho rằng sẽ quá phức tạp
và sẽ làm chậm việc dự thảo các điều khoản của công ước này nếu đưa vào
đó điều khoản thỏa đáng liên quan đến điều ước quốc tế của các tổ chức quốc
tế”. Tuy nhiên, giới hạn này không làm ảnh hưởng đến giá trị pháp lý của các
thỏa thuận được ký kết giữa các chủ thể khác của luật quốc tế với nhau và
giữa chủ thể khác của luật quốc tế với quốc gia, nhận định này được ghi nhận
tại Điều 3 của Công ước Viên năm 1969. Như vậy, thỏa thuận quốc tế giữa
các bên không nhân danh quốc gia hay tổ chức quốc tế sẽ không làm phát sinh
quan hệ điều ước trừ những trường hợp đặc biệt.
Trong hầu hết các trường hợp, các quốc gia đều trực tiếp tham gia ký
kết điều ước (thông qua các đại diện đương nhiên hoặc đại diện được ủy
quyền của quốc gia). Bên cạnh đó, theo thỏa thuận giữa các quốc gia cũng
như quy định của pháp luật của một số quốc gia vẫn có thể xuất hiện một số
trường hợp tham gia điều ước quốc tế đặc biệt như: quốc gia đại diện cho
quốc gia khác, các bang trong quốc gia liên bang, một số vùng lãnh thổ của
quốc gia hoặc việc tham gia ký kết có thể ủy quyền cho một tổ chức quốc tế

liên chính phủ…
- Thứ ba, bản chất pháp lý của điều ước quốc tế là sự thỏa thuận
Trong điều kiện luật quốc tế không tồn tại một cơ chế quyền lực chung
để xây dựng và cưỡng chế việc thực thi, tuân thủ pháp luật thì thỏa thuận là
phương thức nền tảng để hình thành hệ thống quy phạm pháp luật quốc tế.


11

Mặt khác cơ sở cho việc thiết lập các quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm pháp lý
quốc tế của các thành viên điều ước là ý chí thỏa thuận giữa các chủ thể ký
kết. Sự thỏa thuận không chỉ thể hiện ở nội dung mà cả trong hình thức của
điều ước. Điều ước quốc tế ra đời không những phải dựa trên sự thỏa thuận
mà sự thỏa thuận đó cịn phải phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của luật
quốc tế. Một điều ước quốc tế được ký kết mà không dựa trên sự thỏa thuận
hoặc thỏa thuận trái với các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế thì sẽ khơng
có hiệu lực pháp lý. Như vậy tiêu chí đánh giá tính hợp pháp của sự thỏa
thuận giữa các bên là các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế. Tiêu chí này khi
được đáp ứng thì nội dung thỏa thuận, hình thức của thỏa thuận, số lượng các
văn bản ghi nhận sự thỏa thuận… được các bên thống nhất sẽ có trị ràng
buộc. Đối với điều ước quốc tế bất thành văn, khi đã được các chủ thể luật
quốc tế nhất trí sử dụng hình thức này thì giá trị hiệu lực của điều ước này
phải được bảo đảm và công nhận. Sự thỏa thuận của các chủ thể trong quan
hệ điều ước quốc tế không chỉ được thể hiện thông qua các hành vi cụ thể
như: đàm phán, ký, phê chuẩn… điều ước đó mà cịn có thể được thông qua
việc chủ thể chấp thuận hiệu lực của một điều ước có sẵn.
- Thứ tư, điều ước quốc tế được điều chỉnh bởi luật quốc tế
Quá trình hình thành các văn bản điều ước quốc tế phải được tiến hành
trên cơ sở các quy định của luật quốc tế. Luật quốc tế khơng chỉ điều chỉnh
q trình ký kết, nội dung ký kết mà còn điều chỉnh cả việc thực hiện điều

