Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

Quyền công tố của viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (9.61 MB, 81 trang )

B ộ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ T ư PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

nmmMÊimsmmmmm

-S0OR-

PHẠM THỊ THÙY LINH
*

3

CƠNG TĨ CỦA VIÊN KIỂM
TRONG GIAI ĐOẠN
ĐIỀU TRA v ựƯ© ÁN
Á N ỈHÌNH s ựÃ
*

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
*

9

ế

9



B ộ• GIÁO DỤC
Đ À O TẠO



BỘ T ư PHÁP

T R Ư Ờ N G Đ Ạ I H Ọ C LUẬT HÀ NỘI

PHẠM THỊ THÙY LINH

QUYỀN CƠNG TĨ CỦA VIỆN KIEM SÁT
TRONG GÍAỈ ĐOẠN ĐỈỀU TRA v ụ ÁN HÌNH s ự
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT HÌNH s ự
MÃ SỐ: 60.38.40

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẶT HỌC

Người hưởng dẫn khoa học:
PGS. TS. HỒNG THỊ MINH SƠN
TRUNG TẦM THƠNG TIN THƯ VIỆN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ N Ộ !'

Hà Nội - 2012


LỜI CAM Đ O A N

Tôi xin cam đoan đây là cơng trình
nghiên cứu của riêng tơi. Các số liệu nêu trong

Luận văn là trung thực. Những kết luận khoa
học của Luận văn chưa từng được ai công bố
trong bất kì cơng trình khoa học nào khác.

Tác giả luận văn

Phạm Thị Thùy Linh


MỤC LỤC
Trang
1

MỞ ĐẦU

Chương 1:

MỘT SỐ VẤN ĐẺ LÍ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH
CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH s ự


6




HIỆN HÀNH VÈ QUN CƠNG TĨ CỦA
VIỆN KIẺM SÁT TRONG GIAI ĐOẠN ĐIÈU
TRA VỤ ÁN HÌNH s ự
1.1


Một số vấn đề lí luận về quyền công tố của Viện kiểm sát trong

6

giai đoạn điều tra vụ án hình sự
1.2

Quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về quyền

20

cơng tố của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự
32

Kết luận Chương 1

Chương 2:

THựC

TRẠNG

THỤC

HÀNH

QUN

33


CƠNG TỐ VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THựC HÀNH
QUN CƠNG TĨ CỦA VIỆN KIỂM SÁT
TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA v ụ ÁN
HÌNH S ự
2.1

Thực trạng thực hành quyền cơng tố của Viện kiểm sát trong

33

giai đoạn điều tra vụ án hình sự
22

Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thực hành quyền

58

công tố của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự
Kết luận Chương 2

68

KÉT LUẬN

69

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO



DANH MỤC CHỮ VIÉT TẮT

BLHS:

Bộ luật Hình sự

BLTTHS:

Bộ luật Tố tụng hình sự

CQĐT:

Cơ quan điều tra

ĐTV:

Điều tra viên

HĐXX:

Hội đồng xét xử

KSV:

Kiểm sát viên

TA:

Tịa án


TAND:

Tịa án nhân dân

TTHS:

Tố tụng hình sự

VAHS:

Vụ án hình sự

VKS:

Viện kiểm sát

VKSND:

Viện kiểm sát nhân dân

VKSNDTC:

Viện kiểm sát nhân dân tối cao.


MỎ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng diễn ra từ ngày 12/01/2011
đến ngày 19/01/2011 đã xác định: “Đẩy mạnh việc thực hiện chiến lược cải cách tư

pháp đến năm 2020, xây dựng hệ thống tư pháp trong sạch, vững mạnh, bảo vệ
công lý, tôn trọng và bảo vệ quyền con người”. Trên cơ sở những nguyên tắc xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và xây dựng hệ thống tư pháp trong
chiến lược cải cách tư pháp, Đảng ta chỉ rõ: “VKSND được tổ chức phù hợp với hệ
thống của TA, bảo đảm tốt hơn các điều kiện để VKSND thực hiện hiệu quả chức
năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp; tăng cường trách
nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra”.
Không phải ngẫu nhiên mà trong giai đoạn này các Nghị quyết, đường lối
chủ trương, chính sách của Đảng lại đặc biệt nhấn mạnh đến vai trị của cơng tố đối
với hoạt động điều tra và yêu cầu phải “tăng cường” và “gắn” cơng tố với hoạt động
điều tra. Mà điều đó có ngun nhân sâu xa từ lí luận và thực tiễn áp dụng các quy
định của pháp luật về quyền công tố của VKS trong giai đoạn điều tra VAHS.
Theo quy định của pháp luật TTHS hiện hành VKSND vẫn thực hiện 2 chức
năng được quy định tại Điều 23 BLTTHS năm 2003, đó là: thực hành quyền cơng
tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTHS. Trong hai chức năng nêu trên
thì chức năng thực hành quyền công tố được đặt lên hàng đầu nhưng không tách
biệt mà vẫn nằm trong mối quan hệ chặt chẽ với chức năng kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong TTHS. Mối quan hệ giữa chức năng thực hành quyền công tố và
chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giai đoạn điều tra VAHS cũng
khơng nằm ngồi quy luật đó. về quyền cơng tố của VKS trong giai đoạn điều tra
VAHS, BLTTHS năm 2003 đã có những quy định rất cụ thể. Theo đó thì trong giai
đoạn này, VKS giữ quyền công tố “định hướng” và “chỉ đạo” các hoạt động điều

Tuy nhiên, qua thực tiễn áp dụng pháp luật TTHS thời gian gần đây cho
thấy: Mặc dù BLTTHS năm 2003 quy định quyền năng của VKS trong hoạt động


