LI M U
i vi Vit Nam chuyn dch c cu khụng ch l mt xu hng m
cũn l mt yờu cu tt yu. Trong nhng nm va qua ó cú rt nhiu nghiờn
cu tỡm ra con ng i thớch hp nht. Tuy nhiờn iu ú cũn rt nhiu
bn cói.
ti: "Mối quan hệ giữa tăng trởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh
tế ngành từ nay đến 2020" nhm nghiờn cu mi quan h gia chuyn dch c
cu kinh t vi tng trng. Tỡm ra xu hng vn ng ca nn kinh t v t
ú hng vo mc tiờu phỏt trin ca quc gia t nay n nm 2020. Trong
quỏ trỡnh nghiờn cu do iu kin khỏch quan v ch quan vẫn còn nhiều thiếu
sót mong đợc sự góp ý của thầy cô và các bạn.
1
CHƯƠNG I
: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA MỐI QUAN HỆ GIỮA CHUYỂN DỊCH
CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ.
1. M T S KHÁI NI M C B N.Ộ Ố Ệ Ơ Ả Mét sè kh¸i niÖm c¬ b¶n
1.1. Tăng trưởng kinh tế
Theo nghĩa chung nhất, tăng trưởng kinh tế thường được quan niệm là
sự tăng lên hay gia tăng về quy mố sản lượng của nền kinh tế trong một thời
kỳ nhất định (thường là một năm). Hay nói một cách khác cụ thể hơn, tăng
trưởng kinh tế là do tăng thu nhập quốc dân và thu nhập quốc dân đầu người.
Tăng trưởng kinh tế được xác định bằng cách so sánh quy mô sản lượng
giữa các thời kỳ. Có hai cách so sánh tuyệt đối và tương đối.
- Mức tăng tuyệt đối:
∆
y
= Y
n
– Y
0
Trong đó: Y
n
là sản lượng của năm n, còn Y
0
là sản lượng của năm so
sánh (năm gốc).
Như vậy, mức tăng trưởng tuyệt đối phản ánh mức độ tăng quy mô sản lượng.
- Mức tăng trưởng tương đối hay là tốc độ tăng trưởng (g
y
)
g
y =
Y
n
/Y
o
hay (Y
n
– Y
o
)/Y
o
Trong kinh tế vĩ mô, Y chính là tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hoặc
tổng sản phẩm quốc dân (GNP).
Có thể nói, tăng trưởng kinh tế phản ánh sự thay đổi về lượng của nền
kinh tế. Càng ngày thì tăng trưởng kinh tế càng được gắn với yêu cầu tính bền
vững hay việc bảo đảm chất lượng tăng trưởng ngày càng cao. Tức là tăng
trưởng không những phải nhanh mà phải đảm bảo liên tục, có hiệu quả của
các chỉ tiêu quy mô và tốc độ tăng thu nhập bình quân đầu người. Hơn thế
nữa quá trình ấy phải được tạo nên bởi nhân tố đóng vai trò quyết định là khoa
học công nghệ và vốn nhân lực trong điều kiện một cơ cấu kinh tế hợp lý.
1.2. Phát triển kinh tế.
2
Phát triển kinh tế có thể hiểu là một quá trình lớn lên (tăng tiến) về mọi mặt
của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định. Trong đó bao gồm cả sự tăng
thêm về quy mô sản lượng (tăng trưởng) và sự tiến bộ về cơ cấu kinh tế - xã
hội. Phát tiển kinh tế là quá trình biến đổi cả về lượng và về chất của nền kinh
tế, nó là sự kết hợp một cách chặt chẽ quá trình hoàn thiện của hai vấn đề về
kinh tế và xã hội ở mỗi quốc gia.
Phát triển kinh tế bao gồm các nội dung chủ yếu sau:
Thứ nhất, sự tăng lên của tổng thu nhập nền kinh tế và mức gia tăng thu
nhập bình quân đầu người..
Thứ hai, sự thay đổi (tiến bộ) về cơ cấu kinh tế, đặc biệt là cơ cấu ngành.
Đây là tiêu thức phản ánh sự biến đổi về chất của nền kinh tế quốc gia.
Thứ ba, sự tiến bộ về mặt xã hôi. Mục tiêu cuối cùng của sự phát triển
kinh tế trong các quốc gia không phải là tăng trưởng hay chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, mà là việc xoá bỏ nghèo đói, suy dinh dưỡng, khẳ năng tiếp cận tới
các dịch vụ y tế, nước sạch, trình độ dân chí giáo dục của quảng đại quần
chúng nhân dân,…làm cho con người ngày càng có cuộc sống tốt hơn.