ước quốc tế sau khi có hiệu lực. Điển hình như các nguyên tắc: tự nguyện,
bình đẳng, phù hợp giữa nội dung của điều ước với các nguyên tắc cơ bản của
luật quốc tế, Pacta sunt servanda… chính là cơ sở quan trọng xác định hiệu
lực của điều ước, xác định quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ điều
ước. Một thỏa thuận quốc tế giữa hai quốc gia sẽ khơng có giá trị của một
điều ước quốc tế nếu thỏa thuận đó khơng được điều chỉnh bởi luật quốc tế.
Nói cách khác khi thỏa thuận được tiến hành giữa các quốc gia nhưng luật áp


12

dụng lại là luật của một trong các bên ký kết thì văn kiện hình thành sẽ khơng
có giá trị pháp lý của một điều ước. Đặc điểm này là một trong những dấu
hiệu phân biệt điều ước quốc tế với một văn kiện không phải điều ước quốc
tế.
Từ những đặc trưng trên đây, ta có thể phân biệt một điều ước quốc tế
với các văn kiện quốc tế khác như: hợp đồng quốc tế; thỏa thuận giữa các tổ
chức, hiệp hội phi chính phủ; thỏa thuận giữa các tỉnh, thành phố, tổ chức của
quốc gia này với quốc gia khác…
Ngày nay điều ước quốc tế ngày càng khẳng định vai trị là cơng cụ
pháp lý quan trọng mà cộng đồng quốc tế sử dụng để điều chỉnh, thúc đẩy
quan hệ hợp tác quốc tế phát triển mạnh mẽ trên mọi lĩnh vực của đời sống
quốc tế.
1.1.4. Vai trò của điều ƣớc quốc tế
- Thứ nhất, điều ước quốc tế là nguồn cơ bản của luật quốc tế
Về phương diện pháp lý, điều ước quốc tế là một trong những nguồn cơ
bản của luật quốc tế. Phần lớn các quy phạm pháp luật quốc tế đều được ghi
nhận trong các điều ước quốc tế song phương và đa phương. Có được vị trí
như vậy bởi điều ước quốc tế có những ưu điểm nổi bật về mặt pháp lý, tính
minh bạch, rõ ràng, hiệu lực ràng buộc các chủ thể tham gia điều ước và được

đảm bảo bởi nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, thỏa thuận giữa các quốc gia.
Điều ước quốc tế cũng ảnh hưởng mạnh mẽ đến hệ thống pháp luật
quốc gia bởi sau khi tham gia các điều ước quốc tế, các quốc gia có thể thi
hành trực tiếp điều ước trên lãnh thổ quốc gia mình hoặc thể chế nó vào hệ
thống luật quốc gia. Một số quan điểm còn cho rằng, điều ước quốc tế chính
là một phần của pháp luật quốc gia, một số khác nhìn nhận theo hướng tách
biệt điều ước quốc tế với pháp luật quốc gia nhưng tuyệt đối không thể phủ
nhận tác động lớn của nó đến pháp luật quốc gia.


13

- Thứ hai, điều ước quốc tế là cơ sở pháp lý quan trọng trong giải
quyết tranh chấp quốc tế
Trong thực tiễn quốc tế, tranh chấp luôn là khả năng tiềm ẩn, phát sinh
từ các mối quan hệ giữa các quốc gia. Đó thường là hồn cảnh cụ thể mà
trong đó các chủ thể luật quốc tế có những quan điểm trái ngược hoặc mâu
thuẫn nhau và có những yêu cầu hay địi hỏi khơng thể thống nhất được. Việc
ký kết các điều ước quốc tế chính là một trong những phương tiện hữu hiệu để
các chủ thể của Luật quốc tế giải quyết các mâu thuẫn, tranh chấp trên đây.
Về nguyên tắc giải quyết tranh chấp được ghi nhận tại khoản 3, Điều 2 Hiến
chương Liên hợp quốc, theo đó, tất cả các nước thành viên của Liên hợp quốc
phải có nghĩa vụ giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng các biện pháp hịa
bình. Hiến chương Liên hợp quốc cũng quy định cụ thể các biện pháp hịa
bình mà các thành viên Liên hợp quốc tới tư cách là bên tham gia vào tranh
chấp quốc tế cần lựa chọn để giải quyết1.
- Thứ ba, điều ước quốc tế thúc đẩy quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa
các quốc gia.
Sự hợp tác và các mối quan hệ bang giao giữa các quốc gia chỉ có thể
phát triển trong một mơi trường ổn định và có sự tin cậy lẫn nhau. Điều ước