2

điều tra là rất lớn nhưng có những quy định gần như chỉ mang tính hình thức, khơng

có tính khả thi trên thực tiễn, khơng có cơ chế thực hiện hiệu quả. Mặt khác có
nhiều quy định mang tính chất chung chung, khơng rõ ràng, cụ thể, chưa có văn bản
hướng dẫn kịp thời dẫn đến có nhiều cách hiểu, cách áp dụng khác nhau giữa các
địa phương, giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, không đảm bảo được sự thống nhất
của pháp luật, dẫn đến chất lượng thực hành quyền cơng tố trong giai đoạn điều tra
cịn chưa cao.
Như vậy nhìn từ góc độ lí luận và thực tiễn vấn đề quyền công tố của VKS ở
giai đoạn điều tra VAHS đều đang đòi hỏi cần được nghiên cứu dưới góc độ chuyên
sâu hơn nữa để từ đó đưa ra được những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thực
hành quyền công tố trong thực tiễn áp dụng, thực hiện được định hướng “tăng
cường” và “gắn” công tố với điều tra mà Đảng ta đã đề ra. Chính vì vậy tác giả đã
lựa chọn đề tài “Quyền cơng tố của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra vụ án
hình s ự ” làm đề tài luận văn thạc sỹ.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong thời gian gần đây đã có khá nhiều các cơng trình khoa học nghiên cứu
về quyền công tố của VKSND. Một số cơng trình tiêu biểu có thể kể đến như: Bàn
về quyền công tổ của tác giả Phạm Hồng Hải; Một số vấn đề về quyền công tố của
VKS của tác giả Nguyễn Thái Phúc; về thực hiện quyền công tổ của VKSND trong
TTHS, thực tiễn và kiến nghị của TS.Vũ Mộc; Một số ỷ kiến về quyền công tố và cơ
quan công tổ của TS.Nguyễn Đức Mai (Kỷ yếu đề tài khoa học cấp bộ “Những vấn
đề lý luận về quyền công tổ và thực tiễn hoạt động công tổ ở Việt Nam từ năm 1945
đến nay”, VKSNDTC, H. 1999); Một sổ vấn đề về quyền công tổ của TS.Trần Văn
Độ (Tạp chí Luật học số 03/2001); Một số ỷ kiến về giám sát tư pháp và quyền công
tố của TS.Khuất Văn Nga (Tạp chí Kiểm sát số 11/2001); Luận án tiến sỹ luật học
Quyền công tố ở Việt Nam (Viện nghiên cứu nhà nước và pháp luật năm 2002) của
tác giả Lê Thị Tuyết Hoa; Thực hành Quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư
pháp trong giai đoạn điều tra (Nhà xuất bản Tư pháp, năm 2005) của TS.Lê Hữu
Thể (chủ biên), T.s Đỗ Văn Đương, Th.s Nông Xuân Trường; Thực hành quyền



3

công tổ và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTHS của VKS (Tạp chí Luật học
số 01/2004) của TS. Hồng Thị Minh Sơn... Tuy nhiên những cơng trình nghiên cứu
đó hoặc là nghiên cứu về quyền cơng tố nói chung trong TTHS, hoặc là nghiên cứu
về quyền cơng tố với tư cách là một bộ phận khi nghiên cứu về chức năng của
VKSND trong giai đoạn điều tra VAHS mà chưa có một cơng trình nào tập trung
nghiên cứu về quyền công tố dưới phương diện là một quyền riêng biệt của VKS
trong giai đoạn điều tra VAHS.
Xuất phát từ tình hình nghiên cứu như trên cho thấy, cần phải có sự nghiên
cứu về quyền cơng tố của VKS trong giai đoạn điều tra VAHS một cách độc lập
thơng qua việc phân tích các qui định của pháp luật TTHS hiện hành nói chung mà
đặc biệt là các quy định của BLTTHS năm 2003 cũng như thực tiễn áp dụng các
quy định này từ đó nhận thấy những ưu điểm và những hạn chế trong thực tiễn áp
dụng để đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố
của VKSND trong giai đoạn điều tra VAHS.
3. Muc đích, nhiêm vu của ln văn


7







Trên cơ sở nghiên cứu một số vấn đề lí luận, qui định của pháp luật TTHS
hiện hành, kết hợp với đánh giá thực trạng thực hành quyền công tố, luận văn có
m ục đích đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thực hành quyền công

tố của VKS trong giai đoạn đoạn điều tra VAHS, đặc biệt các giải pháp về hoàn
thiện pháp luật TTHS hiện hành.
Đe thực hiện được mục đích nghiên cứu đó tác giả đặt ra các nhiệm vụ
nghiên cứu sau đây:
- Nghiên cứu một số vấn đề lí luận về quyền cơng tố của VKS trong giai
đoạn điều tra VAHS như: khái niệm, đối tượng và phạm vi, chủ thể và nội dung...
quyền công tố của VKS trong giai đoạn điều tra VAHS. Nghiên cứu những quy
định của pháp luật TTHS hiện hành về quyền công tố của VKS trong giai đoạn điều
tra VAHS.
- Đánh giá thực trạng thực hành quyền công tố của VKS trong giai đoạn điều
tra VAHS để tìm ra những nguyên nhân hạn chế của thực trạng.


4

4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là một số vấn đề về lí luận, các qui định
của pháp luật TTHS hiện hành và thực trạng thực hành quyền công tố của VKS
trong giai đoạn điều tra VAHS.
Do thời gian và khn khổ có hạn, phạm vi nghiên cứu của luận văn chỉ giới
hạn trong việc nghiên cứu quyền công tố của VKSND (không bao gồm hệ thống
VKS quân sự) trong một giai đoạn TTHS nhất định đó là giai đoạn điều tra VAHS
từ năm 2007 đến năm 2011.
5. Cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được hoàn thành dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử của triết học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng
thời sử dụng các phương pháp nghiên cứu khác như: Thống kê, phân tích, so sánh,
tổng họp, dựa trên các quy phạm pháp luật hiện hành, các tài liệu, sách báo liên
quan, các bài viết của các tác giả đã nghiên cứu trước đó, kết hợp với đánh giá thực
tiễn áp dụng các quy định của pháp luật TTHS hiện hành để hoàn thành luận văn

này một cách có chất lượng.
6. Đóng góp mói của luận văn
- Điểm mới của luận văn là làm rõ một số vấn đề lí luận và thực tiễn của
quyền cơng tố của VKS trong giai đoạn điều tra VAHS với nghĩa là một quyền mà
không phải là một trong hai chức năng của VKSND ở giai đoạn này. Đặc biệt chú
trọng đến những quy định của pháp luật TTHS hiện hành về nội dung của quyền
công tố trong giai đoạn điều tra VAHS. Đây là một hướng nghiên cứu hoàn toàn
mới, tác giả hy vọng bằng việc đánh giá những quy định của pháp luật TTHS về
quyền công tố của VKS trong giai đoạn điều tra VAHS, tác giả sẽ góp phần mở ra
một cách nhìn mới, một hướng nghiên cứu mới về vấn đề này.
- Phát hiện được một số vướng mắc, bất cập trong thực tiễn áp dụng pháp
luật TTHS hiện hành về quyền công tố của VKS trong giai đoạn điều tra VAHS.
- Kiến nghị sửa đổi, bổ sung một số qui định của pháp luật TTHS đặc biệt là
các quy định của BLTTHS năm 2003 và đưa ra một số giải pháp khác nhàm nâng
cao chất lượng thực hành quyền công tố của VKS trong giai đoạn điều tra VAHS.