Nếu nền kinh tế chỉ nhìn theo khía cạnh tăng trưởng thì chưa đủ, để nhìn
toàn diện phải nhìn trên phương diện phát triển kinh tế. Tăng trưởng kinh tế là
lượng thì phát triển kinh tế phải là cả lượng và chất. Như vậy, đánh giá về
phát triển kinh tế phải dựa trên đánh giá của các khía cạnh: Đánh giá sự thay
đổi về lượng, đánh giá về sự biến đổi trong cơ cấu của nền kinh tế, đánh giá
về sự thay đổi trong các vấn đề xã hội.
Ngày nay khi nói đến phát triển người ta thường nhắc đến khái niệm
phát triển bền vững, nghĩa là “phải có tính liên tục, mãi mãi hoặc các lợi ích
của nó phải được duy trì không hạn định”.
1.3. Khái niệm về cơ cấu ngành của một nền kinh tế.
Theo quan điểm của lý thuyết hệ thống: Cơ cấu ngành của một nền kinh
tế là tập hợp tất cả các ngành hình thành nên nền kinh tế và các mối quan hệ
tương đối ổn định giữa chúng.
3
Có nhiều cách phân loại ngành khác nhau khi nghiên cứu về chuyển dịch
cơ cấu ngành. Song cho đến nay chính thức tồn tại hai hệ thống phân ngành
kinh tế: Phân ngành kinh tế theo hệ thống sản xuất vật chất (MPS) và phân
ngành theo hệ thống tài khoản quốc gia (SNA).
Theo hệ thống sản xuất vật chất, các ngành kinh tế được phân thành hai
khu vực: Sản xuất vật chất và không sản xuất vật chất. Khu vực sản xuất vật
chất và khôn sản xuất vật chất được phân thành các ngành cấp I như: Công
nghiệp, Nông nghiệp... Các ngành cấp I lại được phân thành các ngành cấp II,
chẳng hạn ngành công nghiệp lại bao gồm các ngành sản phẩm như: điện
năng, nhiên liệu.... Đặc biệt trong các ngành công nghiệp người ta còn phân ra
thành nhóm A và nhóm B.
Theo hệ thống tài khoản quốc gia, các ngành kinh tế được phân thành 3
nhóm ngành lớn là nông nghiệp, công nghiệp, xây dựng và dịch vụ. Ba ngành
gộp này bao gồm 20 ngành cấp I như: nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản,
khai mỏ khai khoáng,... Các ngành cấp I lại được phân nhỏ thành các ngành
cấp II. Các ngành cấp II lại được phân nhỏ thành các ngành sản phẩm.
Có nhiều mức phân ngành khác nhau, tùy theo mức dộ gộp hay chi tiết
hóa đến chừng nào đó mà có được tập hợp các ngành tương ứng.
Với một cách phân ngành hợp lý và một giá trị đại lượng được chọn
thống nhất có thể xác định được các chỉ tiêu định lượng phản ánh một mặt cơ
cấu ngành, đó là tỷ trọng các ngành so với tổng thể các ngành của nền kinh tế.
Loại chỉ tiêu định lượng thứ nhất này được sử dụng để nghiên cứu liên quan
đến phát triển cơ cấu ngành của nền kinh tế. Chỉ tiêu định lượng thứ hai có
thể mô tả được phần nào mối quan hệ tác động qua lại giữa các ngành kinh tế,
đó chính là các hệ số trong bảng cân đối liên ngành (của hệ MPS) hay bản
Vào – Ra (I/O) (của hệ thống SNA).
Như vậy theo định nghĩa cơ cấu ngành đưa ra xét về mặt định lượng, ít
ra phải có hai loại chỉ tiêu trên đây mới cho ta sự hiểu biết đầy đủ hơn về cơ
cấu ngành của một nền kinh tế.
1.4. Khái niệm về điều chỉnh cơ cấu ngành.
4
Chuyển dịch cơ cấu ngành là quá trình phát triển của các ngành kinh tế
dẫn đến sự tăng trưởng khác nhau giữa các ngành và làm thay đổi quan hệ
tương quan giữa chúng so với một thời điểm trước đấy.
Theo định nghĩa này, điều chỉnh cơ cấu ngành chỉ diễn ra sau một
khoảng thời gian nhất định vì nó là một quá trình và sự phát triển của các
ngành phải dẫn đến sự thay đổi mối quan hệ tương đối ổn định vốn có của
chúng (ở thời điểm trước đó). Trên thực tế, sự thay đổi này là kết quả của quá
trình:
Xuất hiện thêm một số ngành mới hay mất đi một số ngành đã có, tức là
có sự thay đổi về số lượng cũng như loại ngành trong nền kinh tế.
Tăng trưởng về quy mô với nhịp độ khác nhau của các ngành dẫn đến
thay đổi cơ cấu. Trong trường hợp này sự điều chỉnh cơ cấu ngành là kết quả
của sự phát triển không đồng đều của các ngành sau mỗi giai đoạn.