quốc tế là phương tiện có ý nghĩa quan trọng trong việc tạo lập môi trường ổn
định đó. Bên cạnh các quy phạm tùy nghi cho phép các chủ thể có quyền thỏa
thuận để lựa chọn cách xử sự cho mình, điều ước quốc tế cịn chứa đựng các
nguyên tắc, quy phạm mệnh lệnh có giá trị bắt buộc đối với mọi chủ thể khi
tham gia quan hệ quốc tế như nguyên tắc bình đẳng chủ quyền giữa các quốc
gia, nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác,
nguyên tắc các quốc gia có trách nhiệm hợp tác với nhau, nguyên tắc tư
nguyện thực hiện các cam kết quốc tế...Một mặt, các nguyên tắc, quy phạm
1

Xem thêm Điều 33 Hiến chương Liên hợp quốc


14

này đóng vai trị làm nền tảng cho việc thiết lập và phát triển quan hệ bền
vững, lâu dài giữa các chủ thể. Mặt khác, trên cơ sở các nguyên tắc và quy
phạm đó một trật tự sẽ được thiết lập trong đó quốc gia cũng như các chủ thể
khác của pháp luật quốc tế phải tôn trọng, thực hiện tất cả các cam kết của
mình và phải chịu trách nhiệm về những hành vi vi phạm cam kết quốc tế đó.
Chính điều này sẽ tạo sự tin tưởng và thúc đẩy quá trình giao lưu, hợp tác
giữa các quốc gia trên tất cả các lĩnh vực, cho dù các quốc gia này có chế độ
chính trị - xã hội và hệ thống pháp luật khác nhau.
- Thứ tư, điều ước quốc tế có tác động tích cực đến pháp luật quốc gia.
Trong xu thế khu vực hóa và tồn cầu hóa hiện nay, các quốc gia khơng
thể bó hẹp phạm vi hoạt động trong nội bộ quốc gia mình mà buộc phải mở
rộng sự liên kết theo hướng đa dạng hóa, đa phương hóa các quan hệ hợp tác.
Trong q trình hợp tác, sẽ ln có các tình huống vừa có sự hợp tác vừa có
sự cạnh tranh đan xen nhau và khơng loại trừ khả năng có xung đột dẫn đến
tranh chấp giữa các quốc gia. Để hạn chế tranh chấp, các quốc gia phải cùng

nhau ký kết điều ước quốc tế song phương hoặc đa phương. Khi đã tham gia
ký kết điều ước quốc tế, quốc gia có nghĩa vụ tận tâm, thiện chí thực hiện các
cam kết quốc tế của mình. Điều này có thể được quốc gia thực hiện thông qua
nhiều hành vi cụ thể khác nhau trong đó có hành vi sửa đổi, bổ sung các văn
bản quy phạm pháp luật trong nước sao cho phù hợp với điều ước quốc tế mà
quốc gia đã ký kết hoặc tham gia. Chính vì vậy, các quy định có nội dung tiến
bộ thể hiện những thành tựu mới của khoa học pháp lý quốc tế sẽ dần được
chuyển tải vào văn bản quy phạm pháp luật quốc gia. Điều đó sẽ góp phần
thúc đẩy sự phát triển của pháp luật quốc gia để quốc gia vừa có thể hội nhập
vào nền tảng pháp lý chung vừa có thể thiết lập được một hệ thống pháp luật
quốc gia hoàn chỉnh, phù hợp với yêu cầu điều chỉnh các quan hệ xã hội phát
sinh trong phạm vi lãnh thổ quốc gia.