5

7. Ý nghĩa của luận văn
Khi thực hiện luận văn thạc sỹ luật học với đề tài “Quyền công tổ của Viện
kiêm sát trong giai đoạn điều tra vụ án hình s ự ” tác giả mong mn góp phân đi
sâu nghiên cứu về một quyền năng riêng biệt, cụ thế của VKS trong giai đoạn điều
tra VAHS được quy định trong pháp luật TTHS hiện hành, góp phần nâng cao chất
lượng thực hành quyền công tố của VKS trong giai đoạn điều tra VAHS nói riêng,
trong các giai đoạn tố tụng nói chung; nâng cao chất lượng hoạt động tố tụng của
các cơ quan tư pháp; giảm thiểu oan, sai trong đấu tranh, phòng, chống tội phạm;
bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân.
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong công tác giảng
dạy, nghiên cứu trong các trường đào tạo về pháp luật và cũng là tài liệu để những

người tiến hành tố tụng vận dụng vào thực tiễn công tác trong lĩnh vực TTHS.
8. Kết cấu của Luân văn
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, phần nội dung chính của luận văn bao
gồm 02 chương:
-

Chương 1: Một số vấn đề lí luận và quy định của pháp luật TTHS hiện

hành về quyền công tố của VKS trong giai đoạn điều tra VAHS.
-

Chương 2: Thực trạng thực hành quyền công tố và những giải pháp nhằm

nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra VAHS.


6

Chương 1
MỘT SĨ VẤN ĐÈ LÍ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ
TỤNG HÌNH S ự HIỆN HÀNH VÊ QƯYÈN CÔNG TỐ CỦA VIỆN KIẺM
SÁT TRONG GIAI ĐOẠN ĐIÈU TRA v ụ ÁN HÌNH s ự






1.1 Một số vấn đề lí luận về quyền cơng tố của Viện kiểm sát trong giai
đoan điều tra vu án hình sư







1.1.1 Khái niệm quyền công tố của Viện kiểm sát trong giai đoạn điểu tra
vụ án hình sự
Quyền cơng tố là một khái niệm pháp lý xuất hiện cùng với sự xuất hiện của
Nhà nước và pháp luật, quyền công tố gắn liền với bản chất từng kiểu Nhà nước và
gắn liền với cách thức tổ chức thực hiện quyền lực của từng kiểu Nhà nước đó, ở
từng quốc gia nhất định trong những điều kiện và hoàn cảnh lịch sử cụ thể.
Từ trước khi BLTTHS năm 2003 ra đời cũng như ngay sau khi BLTTHS
năm 2003 có hiệu lực thi hành thì vấn đề quyền cơng tố ln nhận được rất nhiều sự
quan tâm nghiên cứu của các nhà luật học. Trong các cơng trình nghiên cứu đó các
nhà luật học đã đưa ra nhiều quan điểm khác nhau về quyền công tố. Trong số các
quan điểm khác nhau về quyền cơng tố đó, tác giả đồng ý với quan điểm cho rằng:
Quyền công tố là quyền nhân danh Nhà nước thực hiện việc truy cứu trách
nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Quyền này thuộc về Nhà nước, được Nhà
nước giao cho một cơ quan thực hiện (ở nước ta là cơ quan VKS) để phát hiện tội
phạm và truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Để làm được điều
này cơ quan có chức năng thực hành quyền cơng tố phải có trách nhiệm bảo đảm
việc thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ để xác định tội phạm và người phạm tội.
Trên cơ sở đó quyết định truy tố bị can ra trước TA và bảo vệ sự buộc tội đó trước
phiên tịa [31, tr.40].
Quyền cơng tố là quyền năng mà theo đó VKS là chủ thể duy nhất được Nhà
nước giao cho để đại diện cho Nhà nước bảo vệ lợi ích của Nhà nước, lợi ích của
tập thể, lợi ích của cá nhân trong một lĩnh vực tố tụng tư pháp duy nhất “mà từ cội
nguồn lịch sử của nó đã gắn liền không thể tách rời với việc nhân danh Nhà nước



7

(nhân danh cơng quyền) chống lại hình thức vi phạm pháp luật nghiêm trọng (tội
phạm )”, đó chính là lĩnh vực TTHS. TTHS khác với các lĩnh vực tố tụng tư pháp
khác bởi nguyên tắc đặc thù của TTHS là ngun tắc cơng tố. Theo đó nghĩa vụ xác
định sự thật vụ án, xác định hành vi cũng như người thực hiện tội phạm thuộc về
các cơ quan tiến hành tố tụng. Lợi ích được bảo vệ ở đây trước hết và chủ yếu là lợi
ích Nhà nước, lợi ích chung của xã hội, lợi ích của cơng dân. Chính vì vậy mà việc
bắt đàu, chấm dứt các hoạt động tố tụng trong q trình giải quyết VAHS khơng
phụ thuộc vào ý chí của những người tham gia tố tụng (bị can, bị cáo, người có
quyền lợi nghĩa vụ liên quan...). Ngược lại trong các lĩnh vực tố tụng khác như tố
tụng dân sự, tố tụng lao động... thì nguyên tắc tự định đoạt của đương sự là nguyên
tắc cơ bản. Đối tượng của hoạt động tố tụng trong các lĩnh vực trên là tranh chấp
dân sự, tranh chấp lao động... chủ yếu đụng chạm tới lợi ích của các bên đương sự
nên việc bắt đầu hay chấm dứt các hoạt động tố tụng chủ yếu là do ý chí của các
bên trong tranh chấp quyết định.
Tuy nhiên sự khác biệt này chỉ có tính chất tương đối. Khoản 1 Điều 105
BLTTHS năm 2003 có quy định về các trường hợp khởi tố VAHS theo yêu cầu
người bị hại mà theo đó đối với một số tội thì chỉ được khởi tố khi có yêu cầu của
người bị hại hoặc của người đại diện hợp pháp của người bị hại là người chưa thành
niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất; trong trường hợp người đã
yêu càu khởi tố rút yêu cầu trước ngày mở phiên tòa sơ thẩm thì vụ án phải được
đình chỉ. Như vậy đối với các VAHS khởi tố theo yêu cầu của người bị hại thì hoạt
động tố tụng trong quá trình giải quyết các VAHS đó khơng hồn tồn tn theo
ngun tắc cơng tố mà có màu sắc của ngun tắc tự định đoạt - nguyên tắc đặc thù
của việc giải quyết các vụ án, các tranh chấp có tính chất tư tố như tranh chấp dân
sự, hành chính, lao động...
Để xây dựng được khái niệm quyền công tố của VKS trong giai đoạn điều tra
VAHS, sau khi xác định được khái niệm quyền công tố, tác giả sẽ tiếp tục làm rõ

khái niệm về giai đoạn điều tra VAHS. Trong khoa học luật TTHS dựa trên sự khác
biệt về chủ thể (cơ quan tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng...) các nhà nghiên