Chỉ tiêu xác định tốc độ biến đổi tương quan giữa các ngành kinh tế
thường dùng là nhịp độ tăng trưởng ngành:
Thay đổi trong mối quan hệ tác động qua lại giữa các ngành. Sự thay đổi
này trước hết biểu thị bằng số ngành có liên quan. Mức độ tác động qua lại
của ngành này với các ngành khác qua quy mô đầu vào mà nó cung cấp cho
các ngành hay nhận từ các ngành đó.
Sự tăng trưởng của các ngàn dẫn đến sự thay đổi cơ cấu ngành trong mỗi
nền kinh tế. Cho nên, chuyển dich cơ cấu ngành xảy ra như là kết quả của quá
trình phát triển. Đó là quy luật tất yếu từ xưa đến nay trong hầu hết mọi nền
kinh tế. Vấn đề đáng quan tâm là ở chỗ : sự chuyển dich cơ cấu ngành diễn ra
theo xu hướng nào, tốc độ nhanh chậm ra sao, có những quy luật gì?
Có rất nhiều nền kinh tế đã đạt được thành công trong sự phát triển nhờ
vào quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành đặc thù phù hợp với điều kiện cụ thể.
Việc tìm ra một xu hướng hay giải pháp cho chuyển dịch cơ cấu ngành của
Việt Nam không đơn thuần là áp dụng kinh nghiệm có được mà là sự phát
hiện những đặc thù của đất nước, của môi trường trong nước và thế giới hiện
nay để làm thích ứng những bài học đã có cho hoàn cảnh Việt Nam.
2. Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
ngành trong lý thuyết nhị nguyên.
5
Tư tưởng cơ bản của lý thuyết này cho rằng ở các nước đang phát triển
có trạng thái nhị nguyên của nền kinh tế, tức là có hai khu vực song song tồn
tại, bao gồm:
Khu vực kinh tế truyền thống, chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, khu vực
này có tình trạng dư thừa lao động. Do ruộng đất có hạn và trình độ lao động
cũng như áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ ngày một tăng, nên trong nông
nghiệp số lượng lao động giảm nhưng vẫn tăng sản xuất. Bộ phận lao động dư
thừa này có nhu cầu việc làm rất lớn, sẵn sàng di chuyển đến khu vực khác có
việc làm và thu nhập cao hơn hiện tại.
Khu vực kinh tế du nhập được hiểu là khu vực công nghiệp hiện đại, khu
vực này có năng suất lao động cao, tích lũy lớn, tạo ra khẳ năng tự phát triển
không phụ thuộc vào trình độ chung của nền kinh tế hiện tại.
Theo thuyết này trong quá trình công nghiệp hóa được đặc biệt ưu tiên
phát triển mạnh và là khu vực thu hút lao động từ nông nghiệp, và vì vậy mối
tương quan trong phát triển của hai khu vực nông nghiệp và công nghiệp
không được chú trọng.
Tư tưởng cơ bản này, hàng loạt nghiên cứu phát triển thêm theo các
hướng:
- Xem xét mối quan hệ giữa công nghiệp và nông nghiệp. Trong khu vực
công nghiệp có nhiều khả năng lựa chọn và ứng dụng tiến bộ khoa học công
nghệ nên có thể tiếp nhận lao động dư thừa từ nông nghiệp. Nhưng một trong
những điều kiện đủ ở đây là công nghiệp chỉ thu hút được lao động trong
nông nghiệp khi thu nhập ở khu vực công nghiệp cao hơn hoặc ít ra cũng
bằng thu nhập ở khu vực nông nghiệp.
- Khả năng di chuyển lao động từ nông thôn. Không đơn giản để người
lao động từ nông nghiệp (nông thôn) ra thành thị có thể tìm được việc làm
ngay. Nói cách khác không phải lúc nào tổng cung lao động trong nông
nghiệp cũng bằng tổng cầu lao động trong khu vực công nghiệp. Như vây
việc di chuyển lao động sang khu vực công nghiệp còn phụ thuộc vào xác
suất tìm việc làm của lao động nông thôn ra thành phố. Khẳ năng tìm việc làm
này còn phụ thuộc vào các yếu tố:
6
+ Khả năng tiếp nhận lao động của khu vực công nghiệp hiện đại
trong điều kiện đầu tư vào khoa học – công nghệ đòi hỏi nhiều vốn hơn là
nhiều lao động.
+ Bản thânh ở các thành phố cũng dư thừa lao động, mà lao động
ở thành phố thường có điều kiện để nâng cao trình độ tay nghề hơn là lao
động ở nông thôn.
+ Trình độ tay nghề của lao động nông thôn thường là thấp, thậm
chí còn chưa quen với môi trường lao động công nghiệp.
Thực tế Việt Nam thời gian qua cho thấy, để phát triể khu vực công
nghiệp tập trung liên doanh với nước ngoài đã phải lấy vào nông nghiệp, giảm
chỗ làm việc của nông dân song không thu hút được một cách thỏa đáng số
lao động từ nông nghiệp ở khu vực đã lấy đất.