15

1.2. Một số vấn đề về cơ sở lý luận của mối quan hệ giữa điều ƣớc
quốc tế và pháp luật quốc gia.
Mối quan hệ giữa điều ước quốc tế và pháp luật quốc gia tuy là vấn đề
lý luận truyền thống của luật quốc tế nhưng đồng thời vẫn mang tính thời sự
sâu sắc đối với mỗi quốc gia trong q trình xây dựng, hồn thiện và phát
triển pháp luật.
1.2.1. Các học thuyết về mối quan hệ giữa điều ước quốc tế và pháp
luật quốc gia.
Nói đến mối quan hệ giữa điều ước quốc tế và pháp luật quốc gia, cũng
là nói đến mối quan hệ giữa pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia, xét theo
nghĩa rộng. Trong khoa học pháp lý truyền thống đã có một số học thuyết
điển hình nghiên cứu về mối quan hệ này Qua nghiên cứu cho thấy, các học
thuyết về mối quan hệ này ra đời trong thời kỳ tư bản chủ nghĩa và ở một mức
độ nhất định, gắn với mục tiêu chính trị là củng cố quyền lực của nhà nước tư

sản và từ đó, có những ảnh hưởng quan trọng đối với quá trình ký kết và thực
hiện điều ước quốc tế của các quốc gia. Trong khoa học pháp lý quốc tế
thường đề cập đến hai học thuyết đó là thuyết nhất nguyên và thuyết nhị
nguyên.
1.2.1.1.. Thuyết nhất nguyên luận
Xét về mặt lịch sử tư tưởng pháp luật, thuyết nhất nguyên luận căn cứ
vào quan điểm của học thuyết pháp luật tự nhiên của các nhà triết học Hy Lạp
cổ đại. Dựa trên cơ sở quan niệm pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia đều
có cùng một bản chất là pháp luật tự nhiên và giữa chúng chỉ có sự khác biệt
về hình thức thể hiện, thuyết nhất nguyên luận cho rằng pháp luật quốc gia và
pháp luật quốc tế không thể tồn tại trong sự mâu thuẫn xung đột với nhau mà
chúng phải tồn tại với tư cách là hai bộ phận của một hệ thống pháp luật
thống nhất, trong đó bộ phận này tùy thuộc vào bộ phận kia. Tuy nhiên thuyết


16

nhất nguyên luận đưa ra hai khả năng xác định mối quan hệ giữa luật quốc tế
và luật quốc gia tuỳ theo vị trí ưu tiên của chúng. Một khả năng coi pháp luật
quốc tế có vị trí ưu tiên hơn (trường phái nhất nguyên với sự ưu tiên pháp luật
quốc tế) và khả năng thứ hai là pháp luật của quốc gia có vị trí ưu tiên hơn
(trường phái nhất nguyên với sự ưu tiên pháp luật quốc gia).
* Trường phái về "giá trị ưu thế của luật quốc tế"
Những người theo trường pháp về giá trị ưu thế của luật quốc tế ủng hộ
quan điểm cho rằng, luật quốc tế có giá trị cao hơn luật quốc gia; luật quốc
gia phụ thuộc vào luật quốc tế và do luật quốc tế quyết định. Nói cách khác,
luật quốc tế được đặt lên trên luật quốc gia, có giá trị chi phối đối với luật
quốc gia; luật quốc gia phải “phục tùng: luật quốc tế. Xét về mặt bản chất, thì
thuyết về giá trị ưu thế của luật quốc tế phản ánh những nguyên tắc trong
chính sách đối ngoại của các nước đế quốc. Theo đó, luật quốc tế được coi là