8

cứu đã chia tiến trình tố tụng trong quá trình giải quyết một VAHS thành các giai
đoạn: Khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án. Trong quy định của pháp luật
TTHS hiện hành mà cụ thể là trong quy định của BLTTHS năm 2003 tuy chưa có
một điều luật cụ thể nào quy định về các giai đoạn tố tụng cũng như đưa ra khái
niệm rõ ràng về các giai đoạn tổ tụng nhưng thông qua cách sắp xếp các phần, các
chương, tên của các phần, các chương, nội dung các điều luật cụ thể chúng ta có thể
nhận thấy Bộ luật đã gián tiếp quy định việc giải quyết một VAHS thông thường
phải trải qua các giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án. Như vậy là
cả về mặt khoa học lí luận cũng như quy định của luật thực định đều thừa nhận điều
tra là một giai đoạn tố tụng. Tuy nhiên giai đoạn điều tra bắt đầu từ đâu và kết thúc
khi nào thì hiện nay vẫn có nhiều quan điểm khác nhau.
Quan điểm thứ nhất: Khởi tố và điều tra VAHS là một giai đoạn. Mà theo đó
thì điều tra là giai đoạn đầu tiên của quá trình tiến hành TTHS, trong đó CQĐT áp
dụng mọi biện pháp do BLTTHS quy định để xác định tội phạm và người thực hiện
hành vi tội phạm [24, tr.5].
Giai đoạn khởi tố VAHS khác biệt so với giai đoạn điều tra về nhiệm vụ,
mục đích, ý nghĩa, chủ thể và trình tự, thủ tục tiến hành tố tụng... Giai đoạn khởi tố
là giai đoạn đầu tiên trong quá trình tố tụng có nhiệm vụ xác định xem sự việc xảy
ra có dấu hiệu tội phạm hay không để ra quyết định khởi tố hoặc khơng khởi tố
VAHS. Trong khi đó giai đoạn điều tra là giai đoạn tiếp theo của giai đoạn khởi tố,
có nhiệm vụ thu thập và củng cổ các chứng cứ, nghiên cứu các tình tiết của VAHS,
phát hiện nhanh chóng và đầy đủ tội phạm, cũng như người có lỗi trong việc thực
hiện tội phạm để truy cứu trách nhiệm hình sự, đồng thời bảo đảm cho việc bồi
thường thiệt hại về vật chất do tội phạm gây nên và trên cơ sở đó làm bản kết luận

điều tra và ra quyết định đình chỉ điều tra VAHS hoặc đề nghị truy tố bị can. Chủ
thể của giai đoạn khởi tố rất đa dạng, bao gồm các cơ quan tiến hành tố tụng
(CQĐT, VKS, TA) và các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động
điều tra (Bộ đội biên phòng, Kiểm lâm, Hải quan, lực lượng Cảnh sát biển, các cơ
quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được tiến hành một số hoạt


9

động điều tra) và người bị hại (khởi tố VAHS theo yêu cầu của người bị hại). Trình
tự, thủ tục tiến hành của 2 giai đoạn này cũng hoàn toàn khác biệt. Trình tự, thủ tục
trong giai đoạn khởi tố được quy định tại chương VIII của BLTTHS, trong khi trình
tự, thủ tục của giai đoạn điều tra lại được quy định từ chương IX tới chương XIV.
Quan điểm thứ hai: Giai đoạn điều tra bao gồm cả điều tra, truy tố. Nghĩa là
giai đoạn truy tố không tồn tại độc lập mà “trong giai đoạn điều tra VAHS, phạm vi
thực hành quyền công tố bắt đầu từ khi khởi tố vụ án và kết thúc khi VKS quyết
định việc truy tố người phạm tội ra tòa, hoặc khi vụ án được đình chỉ theo quy định
của pháp luật” [31, tr.66].
Giai đoạn truy tố là một giai đoạn tố tụng độc lập có nhiệm vụ, chủ thể, thủ
tục, trình tự riêng không trùng lặp với giai đoạn điều tra. Truy tố là giai đoạn thứ ba
của hoạt động TTHS, mà trong giai đoạn này VKS căn cứ vào các quy định của
pháp luật TTHS hiện hành tiến hành các biện pháp cần thiết nhằm đánh giá một
cách toàn diện, khách quan các tài liệu của VAHS (bao gồm hồ sơ điều tra, kết luận
điều tra) do CQĐT chuyển đến và trên cơ sở đó VKS ra quyết định truy tố bị can
trước TA bằng bản cáo trạng hoặc trả hồ sơ để điều tra bổ sung hoặc là đình chỉ hay
tạm đình chỉ VAHS. Giai đoạn truy tố có nhiệm vụ đảm bảo tính có căn cứ và hợp
pháp của quyết định truy tố, quyết định đình chỉ, quyết định tạm đình chỉ, quyết
định trả hồ sơ điều tra bổ sung do chủ thể duy nhất là VKS tiến hành với trình tự,
thủ tục quy định tại chương XV của BLTTHS năm 2003.


về vấn đề này quy định của BLTTHS năm 2003 có sự mâu thuẫn. Trong khi
Điều 112 quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi thực hành quyền công tố
trong giai đoạn điều tra đã gián tiếp thừa nhận giai đoạn điều tra bao gồm cả giai
đoạn truy tổ thì quy định tại Điều 75, 76 của bộ luật lại thể hiện truy tố là một giai
đoạn tách biệt với giai đoạn điều tra.
Quan điểm thứ ba: “Điều tra là giai đoạn TTHS, trong đó cơ quan có thẩm
quyền áp dụng mọi biện pháp do BLTTHS quy định để xác định tội phạm và người
thực hiện hành vi phạm tội làm cơ sở cho việc giải quyết vụ án ” [27, tr.265].