3. Điều kiện ứng dụng lý thuyết về chuyển dịch cơ cấu.
3.1. Điều kiện ứng dụng lý thuyết nhị nguyên.
Nền kinh tế song song tồn tại hai khu vực:
- Khu vực truyền thống chủ yếu là nông nghiệp.
- Khu vực du nhập chủ yếu là công nghiệp hiện đại.
- Có mối quan hệ nông nghiệp và công nghiệp thông qua di chuyển lao
động từ nông nghiệp (nông thôn) sang khu vực công (thành thị)
3.2. Khả năng ứng dụng ở Việt Nam.
Nước ta cũng đang hình thành hai khu vực: truyền thống và hiện đại. Có
thể ứng dụng:
Xác định khả năng phát triển khu vực công nghiệp hiện đại nhằm thu hút
lao động từ nông nghiệp.
Ứng dụng để xây dựng một cơ cấu hợp lý.
7
CHƯƠNG II
NHỮNG ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA VIỆT NAM TÁC
ĐỘNG TỚI CHUYỂN DỊCH TRONG THỜI GIAN TỚI.
1. Quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của Việt Nam .
1.1. Thời kỳ đổi mới nền kinh tế theo hướng thị trường (từ năm 1986
đến nay).
Đường lối đổi mới trong kinh tế sau Đại hội Đảng VI thực tế là chuuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo kinh tế thị trường với những thay đổi cơ bản về:
Nguyên tắc kế hoạch hóa từ kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị
trường có điều tiết vĩ mô của Nhà nước.
Độ mở và tính hội nhập.
Sự đa dạng về tính sở hữu.
Những khó khăn cơ bản trong quá trình chuyển đổi là thị trường chưa
hoàn chỉnh, đội ngũ cán bộ hiểu biết đầy đủ còn hạn chế, chưa có một tiền lệ
hợp lý tiếp cận cơ cấu trong thời kỳ chuyển đổi.
* Một số kết quả đạt được trong quá trình chuyển dịch cơ cấu:
Công cuộc đổi mới và chuyển dịch cơ cấu vừa qua đã tạo cho nền kinh
tế từ mức tăng trưởng 4% năm 1987 lên 9% năm 1996, 8,5% năm 2005. Cuối
cùng năm 1997 nền kinh tế gặp khó khăn song ước vẫn đạt 8-9%. Mức thu
nhập bình quân đầu người tăng 5%/năm, từ 100 USD năm 1987 lên 300 USD
năm 1996 và 545 USD năm 2004. Tốc độ tăng trưởng cao nhất thuộc về khối
ngành công nghiệp (9-16%/năm), tiếp đến là dịch vụ (7-8%/năm), nông
nghiệp là ngành đặc trưng, khoảng 4,8%. Nếu so sánh các nước có tôc độ tăng
trưởng như vừa qua có thể xem là thành tựu đáng kể (xem biểu đồ 1)
Biểu đồ 1: Tốc độ tăng trưởng GDP và các khu vực kinh tế (%)
8
7.1
7.24
7.7
8.5
5.4
3.2
5.4
5.2
14.5
10.34
16 16
7
6.57
7.5
8
0
5
10
15
20
2002 2003 2004 2005
Nền kinh tế
Nông, lâm nghiệp
và thủy sản
Công nghiệp và
xây dựng
Dịch Vụ
Nông nghiệp hiện nay chiếm khoảng 21- 22% GDP, đã vượt qua tình
trạng thiếu lương thực và trở thành nươc xuất khẩu thưc 3 thế giới. Sau khi
giải quyết tốt về lương thực, thực phẩm, cơ cấu nông nghiệp được chuyển
hướng mạnh sang phát triển cây công nghiệp điển hình là tốc độ gia tăng cây
Cà phê, cao su năm 1996. Hải sản và các ngành nông nghiệp phi truyền thống
tiếp tục phát triển mạnh mẽ.
Công nghiệp chiếm khoản 37 – 38%GDP và luôn dẫn đầu tăng trưởng
và ở mức 13-16% trong thời gian qua. Tăng trưởng của công nghiệp chủ yếu
do đầu tư của các doanh nghiệp có đầu tư nước ngoài, những năm gần đây
biến đổi thất thường, năm 2002 là 14,5% , năm 2003 là 10,34%; năm
2004-2005 là 16%
Dịch vụ: chiếm khoảng 42% GDP và hiện nay tiếp tục tăng. Khu vực
ngân hàng, giao thông vận tải và các dịch vụ liên quan là khu vực phát triển
mạnh nhất; dịch vụ máy tính bảo hiểm, thương mại, kiểm toán, thanh toán
cũng phát triển tương đối tốt. Tuy nhiên, dịch vụ tài chính, luật pháp, quản lý,
nghiên cứu và triển khai và dịch vụ công nghiệp cơ khí còn bị hạn chế.