một ngành luật có vị trí cao hơn đặc biệt so với luật quốc gia và có ưu thế đặc
biệt đối với luật quốc gia. Vấn đề quan trọng mà thuyết này muốn đưa ra là,
phương diện ảnh hưởng của chủ quyền quốc gia và hiệu lực của luật quốc gia
hồn tồn phụ thuộc vào luật quốc tế. Có thể nói, trên quan điểm của chúng
ta, thì đây được xem là một trong những điểm phản động, phản tiến bộ nhất
của thuyết này
*. Trường phái về "giá trị ưu thế của luật quốc gia"
Trường phái ưu tiên pháp luật quốc gia xuất hiện cuối thế kỷ XIX đầu
thế kỷ XX do G.F. Hêghen, một nhà triết học Đức khởi xướng. Trường phái
này đề cao chủ quyền quốc gia và pháp luật quốc tế chỉ được áp dụng nếu
quốc gia chấp nhận. Trong mối tương quan với pháp luật quốc gia, pháp luật
quốc tế chỉ được coi là một bộ phận của pháp luật quốc gia hoặc chỉ đơn
thuần là pháp luật quốc gia trong quan hệ đối ngoại và mỗi quốc gia có thể
xác lập hoặc thay đổi nó tuỳ theo quan điểm của mình. Những người ủng hộ


17

thuyết về giá trị ưu thế của luật quốc gia cho rằng, luật quốc gia có giá trị cao
hơn luật quốc tế, theo đó, luật quốc gia có thể làm vơ hiệu hố hiệu lực của
luật quốc tế [18].
Theo quan điểm này nếu chấp nhận pháp luật quốc gia đứng trên pháp
luật quốc tế thì pháp luật quốc tế khơng thể tồn tại với tư cách là một hệ thống
pháp luật thống nhất theo đúng nghĩa mà sẽ trở thành “ pháp luật đối ngoại”
của các quốc gia.
1.2.1.2.. Thuyết nhị nguyên luận
Đại diện xuất sắc cho thuyết nhị nguyên là H. Triepel, D.A. Anzilotti, H.
Lauterpacht, L. Ehrlich. Thuyết này cho rằng, pháp luật quốc tế và pháp luật
quốc gia là hai hệ thống pháp luật độc lập, có sự khác biệt căn bản về đối
tượng điều chỉnh, về phạm vi hiệu lực, về chủ thể và nguồn luật. Tuy nhiên,

điểm hạn chế cơ bản của thuyết này là ở chỗ, đã phân biệt đáng kể về mối liên
hệ giữa luật quốc tế và luật quốc gia. Học thuyết xuất phát từ chủ quyền quốc
gia, cho rằng luật quốc tế và luật quốc gia là hai hệ thống pháp luật riêng biệt.
Thuyết này có những hạn chế có tính giai cấp, dẫn đến hệ quả là khơng thể
nhìn thấy rõ và giải quyết triệt để những vấn đề về mối quan hệ giữa luật quốc
tế và luật quốc gia. Các tác giả của nó đã nghiên cứu về luật quốc tế và luật
quốc gia trong sự gián đoạn, không gắn kết với xu thế phát triển tất yếu khách
quan của các quan hệ quốc tế và ảnh hưởng của nó đối với luật quốc gia. Do
đó, đã nhìn mối quan hệ giữa hai hệ thống pháp luật này một cách phiến diện,
hình thức.
Học thuyết nhị nguyên lại được phân chia thành hai trường phái, đó là
trường phái nhị nguyên cực đoan và trường phái nhị nguyên dung hoà.
* Trường phái nhị nguyên cực đoan


18

Trường phái nhị nguyên cực đoan dựa trên sự tách biệt hoàn toàn hai hệ
thống pháp luật: pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia. Do vậy, theo trường
phái này khơng có xung đột giữa hai hệ thống pháp luật trên. Nếu một văn
bản pháp luật của quốc gia (Luật, Pháp lệnh, Nghị định…) trái với điều ước
quốc tế thì cả pháp luật quốc tế lẫn pháp luật quốc gia đều có hiệu lực như
nhau. Tuy nhiên, quốc gia có nghĩa vụ hồn thiện pháp luật trong nước của
mình để có thể thực thi các điều ước quốc tế. Như vậy, ở một mức độ nhất
định, học thuyết này đã đặt điều ước quốc tế ở một vị trí ưu tiên hơn so với
pháp luật quốc gia.
* Trường phái nhị nguyên dung hoà
Trường phái nhị nguyên luận dung hoà xuất phát từ chỗ tách biệt về cơ
bản hai hệ thống pháp luật - pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia - nhưng
không phủ nhận khả năng xung đột giữa hai hệ thống đó. Xung đột giữa pháp