10

Theo quan điểm này thì điều tra là một giai đoạn tố tụng độc lập có mục
đích, nhiệm vụ, phạm vi và chủ thể khác biệt so với giai đoạn trước nó là giai đoạn
khởi tố và giai đoạn sau nó là giai đoạn truy tố.
Mỗi quan điểm trên đều đứng ở những phương diện nhất định để đánh giá về
phạm vi của giai đoạn điều tra. Tác giả tán thành với quan điểm cho rằng điều tra là
một giai đoạn tố tụng độc lập sau giai đoạn khởi tố và trước giai đoạn truy tố. Giai
đoạn điều tra có nhiệm vụ quan trọng trong tiến trình tố tụng giải quyết VAHS. ở
giai đoạn này căn cứ vào các quy định của pháp luật TTHS và dưới sự kiểm sát của
VKS, CQĐT và một số cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động
điều tra tiến hành các biện pháp cần thiết nhằm “thu thập và củng cố các chứng cứ,
nghiên cứu các tình tiết của VAHS, phát hiện nhanh chóng và đầy đủ tội phạm,
cũng như người có lỗi trong việc thực hiện tội phạm tội để truy cứu trách nhiệm
hình sự, đồng thời bảo đảm cho việc bồi thường thiệt hại về vật chất do tội phạm
gây nên và trên cơ sở đó quyết định đình chỉ điều tra VAHS hoặc là chuyển tồn bộ
các tài liệu của vụ án đó cho VKS kèm theo kết luận điều tra và đề nghị truy tố bị
can” [3].
Các giai đoạn tố tụng có sự kế tiếp, có mối quan hệ chặt chẽ tác động qua lại
với nhau. Kết quả của giai đoạn trước là tiền đề, cơ sở cho giai đoạn sau. Ngược lại

giai đoạn sau không đơn thuần là sự nối tiếp của giai đoạn trước, mà nó cịn đánh
giá, khắc phục những thiếu sót, sai lầm của giai đoạn trước. Điều tra với vị trí là giai
đoạn TTHS thứ hai, là giai đoạn tố tụng tiếp nối giữa giai đoạn khởi tố và giai đoạn
truy tố. Phạm vi của giai đoạn điều tra bắt đầu từ khi CQĐT hoặc một số cơ quan
khác có nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra ra quyết định khởi tố vụ án và
kết thúc khi CQĐT hoặc một số cơ quan có nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động
điều tra kết thúc điều tra ra bản kết luận điều tra đề nghị truy tố hoặc ra bản kết luận
điều tra kèm quyết định đình chỉ điều tra.
Quyền công tố của VKS trong giai đoạn điều tra VAHS là một bộ phận của
quyền công tố, được đặt trong mối quan hệ với quyền công tố ở một giai đoạn tố
tụng nhất định đó là giai đoạn điều tra VAHS. Quyền công tố và quyền công tố


11

trong giai đoạn điều tra VAHS có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Đó chính là mối
quan hệ giữa cái chung và cái riêng, cái toàn bộ và cái bộ phận. Chính vì vậy khái
niệm quyền cơng tố của VKS trong giai đoạn điều tra VAHS sẽ được xây dựng dựa
trên khái niệm quyền công tố và khái niệm giai đoạn điều tra VAHS. Mà theo đó:
Quyền cơng tố của VKS trong giai đoạn điều tra VAHS là quyền nhân danh Nhà
nước thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội từ khi có
quyết định khởi tố VAHS cho đến khi CQĐT kết thúc điều tra ra bản kết luận điều
tra đề nghị truy tổ hoặc ra bản kết luận điều tra kèm quyết định đình chỉ điều tra.
Như vậy kể từ khi CQĐT hoặc một số cơ quan khác có nhiệm vụ tiến hành
một số hoạt động điều tra ra quyết định khởi tố vụ án cho đến khi CQĐT hoặc một
số cơ quan có nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra kết thúc điều tra ra bản
kết luận điều tra đề nghị truy tố hoặc ra bản kết luận điều tra kèm quyết định đình
chỉ điều tra thì VKS có quyền nhân danh Nhà nước thực hiện việc truy cứu trách
nhiệm hình sự đối với người phạm tội; đảm bảo việc thu thập đầy đủ tài liệu, chứng
cứ để xác định tội phạm và người phạm tội làm cơ sở để truy tố bị can ra trước TA

để xét xử.
1.1.2.

Đối tượng và phạm vi quyền công tổ của Viện kiểm sát trong giai

đoan điều tra vu án hình sư






Tn theo quy luật mối quan hệ giữa cái riêng và cái chung trong triết học
giữa quyền công tố trong giai đoạn điều tra VAHS và quyền cơng tố nói chung, đối
tượng và phạm vi của quyền công tố trong giai đoạn điều tra VAHS có mối quan hệ
chặt chẽ với đối tượng và phạm vi của quyền công tố.
*

Đổi tượng quyền công tố của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra vụ án

hình sự
Đối tượng của quyền cơng tố chính là cái mà quyền cơng tố tác động vào
nhằm đạt được mục đích truy cứu trách nhiệm hình sự (buộc tội) người phạm tội.
Chính vì vậy mà đối tượng của quyền công tố là tội phạm và người phạm tội [31,
tr.44].


12

Tương tự như vậy đối tượng của quyên công tô của VKS trong giai đoạn

điều tra VAHS cũng chính là cái mà quyền công tố của VKS trong giai đoạn này tác
động vào nhằm đạt được mục đích truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội do
hành vi phạm tội mà người đó đã gây ra. Từ đó chúng ta nhận thấy cũng giống như
đối tượng của quyền công tố, đối tượng của quyền công tố trong giai đoạn điều tra
VAHS cũng chính là tội phạm và người phạm tội.
*