1.2. Những hạn chế cơ bản của cơ cấu đòi hỏi phải tiếp tục chuyển đổi.
* Nền kinh tế vẫn đang ở giai đoạn thay thế nhập khẩu.
Trong mấy năm trở lại đây, tốc độ tăng xuất khẩu bất ngờ và ngoạn mục
(xem biểu đồ 2).
9
Biểu đồ 2: Kim ngạch xuất khẩu qua các năm giai đoạn 1991-2004
Đ ơn v ị: t ỷ USD
2.087
2.58
2.985
4.054
5.448
7.255
9.185
9.36
11.541
14.483
15.029
16.706
20.176
26
0
5
10
15
20
25
30
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004
Song tỷ lệ kim ngạch xuất khẩu thô vẫn còn cao, năm 2003 là 49,5%.
Hàng nhập khẩu quan trọng là nhiên liệu, sắt thép, phân bón, linh kiện điện
tử, phụ tùng ô tô, xe máy...
Bảng1: Tổng giá trị xuất và nhập khẩu năm 1995-2002
Đơn vị: Tỷ USD
Năm
Tổng
số
Chia ra
xuất khẩu Nhập khẩu
1995 13,604 5,448 8,155
1996 18,399 7,255 11,143
1997 20,777 9,185 11,592
1998 20,859 9,360 11,499
1999 23,283 11,541 11,742
2000 30,119 14,483 15,636
2001 31,247 15,029 16,218
2002 36,438 16,705 19,733
* Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng phát triển các ngành có vốn
đầu tư lớn hơn là sử dụng nhiều lao động.
Các kết quả tính toán cho thấy mức tăng trưởng GDP bình quân năm của
Việt Nam là 7,4% bao gồm tăng trưởng lao động 2,78% năm và tăng trưởng
10
tổng năng suất yếu tố là 2,57% năm. Bảng 2 cho thấy tỷ lệ phần trăm đóng
góp của mỗi yếu tố lao động, vốn và năm suất trong tổng mức tăng trưởng:
Bảng 2: Tính toán tăng trưởng của Việt Nam (%)
Năm % Lao động tăng trưởng(%) Vốn Năng suất
1987 2,4 2,1 3,1 -0,1
1988 6,0 1,8 2,5 3,9
1989 8,0 1,6 5,2 5,0
1990 5,1 4,7 3,5 0,9
1991 6,0 2,2 4,8 2,7
1992 8,7 2,7 8,0 3,8
1993 8,1 2,8 10,4 2,2
1994 8,5 2,9 16,3 0,5
1995 9,5 2,7 15,4 1,6
Tăng trưởng trung bình trên cơ sở
Xu hướng 7,4 2,78 7,85 2,57
Trung bình 6,95 2,62 7,70 2,27
Điểm cuối 7,51 2,69 8,17 2,60
Tỷ lệ đóng góp vào tăng trưởng GDP cao hơn đáng kể so với 2 yếu tố
cuối cung được xét là lao động và năng suất lao động.
Mặc dù vậy, nếu so sánh với các nước và vùng lãnh thổ, Việt Nam có
phần trăm tăng trưởng GDP do đóng góp của vốn là rất lớn, trong khi đó phần
đóng góp của yếu tố lao động thế mạnh của nền kinh tế thì lại thấp.
* Chưa hình thành được các ngành công nghiệp mũi nhọn.
Xét riêng cơ cấu các ngành của ngành công nghiệp, từ năm 1990 đến
năm 1995 cho thấy:
Cơ cấu nội ngành công nghiệp không thay đổi nhiều trong giai đoạn
1991-1995, chưa hình thành rõ các ngành mũi nhon để tạo bước chuyển mới
trong công nghiêp. Theo kết quả tính toán của Ban Phân tích và Dự báo kinh
tế vĩ mô của Viện chiến lược phát triển thì trình độ tập trung (h) theo cơ cấu
của Bảng 3 là:
h (1990) = 20,6 và h (1995) = 18,5
Đóng góp cho tăng trưởng công nghiệp những năm qua chủ yếu vẫn là
ngành công nghiệp khai thác, tỷ trọng công nghiệp chế tác trong GDP mới
11
chiếm 19%. Sản phẩm công nghiệp xuất khẩu chủ yếu là nguyên liệu thô qua
sơ chế, các sản phẩm gia công và hàng thủ công. Công nghiệp cơ khí và điện
tử mới phát triển ở giai đoạn đầu. Các ngành công nghiệp phục vụ nông
nghiệp còn nhỏ bé, giá trị nông sản qua chế biến (30%). Trình độ cơ giới hóa
thấp, đạt khoảng 35-40%, trong đó cơ khí sản xuất trong nước mới chỉ đáp
ứng 20-30% nhu cầu với chất lượn thấp.