luật quốc tế và pháp luật quốc gia không chỉ được giải quyết theo cách của
chủ nghĩa nhất nguyên, với một trật tự trên dưới của hai bộ phận pháp luật. Cả
hai hệ thống được xem như là hai vòng tròn có phần giao nhau. Vùng giao
nhau này xuất hiện thơng qua các quy định dựa vào nhau, dẫn chiếu đến nhau
hoặc sự chuyển hoá các quy phạm từ hệ thống pháp luật này sang hệ thống
pháp luật khác. Hệ quả là pháp luật quốc tế chiếm ưu thế nổi trội so với pháp
luật quốc gia. Cũng theo trường phái này, sự chuyển hoá của điều ước quốc tế
vào pháp luật quốc gia địi hỏi phải có một văn bản chính thống của cơ quan
có thẩm quyền của Nhà nước. Văn bản này sẽ tạo ra khả năng mở cửa lĩnh
vực chủ quyền quốc gia đối với pháp luật quốc tế. Học thuyết này hiện nay
đang được một số nước như Cộng hòa liên bang, Italia, Hà Lan, Vương quốc
Anh… áp dụng [18].
Nhìn chung, hai học thuyết nhất nguyên luận và nhị ngun luận đều có
những khía cạnh chưa hợp lý, chưa thật thuyết phục về mối quan hệ giữa pháp


19

luật quốc tế và pháp luật quốc gia. Đồng thời, chúng cũng chưa làm sáng tỏ
tính độc lập tương đối của hai hệ thống pháp luật trong mối quan hệ tất yếu,
khách quan với nhau.
Thuyết nhất nguyên luận đã sai lầm khi cho rằng điều ước quốc tế và
pháp luật quốc gia là hai bộ phận của một hệ thống pháp luật chung. Bởi như
đã phân tích, với những đặc điểm rất khác nhau, pháp luật quốc tế và pháp
luật quốc gia không thể thuộc cùng một hệ thống pháp luật. Hơn thế nữa, khi
thuyết nhất nguyên luận đặt pháp luật quốc tế cao hơn pháp luật quốc gia sẽ
dẫn đến vi phạm, thậm chí phủ nhận chủ quyền quốc gia, một trong những
nguyên tắc quan trọng nhất của pháp luật quốc tế. Hoặc, trong trường hợp
ngược lại, khi thuyết nhất nguyên luận đặt pháp luật quốc tế thấp hơn pháp
luật quốc gia (trường phái ưu tiên pháp luật quốc gia) tức là đã đề cao chủ

nghĩa dân tộc hẹp hòi, phủ nhận sự nỗ lực hợp tác giữa các quốc gia trong
việc giải quyết những vấn đề quốc tế và điều đó đồng nghĩa với việc phủ nhận
vai trị của điều ước quốc tế.
Thuyết nhị nguyên luận có điểm tiến bộ hơn thuyết nhất nguyên luận ở
chỗ, nó phân biệt sự khác nhau giữa điều ước quốc tế và pháp luật quốc gia,
từ đó khẳng định, chúng là hai hệ thống pháp luật độc lập. Tuy nhiên, điểm
hạn chế cơ bản của thuyết này là đã phủ nhận mối quan hệ giữa điều ước quốc
tế và pháp luật quốc gia. Về mặt lý luận cũng như trên thực tiễn đã chứng
minh, pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia là hai hệ thống pháp luật độc
lập nhưng giữa chúng có mối quan hệ với nhau, thúc đẩy lẫn nhau cùng phát
triển.
Mặc dù còn nhiều hạn chế nhưng cả hai học thuyết nhất nguyên luận và
nhị nguyên luận vẫn có những ảnh hưởng nhất định đến q trình thực hiện
điều ước quốc tế ở từng quốc gia.