Phạm vi quyền công tố của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra vụ án

hình sự
Xuất phát từ quan điểm quyền cơng tố như đã nêu trên thì có thể thấy phạm
vi quyền công tố chỉ được đề cập trong lĩnh vực TTHS. Đây cũng là quan điểm
được nhiều học giả đồng tình ủng hộ [7, tr.67]. Tuy nhiên trong cùng quan điểm
phạm vi quyền cơng tố chỉ có trong lĩnh vực TTHS cũng có nhiều quan điểm khác
nhau về thời điểm bắt đầu và thời điểm kết thúc quyền cơng tố. Trong các quan
điểm khác nhau đó, tác giả đồng tình với quan điểm: “Phạm vi quyền cơng tố bắt
đầu từ khi tội phạm được thực hiện và kết thúc khi bản án có hiệu lực pháp luật
hoặc vụ án bị đình chỉ theo quy định của pháp luật TTHS” [37, tr. 188]. Quyền công
tố cũng giống như các quyền năng khác chính là khả năng xử sự của chủ thể thực
hiện quyền đó hay nói cách khác quyền cơng tố chính là khả năng nhân danh Nhà
nước truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội của VKS. Mà khả năng
đó phát sinh từ khi tội phạm được thực hiện trên thực tế (chứ không phải thời điểm
tội phạm bị phát hiện) và chỉ kết thúc (khơng cịn khả năng bị truy cứu trách nhiệm
hình sự) khi bản án có hiệu lực pháp luật hoặc vụ án bị đình chỉ theo quy định của
pháp luật TTHS. Vì vậy mà phạm vi quyền cơng tố bắt đầu từ khi tội phạm được
thực hiện và kết thúc khi bản án có hiệu lực pháp luật hoặc vụ án bị đình chỉ theo
quy định của pháp luật TTHS.
Do quyền công tố của VKS trong giai đoạn điều tra VAHS chỉ gắn với một
giai đoạn TTHS nhất định đó là giai đoạn điều tra nên phạm vi quyền công tố của
VKS trong giai đoạn này trùng với phạm vi của giai đoạn điều tra. Vì vậy mà phạm

vi quyền công tố trong giai đoạn điều tra VAHS bắt đầu khi có quyết định khởi tố


13

VAHS và kết thúc khi CQĐT kết thúc điều tra ra bản kết luận điều tra đề nghị truy
tố hoặc ra bản kết luận điều tra kèm quyết định đình chỉ điều tra.
1.1.3.

Chủ thể và nội dung quyền công tố của Viện kiếm sát trong giai

đoạn điều tra vụ án hình sự






* Chủ thể quyền cơng tổ của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra vụ án
hình sự
Từ quan điểm quyền công tổ là quyền nhân danh Nhà nước truy cứu trách
nhiệm hình sự của người phạm tội nên chủ thể của quyền công tố không thể là một
cơ quan nào khác ngồi VKS. Do “quyền cơng tố như một sợi dây quyện chặt vào
suốt quá trình tố tụng về vụ án mà nòng cốt là việc đưa vụ án ra Tòa” và “phải xác
định chủ thể nào được giao nhiệm vụ đưa vụ án ra Tịa thì chủ thể ấy chính là cơ
quan thực hành quyền cơng tố” [10, tr.27].
v ề vấn đề này có quan điểm cho rằng: Thực hành quyền công tố trong giai
đoạn điều tra, truy tố, xét xử là hệ thống hoạt động thống nhất, liên tục khơng đứt
qng, vì vậy phải do một cơ quan tiến hành tố tụng, một người tiến hành tố tụng
thực hiện nên việc thực hiện chức năng điều tra, truy tố do hai cơ quan khác nhau

thực hiện, kiểm sát điều tra và thực hiện việc truy tố do hai KSV khác nhau là chưa
hợp lí [7, tr.l 1]. Xung quanh vấn đề này, hiện nay giữa các nhà nghiên cứu khoa
học vẫn đang có nhiều quan điểm trái chiều nhưng trong phạm vi luận văn tác giả
không đề cập tới mà nếu có điều kiện sẽ đưa ra phân tích trong một cơng trình
nghiên cứu chun khảo sâu hơn.
Do sự phân chia các giai đoạn trong quá trình tố tụng nên quyền cơng tố của
VKS trong giai đoạn điều tra VAHS có những đặc thù riêng, tuy nhiên chủ thể
quyền công tố ở giai đoạn này không có sự khác biệt so với chủ thể quyền cơng tố
nói chung. Vì vậy chủ thể quyền cơng tố ở giai đoạn điều tra VAHS cũng chỉ có
một cơ quan duy nhất được Nhà nước cho phép nhân danh mình thực hiện sự buộc
tội đối với người phạm tội. Và đó chính là VKSND.
* Nội dung quyền cơng tổ của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra vụ án
hình sự


14

Xuất phát từ những quan điểm khác nhau về quyền cơng tố dẫn đến hiện nay
vẫn cịn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về đối tượng, phạm vi cũng như nội
dung quyền công tố. Nhưng đáng lưu ý là cùng quan điểm quyền công tổ là quyền
nhân danh Nhà nước thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người
phạm tội cũng có những quan điểm khác nhau về nội dung của quyền công tố. Cụ
thể:
Quan điểm thứ nhẩt\ Nội dung của quyền công tố là tổng hợp các hoạt động
thực hiện quyền năng tố tụng theo quy định của pháp luật nhằm phát hiện kịp thời,
xử lý nghiêm minh mọi hành vi phạm tội đồng thời không làm oan người vô tội
[19]. Quan điểm này đã có sự nhầm lẫn giữa nội dung quyền cơng tố và nội dung
thực hành quyền cơng tố. Chúng ta có thể nhận thấy rõ nội dung của quyền công tố
là sự buộc tội đối với người phạm tội còn việc thực hiện quyền năng tố tụng theo
quy định của pháp luật nhằm phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm minh mọi hành vi

phạm tội đồng thời không làm oan người vô tội là nội dung thực hành quyền công
tố.
Quan điểm thứ hai: Nội dung của quyền công tố là sự buộc tội đối với người
đã thực hiện hành vi tội phạm [31, tr.44].
Tác giả hồn tồn đồng tình với quan điểm thứ hai. Xuất phát từ quan điểm
quyền công tố là quyền nhân danh Nhà nước thực hiện việc truy cứu trách nhiệm
hình sự (buộc tội) đối với người phạm tội của VKS nên chúng ta có thể nhận thấy rõ
ràng nội dung của quyền cơng tố chính là sự buộc tội đối với người phạm tội (người
đã thực hiện hành vi phạm tội).
1.1.4.