Bảng 3: Cơ cấu phân ngành công nghiệp theo giá trị sản xuất
(giá năm 1989).
Ngành 1990 1991 1992 1993 1994 1995
Điện 7,5 7,1 6,4 6,3 6,4 6,9
Nhiên liệu 11,1 13,8 16,2 16,4 19,4 16,2
Luyện kim đen 0,8 1,2 1,2 1,4 1,2 1,4
Luyện kim màu 0,7 0,8 1,0 1,0 0,7 0,7
Thiết bị, máy móc 4,3 3,8 3,7 3,7 2,8 3,7
Điện, điện tử 1,9 1,8 1,6 2,0 2,1 1,9
Sản phẩm kim loại 2,3 2,9 1,8 1,8 2,0 1,6
Hóa chất 6,5 7,2 7,4 7,9 8,5 8,7
Vật liêu xây dựng 7,1 7,5 7,6 7,8 8,4 8,1
Chế biến gỗ 3,7 3,8 3,4 3,0 3,4 3,4
Giấy 2,2 1,9 1,9 1,8 1,9 2,1
Sành, sứ, thủy tinh 1,0 1,1 1,1 1,2 1,2 1,
Lương thực 3,3 3,3 1,4 2,7 3,3 3,3
Thưc phẩm 32,6 31,4 30,8 30,7 27,2 27,8
Dệt 9,0 8,2 7,8 7,0 6,9 6,7
May 1,4 1,4 1,4 1,8 2,4 2,4
Da 0,6 0,4 0,4 0,6 0,9 0,9
In 0,7 0,7 0,7 0,7 1,0 1,0
Công nghiệp khác 2,5 2,2 2,0 1,9 1,8 1,8
Từ tình hình trên có thể thấy, việc Nhà nước chủ động điều chỉnh cơ cấu
kinh tế trên cơ sở xác định các ngành công nghiệp mũi nhon là một yêu cầu
cấp thiết trong quá trình hoạch định chiến lược phát triển công nghiệp trong
giai đoạn tới.
2. Những đặc điểm cơ bản của nền kinh tế tác động đến cơ cấu trong thời
gian tới.
Việt Nam bước vào công nghiệp hóa trong bối cảnh của kinh tế thế giới
đã khác so với thời kỳ bắt đầu công nghiệp hóa của các nước đi trước. Các
12
dòng vật chất và vốn mang tính chất toàn cầu vẫn tồn tại và tăng lên. Nhu cầu
cơ cấu lại kinh tế và thiết lập một trật tự mới để giải quyết những vấn đề liên
quan đến kinh tế quốc tế và những vấn đề toàn cầu như ô nhiễm môi trường,
cạn kiệt tài nguyên, nạn đói, nợ nần, bệnh dịch ngày càng trở nên bức thiết.
Những đòi hỏi đối với điều chỉnh cơ cấu cao hơn nhiều, đặc biẹt là vấn đề cải
thiện công nghệ, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và cải thiệ môi trường
hấp thụ vốn.
Những trở ngại liên quan trực tiếp đến quá trình điều chỉnh cơ cấu cần
tính đến là:
Nền kinh tế có tích kũy thấp, vốn để tái sản xuất và giải quyết các vấn đề
phát sinh trog quá trình điều chỉnh cơ cấu vẫn phu thuộc nhiều vào nguồn lực
thay thế từ bên ngoài. Năm 2000 tỷ lệ tích lũy so với GDP thấp 29,5% GDP.
Chính sách huy động vốn nước ngoài vẫn còn nhiều bất cập liên quan đến độ
bình ổn của môi trường kinh tế vĩ mô.
Trình độ kỹ thuật của nền kinh tế còn thấp. Trang bị trong ngành công
nghiệp là ngành tiên tiến nhất cũng tới 60% là thiết bị cũ, các công xưởng xây
dựng từ những năm 1950. Chỉ riêng các xí nghiệp Nhà nước tốc độ đổi mới
công nghệ mới chỉ đạt hơn 3%/năm. Tính chung năng lực sản xuất công
nghiệp chưa vượt quá 50% công suất với mức cơ giới hóa thế giới. Sản phẩm
sản xuất ra đạt 70% tiêu chuẩn nội địa và 15% tiêu chuẩn xuất khẩu. Do đó
sức cạnh tranh thấp.
Cơ cấu kinh tế tuy có chuyển biến nhưng hiệu quả sản xuất còn thấp.
Tuy sản lượng có tăng nhưng chi phí sản xuất cũng tăng trong khi giá bán lại
bị giảm. Trong tương lai gần tỷ suất vốn ICOR tăng nhanh, dù công nghiệp có
tăng trưởng 16% nhưng tỷ lệ giá trị gia tăng sẽ giảm từ 50% xuống còn 40%
hoặc thấp hơn.