20

1.2.2. Cơ sở của mối quan hệ giữa điều ước quốc tế và pháp luật quốc
gia
Cơ sở lý luận của mối quan hệ giữa điều ước quốc tế và luật quốc gia
được hình thành từ sự thống nhất hai chức năng đối nội và đối ngoại của nhà
nước; từ một số chức năng chung của hai hệ thống luật trong quá trình điều
chỉnh các quan hệ pháp luật mà quốc gia là chủ thể; từ việc tham gia vào các
quan hệ pháp luật có tính chất khác nhau của nhà nước nhằm phục vụ cho lợi
ích quốc gia, dân tộc, đồng thời vì lợi ích chung của cộng đồng quốc tế. Do đó
khơng thể có sự tách biệt giữa hai hệ thống luật mà trái lại, trên thực tế đã tất
yếu hình thành giữa chúng mối quan hệ biện chứng, mối quan hệ đó tồn tại
dựa trên những cơ sở lý luận và thực tiễn cụ thể:
Mối quan hệ gắn bó chặt chẽ giữa hai chức năng cơ bản của nhà nước

Trong lịch sử nhân loại, sự ra đời của Nhà nước là một sự kiện đặc biệt,
xuất hiện tất yếu sau sự suy tàn của chế độ công xã nguyên thủy khi các tỏ
chức bộ lạc, thị tộc nguyên thủy khơng cịn khả năng lãnh đạo, quản lý xã hội
nữa. Nhà nước xuất hiện như một tổ chức tối cao “nắm giữ quyền lực chính
trị, một bộ máy chuyên chính làm nhiệm vụ cưỡng chế và thực hiện chức năng
quản lý đặc biệt nhằm duy trì trật tự xã hội, thực hiện mục đích bảo vệ địa vị
của giai cấp thống trị trong xã hội” [7].
Là một bộ phận thuộc thượng tầng kiến trúc xã hội, Nhà nước luôn ở vị
trí trung tâm, nắm giữ mọi quyền lực, đại diện cho giai cấp thống trị và toàn
thể nhân dân điều hành và quản lý mọi hoạt động của quốc gia. Chức năng
của nhà nước thường được thể hiện trên hai khía cạnh cơ bản: đối nội và đối
ngoại. Trong đó chức năng đối nội bao gồmnhững hoạt động của Nhà nước
trong phạm vi lãnh thổ quốc gia mình nhằm quản lý tất cả những công việc
chung của xã hội như thiết lập bộ máy hành chính từ trung ương đến địa
phương, ban hành và đảm bảo thi hành pháp luật cũng như các chính sách xã


21

hội, duy trì và bảo vệ chế độ chính trị và chế độ kinh tế… Chức năng đối
ngoại lại bao gồm những hoạt động nhà nước tiến hành để thực hiện vai trị
của mình trong quan hệ với các nhà nước, các dân tộc khác trên thế giới và
với quốc tế như thiết lập quan hệ ngoại giao, giao lưu văn hóa, xã hội, kinh tế,
tham gia các diễn đàn quốc tế chống chiến tranh và ngoại xâm.
Trong quá khứ cũng như hiện tại, sự tồn tại và phát triển thực tế của nhà
nước và pháp luật đã cơ bản phản ánh sự vận hành có tính chất ngun lý giữa
hai chức năng đối nội và đối ngoại của nhà nước, tạo ra sự tương tác và ràng
buộc biện chứng giữa hai hệ thống pháp luật quốc tế và quốc gia. Mối quan hệ
giữa hai chức năng của nhà nước xuất phát chủ yếu từ việc duy trì và bảo vệ
lợi ích của giai cấp thống trị, lợi ích của dân tộc trong sự hài hịa với lợi ích