Mối quan hệ giữa quyền công tố, thực hành quyển công tố, kiểm sát

việc tuân theo pháp luật trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự
*

Mối quan hệ giữa quyền công tổ và thực hành quyền cơng tố trong giai

đoạn điều tra vụ án hình sự
Xung quanh các vấn đề khái niệm, nội dung, đối tượng, phạm vi thực hành
quyền cơng tố hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau của các nhà nghiên cứu khoa
học. Trong các quan điểm khác nhau đó tác giả tán thành với các quan điểm mà


15

theo đó thực hành quyền cơng tố là việc sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý
thuộc nội dung quyền công tố để thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối
với người phạm tội trong các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử [31, tr.57][37,
tr. 188] và phạm vi thực hành quyền công tố bắt đầu từ khi khởi tố VAHS và kết

thúc khi bản án có hiệu lực pháp luật hoặc vụ án được đình chỉ khi có một trong
những căn cứ do luật TTHS quy định [37, tr. 188] còn nội dung thực hành quyền
công tố bao gồm những biện pháp cụ thể do luật TTHS quy định để VKS thực hiện
việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội bao gồm: Các hoạt động
thực hành quyền công tố ở giai đoạn khởi tố như khởi tố vụ án, yêu cầu CQĐT khởi
tố vụ án; các hoạt động thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra VAHS như
khởi tố bị can, thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can, đề ra
yêu cầu điều tra và yêu cầu CQĐT tiến hành điều tra...; các hoạt động thực hành
quyền công tố ở giai đoạn truy tố như lập cáo trạng, đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án...;
các hoạt động thực hành quyền công tố ở giai đoạn xét xử như luận tội, tranh luận
với người bào chữa...
Giống như mối quan hệ giữa quyền công tố ở giai đoạn điều tra và quyền
cơng tố nói chung, thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra và thực hành quyền
cơng tố nói chung cũng tn theo quy luật về mối quan hệ giữa cái riêng với cái
chung, cái bộ phận với cái tồn bộ. Chính vì vậy mà dựa trên cơ sở khái niệm, phạm
vi, nội dung thực hành quyền công tố tác giả cũng đưa ra quan điểm cá nhân về khái
niệm, phạm vi, nội dung thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra VAHS.
Cụ thể như sau:
Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra là việc VKS sử dụng tổng
hợp các quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền cơng tố để thực hiện việc truy
cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội từ khi có quyết định khởi tố VAHS
cho đến khi CQĐT kết thúc điều tra ra bản kết luận điều tra đề nghị truy tố hoặc ra
bản kết luận điều tra kèm quyết định đình chỉ điều tra. Phạm vi thực hành quyền
cơng tố trong giai đoạn điều tra VAHS chính là phạm vi của giai đoạn điều tra nên
phạm vi đó bắt đầu từ khi có quyết định khởi tố VAHS cho đến khi CQĐT kết thúc


16

điều tra ra bản kết luận điều tra đề nghị truy tố hoặc ra bản kết luận điều tra kèm

quyết định đình chỉ điều tra. Nội dung thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều
tra bao gồm: khởi tố vụ án, khởi tố bị can, yêu cầu CQĐT khởi tố hoặc thay đổi
quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can; đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu CQĐT
tiến hành điều tra; trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra; quyết định áp dụng,
thay đổi, hủy bỏ biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam và các biện pháp ngăn chặn khác;
phê chuẩn, không phê chuẩn các quyết định của CQĐT; hủy bỏ các quyết định trái
pháp luật của CQĐT; quyết định việc truy tố bị can; quyết định đình chỉ, tạm đình
chỉ điều tra; quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án [31, tr.66], [48, tr.89].
Tuy nhiên theo tác giả nội dung thực hành quyền công tố theo quan điểm nêu
trên không chỉ giới hạn trong giai đoạn điều tra mà đã lấn sang cả giai đoạn khác
như giai đoạn khởi tố, truy tố. Ví dụ như việc khởi tố vụ án, yêu cầu CQĐT khởi tố
vụ án, áp dụng biện pháp bắt, tạm giữ (trừ trường hợp bắt truy nã bị can)... là các
nội dung thực hành quyền công tố ở giai đoạn khởi tố; quyết định việc truy tố, đình
chỉ, tạm đình chỉ vụ án là các nội dung thực hành quyền cơng tố ở giai đoạn truy
tố... Bên cạnh đó nội dung quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ điều tra không nên tách
ra là một nội dung độc lập trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn này. Bởi vì
theo quy định tại Điều 160, Điều 164 BLTTHS thì chủ thể có thẩm quyền tạm đình
chỉ hoặc đình chỉ điều tra là CQĐT, các quyết định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ điều
tra sẽ được gửi cho VKS trong thời hạn luật định. Nếu thấy việc tạm đình chỉ, đình
chỉ điều tra khơng có căn cứ thì VKS có quyền hủy bỏ quyết định tạm đình chỉ, đình
chỉ điều tra đó và yêu cầu CQĐT phục hồi điều tra. Như vậy là trong hoạt động thực
hành quyền công tố đối với việc đình chỉ hoặc tạm đình chỉ điều tra thì VKS chỉ có
quyền hủy bỏ quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ điều tra. Việc hủy bỏ này nằm trong
nội dung thực hành quyền công tố hủy bỏ các quyết định khơng có căn cứ và trái
pháp luật của CQĐT, còn việc yêu cầu CQĐT phục hồi điều tra nằm trong nội dung
thực hành quyền công tố là đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu CQĐT tiến hành điều


17


Tóm lại nội dung thực hành quyền cơng tố trong giai đoạn điều tra VAHS
bao gồm:
- Yêu câu CQĐT thay đôi, bô sung hoặc trực tiêp thay đôi, bô sung quyêt
định khởi tố VAHS; yêu cầu CQĐT khởi tố, thay đổi, bổ sung hoặc trực tiếp thay
đổi, bổ sung quyết định khởi tố bị can.
- Đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu CQĐT tiến hành điều tra; khi xét thấy cần
thiết, trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy định của BLTTHS.
- Quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp bắt, tạm giữ trong
trường hợp bắt truy nã bị can; quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp tạm
giam và các biện pháp ngăn chặn khác trong giai đoạn điều tra VAHS.
- Quyết định phê chuẩn, quyết định không phê chuẩn các quyết định của
CQĐT theo quy định của BLTTHS. Trong trường hợp khơng phê chuẩn thì trong
quyết định không phê chuẩn phải nêu rõ lý do.
- Huỷ bỏ các quyết định khơng có căn cứ và trái pháp luật của CQĐT.
-

Một sô nội dung thực hành quyên công tô khác được quy định rải rác tại

các điều luật cụ thể như: gia hạn điều tra (ĐI 19), gia hạn tạm giam bị can (Đ I20),
quyết định chuyển vụ án để điều tra theo thẩm quyền (ĐI 16).
Quyền công tố trong giai đoạn điều tra chính là quyền lực Nhà nước có nội
dung là sự buộc tội đối với người phạm tội trong phạm vi giai đoạn điều tra, cịn
thực hành quyền cơng tố trong giai đoạn điều tra là là việc VKS sử dụng tổng hợp
các quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố trong giai đoạn điều tra để
thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội trong giai đoạn
này. Vì vậy mối quan hệ giữa quyền cơng tố và thực hành quyền công tố trong giai
đoạn điều tra cũng như mối quan hệ giữa quyền công tố và thực hành quyền cơng tố
nói chung là “mối quan hệ biện chứng giữa quyền lực nhà nước và cách thức tổ
chức thực hiện quyền lực ấy” [10, tr.51]. Mối quan hệ biện chứng đó thể hiện sự tác
động qua lại, chặt chẽ giữa quyền công tố và thực hành quyền công tố ở giai đoạn