Lao động chủ yếu là nông thôn (hơn 70%). Tổng số lao động đã qua đào
tạo chuyên môn là 5,5% so với số dân và 11% so với tổng số lao động (trong
đó số qua đại học là 20%). Khu vực kinh tế Nhà nước có gần 13% lực lượng
lao động thì số đã qua đào tạo chiếm 86% số người được đào tạo. Trong khi
các khu vực khác chiếm 80% nguồn lao động nhưng chỉ có 2% số lao động
được đào tạo. Đặc biệt đội ngũ cán bộ quản lý, kinh doanh tinh thông nghiệp
vụ, thích ứng với điều kiện kinh tế thị trường.
13
Mức độ thâm hụt của cán cân ngoại thương mới chỉ ở gần mức bằng
(2,350 tỷ USD trong năm 1997, năm 2002 là 3,028 tỷ USD), tốc độ nhập siêu
trung bình hàng năm từ 1995 - 2002 tăng 14.363%, chứng tỏ tiềm năng cho
đổi mới công nghệ còn rất hạn chế. Khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu
còn rất khiêm tốn.
Tình trạng nghèo đói tuy đã giảm mạnh những vẫn còn ở mức cao. Nếu tính
theo chỉ tiêu dinh dưỡng 2.100Kcal/ngày thì 24,1% dân số còn nghèo đói (2004).
Khung thể chế với sự can thiệp có định hướng của Nhà nước vào chuyển
dịch cơ cấu còn chưa đáp ứng được nhu cầu. Công nhận sự có mặt và tác
động của lực lượng thị trường, Nhà nước không thể duy trì như một lực lượng
độc tôn cải tổ cơ cấu nữa mà các biện pháp của Nhà nước phải mang tính dẫn
dắt và định hướng các lực lượng thị trường. Những can thiệp gián tiếp như
chính sách tài chính, tín dụng, tiền tệ, pháp luật ... nhằm duy trì hoạt động
kinh doanh, đảm bảo môi trường cạnh tranh còn cần phải hoàn thiện.
Nhân tố ngoại lực do chính sách mở cửa nền kinh tế vẫn thương bộc lộ
hai mặt là làm tăng cơ hội lợi dụng những nhân tố bên ngoài thay thế cho
những điều kiện thiếu hụt của các điều kiện tiền đề bên trong nên ở mức độ
nào đó gia tăng sự phu thuộc vào bên ngoài.
Từ những phân tích về hiện trạng phát triển của Việt Nam và những tác động
của bối cảnh quốc tế có thể thấy rằng:
Về nguồn lực chủ yếu nhằm cải tổ cơ cấu xét trên phương diện tài
nguyên thiên nhiên, lao động và nguồn vốn của Việt Nam không những
không thua kém các nước NICs vào thời kỳ lịch sử của nó mà còn nhiều ưu
thế nổi bật đó là sự đa dạng của các nguồn tài nguyên và tiềm năng nguồn
nhân lực. Điều nay cho phép tận dụng lợi thế so sánh trong giai đoạn đầu để
tạo cho nền kinh tế hình thành các lợi thế so sánh trong giai đoạn sau.
Điểm khó khăn nhất của Việt Nam xét trên bình diện quốc tế Việt Nam
đang phải cạnh tranh với số lượng quốc gia lớn đang quyết tâm thực hiện
chiến lược công nghiệp hóa, đặc biệt là cạnh tranh trong tranh giành nguồn
vốn đầu tư có hạn từ nước ngoài.
3. Những cơ hội và thách thức đối với nền kinh tế trong thời gian
ngắn tới.
14
.
Bớc vào thực hiện kế hoạch 5 năm đầu tiên của thế kỷ mới,tình hình trong nớc
và bối cảnh quốc tế có nhiều thuận lợi,cơ hội lớn đan xen với những khó khăn
thách thức cũng rất lớn.
(1) Những thành tựu to lớn và rất quan trọn qua 10 năm đổi mới đã tạo ra thế và
lực mới cho bớc phát triển vào những năm đầu của thế kỷ 21.
Sự ổn định về chính trị-xã hội là nền tảng vững chắc tạo ra môi trờng thuận lợi
cho phát triển kinh tế-xã hội của đất nớc và đó cũng là thế mạnh cần khai thác
của nớc ta hiện nay. Quan hệ sản xuất đợc đổi mới phù hợp hơn với thực tế và
trình độ phát triển của lực lợng sản xuất, thể chế kinh tế thị trờng đã bớc đầu
hình thành và vận hành có hiệu quả. Hệ thống pháp luật,cơ chế chíh sách phù
hợp đang phát huy trong đời sống kinh tế và xã hội.