của cộng đồng quốc tế và các quốc gia khác. Trong mối quan hệ này, chức
năng đối nội ln giữ vai trị chủ đạo, có ý nghĩa quyết định đối với chức
năng đối ngoại, ngược lại kết quả thực hiện thức năng đối ngoại lại ảnh hưởng
đến việc thực hiện chức năng đối nội. Để đảm bảo thực hiện cả hai chức năng
này nhà nước sử dụng rất nhiều công cụ, phương tiện trong đó có cơng cụ
truyền thống là pháp luật bao gồm cả hệ thống pháp luật trong nước và hệ
thống pháp luật quốc tế mà chủ yếu là các điều ước quốc tế. Như vậy, mối
quan hệ tương tác giữa hai chức năng cơ bản của nhà nước đã tạo cơ sở tiền
đề cho mối quan hệ giữa pháp luật quốc gia và điều ước quốc tế. Trong bất kỳ
chế độ chính trị xã hội nào, bất kỳ kiểu nhà nước nào thì mối quan hệ giữa
chức năng đối nội và đối ngoại vẫn tồn tại một cách tất yếu, điều này càng thể
hiện rõ ràng hơn trong giai đoạn hiện nay với xu thế tồn cầu hóa, các quốc
gia không ngừng mở rộng quan hệ hợp tác, bang giao về mọi mặt với tất cả
các nước trên thế giới.
Trong đa số các quan hệ pháp luật diễn ra trong khuôn khổ quốc gia và
quốc tế, nhà nước đều tham gia với tư cách là chủ thể có quyền lực và có chủ


22

quyền. Đối với hệ thống pháp luật quốc gia, nhà nước tham gia với vai trò là
chủ thể ban hành và đảm bảo việc thực hiện pháp luật, vì vậy pháp luật quốc
gia trở thành phương tiện phản ánh ý chí của giai cấp nắm quyền, là cơng cụ
để nhà nước quản lý xã hội về mọi mặt. Đối với hệ thống pháp luật quốc tế,
cụ thể là các điều ước quốc tế, nhà nước tham gia với tư cách là chủ thể ký kết
và thực thi theo tinh thần tự nguyện, bình đẳng, tơn trọng và bảo vệ lợi ích
của tất cả các bên. Trong khi đàm phán, ký kết điều ước quốc tế mỗi quốc gia
đều tận dụng mọi cơ hội để đạt được nhiều nhất lợi ích cho quốc gia mình nên
điều ước quốc tế vẫn thể hiện ý chí và bảo vệ giai cấp cầm quyền của quốc
gia đó. Sự có mặt của nhà nước ở các mối quan hệ pháp luật này có ý nghĩa

đảm bảo sự nhất quán giữa hệ thống pháp luật quốc gia và điều ước quốc tế vì
mục đích chung là bảo vệ lợi ích của mỗi quốc gia, hướng tới thiết lập các
quan hệ quóc tế, tạo tiền đề cho việc tham gia vào xu thế tồn cầu hóa hiện
nay. Lợi ích quốc gia và cộng đồng quốc tế mà mỗi nhà nước bảo vệ là sợi
dây gắn kết quan trọng giữa điều ước quốc tế và pháp luật quốc gia.
Việc tồn tại mối quan hệ giữa pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia
bắt nguồn từ một số chức năng chung của hai hệ thống pháp luật trong quá
trình điều chỉnh các quan hệ pháp luật mà quốc gia là chủ thể
Chức năng của từng hệ thống pháp luật ảnh hưởng lớn đến nội dung của
pháp luật đó, chức năng cũng chính là cơ sở để xây dựng nội dung pháp luật,
do vậy hai hệ thống pháp luật có sự đồng nhất về chức năng thường có mối
quan hệ mật thiết với nhau. Cụ thể:
- Điều ước quốc tế và pháp luật quốc gia đều là cơ sở để thiết lập, củng
cố và tăng cường quyền lực nhà nước. Thông qua việc ban hành các văn bản
quy phạm pháp luật trong nước và ký kết các điều ước quốc tế, nhà nước củng
cố vai trị của mình trong việc đứng đầu và quyết định các vấn đề quan trọng
của đất nước.


×