Cơ cấu kinh tế có bớc chuyển dịch bớc đầu, năng lực sản xuất và kết cấu hạ
tầng kinh tế,xã hội đã tăng đáng kể, tạo ra khả năng tốt hơn trong việc khai thác
các nguồn lực phát triển từ lao động,đất đai,từ cơ sở vật chất kỹ thuật của nền
kinh tế đã tạo dựng đợc.
Quan hệ chính trị, kinh tế, ngoại giao của nớc ta đã đợc mở rộng nhiều trên tr-
ờng quốc tế.
Tuy vậy, trình độ phát triển của nớc ta còn thấp,chất lợng,hiệu quả và sức cạnh
tranh còn kém, quy mô sản xuất nhỏ bé, GDP bình quân đầu ngời năm 2000
mới khoảng 400USD, dới mức nghèo của thế giới, thu nhập và tiêu dùng của
dân c cha đủ tạo sức bật mới với sản xuất và phát triển thị trờng, hệ thống tài
chính,tiền tệ còn những yếu kém, bất cập.
Cơ cấu kinh tế tuy có sự chuyển dich nhng còn chậm,cha phát huy đợc lợi thế
so sánh trong từng ngành,từng vùng,kết cấu hạ tằng kinh tế và xã hội cha đáp
ứng đợc yêu cầu phát triển. Trình độ công nghệ nhìn chung còn lạc hậu khá xa so
với các nớc trong khu vực. Các chỉ tiêu về chất lợng và hiệu quả của kinh tế vĩ mô
và của các doanh nghiệp đều có những yếu kém đáng lo ngại, đang đứng trớc
những thách thức rất lớn trong hội nhập kinh tế quốc tế
15
(2) Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ trên thế giới,đặc biệt là công nghệ
thông tin và công nghệ sinh học, sẽ có tác dụng lớn và tích cực đến việc thực
hiện chiến lợc công nghiệp hoá,hiện đại hoá của nớc ta. Vấn đề đặt ra đối với
chúng ta là tranh thủ tối đa sự chuyển giao công nghệ,tăng nhanh khả năng và
những điều kiện cần thiết cho việc tiếp nhận và làm chủ công nghệ mới, gắn kết
chặt chẽ khoa học và công nghệ với sản xuất kinh doanh, tổ chức quản lý và với
mọi hoạt động của con ngời.
Xu thế toàn cầu hoá sẽ dẫn đến việc cơ cấu lại nền kinh tế thế giới làm cho cuộc
đấu tranh về trật tự kinh tế thế giới sẽ diễn ra gay gắt.tuy vậy các nớc đi sau
nếu chủ độn trong lộ trình hội nhập thì sẽ hạn chế đợc những rủi ro và có cơ hội
phát triển nhanh. Chúng ta cần tận dụng tối đa những mặt thuận, những cơ hội
của toàn cầu hoá và hội nhập, đồng thời phải né tránh,hạn chế những mặt trái,
những rủi ro, tiêu cực rất lớn của nó.
Trong bối cảnh quốc tế đó,nếu có những quyết sách đúng, sẽ tạo điều kiện cho
nớc ta mở rộng khả năng hợp tác,khai thác lợi thế so sánh, tranh thủ tốt hơn
nguồn lực bên ngoài,phát huy mạnh hơn nội lực,tạo thành sức mạnh tổng hợp
phát triển đất nớc.
Tuy nhiên, tình hình quốc tế trong những năm tới diễn biến phức tạp; đặc biệt là
sau sự kiện 11-9-2001, bôi cảnh tình hình kinh tế thế giới xuất hiện những khó
khăn mới, làm cho các nền kinh tế lớn khó có khả năng phục hồi nhanh tốc độ
tăng trởng, ảnh hởng đến kinh tế toàn cầu;tình hình đó tác động không ít đến
khả năng tăng trởng kinh tế nớc ta. Tuy nhiên, trong bối cảnh đó,với sự ổn định
chính trị,xã hội của nớc ta và việc cải thiện đáng kể môi trờng đầu t,kinh doanh
cũng sé xuất hiện những thuận lợi mới, những lợi thé thế lớn cần khai thác, phát
huy.
Mặt khác,năng lực cạnh tranh của nhiều nớc sẽ đợc cải thiện, các nớc trong khu
vực đã khắc phục khủng hoảng,hồi phục khả năng phát triển,thì càng tăng sức
ép đối với nền kinh tế nớc ta vốn đang kém sức cạnh tranh.
Điều đó đòi hỏi chúng ta phải phát huy cao độ sức mạnh của toàn dân tộc,đặc
16
biệt là trí tuệ và kỹ năng lao độn của ngời Việt Nam, nguồn lực của mọi thành
phần kinh tế,khắc phục những khó khăn,yếu kém,tận dụng mọi thuận lợi và thời
cơ để phát triển kinh tế-xã hội nhanh và bền vững theo định hớng xã hội chủ
nghĩa.
17