điều tra. Cụ thể: Căn cứ làm phát sinh quyền công tố trong giai đoạn điều tra cũng
chính là căn cứ làm phát sinh thực hành quyền cơng tố ở giai đoạn này. Đó chính là
TRUNG TÂM THÔNG TIN THƯ VIỆN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI


18

quyết định khởi tố VAHS. Những căn cứ dẫn đến sự kết thúc quyền công tố trong
giai đoạn điều tra cũng chính là căn cứ dẫn đến sự kết thúc hoạt động thực hành
quyền công tố ở giai đoạn này. Đó chính là việc CQĐT kết thúc điều tra ra bản kết
luận điều tra đề nghị truy tố hoặc ra bản kết luận điều tra kèm quyết định đình chỉ
điều tra.
Cũng cần phải lưu ý rằng khi tội phạm xảy ra là lúc làm phát sinh quyền
công tố, nhưng không phải ngay tại thời điểm đó cũng như khơng phải trong mọi
trường hợp tội phạm đều bị phát hiện nên khơng phải mọi trường hợp quyền cơng tố
phát sinh thì cũng kéo theo sự xuất hiện của thực hành quyền cơng tố. Điều đó cho
thấy phạm vi của quyền cơng tố thường kéo dài hơn phạm vi thực hành quyền cơng
tố. Nhưng trong giai đoạn điều tra thì phạm vi của quyền công tố và thực hành
quyền công tố đều giới hạn trong phạm vi giai đoạn điều tra VAHS nên thời điểm
phát sinh và thời điểm chấm dứt quyền công tố cũng như thời điểm phát sinh và
thời điểm chấm dứt hoạt động thực hành quyền công tố ở giai đoạn này trùng khớp
nhau nên mối quan hệ giữa chúng càng chặt chẽ, không tách rời trong suốt tiến trình
tố tụng của giai đoạn điều tra.
Xác định rõ mối quan hệ mật thiết giữa quyền công tổ và thực hành quyền
cơng tố trong TTHS nói chung, trong giai đoạn điều tra nói riêng khơng chỉ có ý
nghĩa về mặt nhận thức giúp chúng ta xác định đầy đủ và đúng đắn hơn về khái
niệm, nội dung, đối tượng, phạm vi quyền công tố và thực hành quyền công tố cũng
như có sự phân biệt rõ ràng giữa hai khái niệm hay có sự nhầm lẫn trong nhận thức
này mà cịn có ý nghĩa về mặt thực tiễn giúp chúng ta tìm kiếm những giải pháp

nâng cao chất lượng thực hành quyền cơng tố nói chung, chất lượng thực hành
quyền cơng tố trong giai đoạn điều tra nói riêng qua đó nhằm phát huy quyền cơng
tố trong đời sống xã hội.
*

Mối quan hệ giữa quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong

giai đoạn điều tra VAHS
Hiện nay theo quy định tại Điều 23 BLTTHS năm 2003 VKSND có hai chức
năng thực hành quyền cơng tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTHS.


19

Trong khoa học luật TTHS có nhiều cơng trình khoa học nghiên cứu về
quyền công tố nhưng hạn chế chung nhất trong các cơng trình nghiên cứu về quyền
cơng tố là hầu như các tác giả đều chưa thể phân biệt được rõ ràng giữa hai chức
năng này [7, tr.10]. Tuy nhiên gần đây đã có những cơng trình nghiên cứu nghiên
cứu về vấn đề này. Trong đó các tác giả đã đưa ra những tiêu chí phân biệt như: về
phạm vi hoạt động, về đối tượng, về căn cứ tiến hành, về hậu quả pháp lý... [29].
Mặc dù đã đưa ra những tiêu chí bước đầu giúp phân biệt được hai chức năng này
nhưng hầu như các tác giả đều cho rằng giữa chúng có sự độc lập tương đối trong
mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau, có những hoạt động là sự chuyển hóa rất linh
hoạt tạo nên sự thống nhất giữa 2 chức năng.
Riêng trong giai đoạn điều tra VAHS, thực hành quyền công tố là những
biện pháp mà VKS trực tiếp quyết định (như quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ
các biện pháp ngăn chặn, quyết định phê chuẩn hoặc không phê chuẩn các quyết
định của CQĐT...) còn kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giải quyết
VAHS là những biện pháp mà VKS không trực tiếp quyết định, mà qua công tác
kiểm sát nếu phát hiện vi phạm pháp luật của CQĐT thì kiến nghị, kháng nghị yêu

cầu CQĐT khắc phục, sửa chữa [31, tr.95]. Mối quan hệ giữa 2 chức năng ấy ở giai
đoạn điều tra là mối quan hệ biện chứng, có tác dụng hỗ trợ nhau, chúng song song
tồn tại có sự độc lập tương đối nhưng cũng khơng tách rời nhau. Mục đích của hoạt
động thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra là chứng minh tội phạm và người
phạm tội cịn mục đích của hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giai
đoạn này là đảm bảo cho hoạt động điều tra được tiến hành theo đúng trình tự, thủ
tục, nội dung do pháp luật quy định. Như vậy là cả 2 chức năng này đều nhằm tới
mục đích chung là đảm bảo mọi hành vi phạm tội đều được xử lý kịp thời, việc khởi
tố, điều tra, truy tố, xét xử phải đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt
tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vơ tội. Kiểm sát việc tn theo
pháp luật có hiệu quả là điều kiện đảm bảo thực hành quyền công tố chính xác,
khách quan và ngược lại.


20

Thông qua mối quan hệ với các hoạt động thực hành quyền công tố, các hoạt
động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTHS trong giai đoạn điều tra VAHS
tác động tới quyền công tố trong giai đoạn này theo mối quan hệ tác động qua lại,
độc lập tương đối nhưng chặt chẽ không tách rời. Làm rõ được mối quan hệ giữa
chúng giúp chúng ta có nhận thức đúng đắn, đầy đủ, khách quan về quyền công tố,
thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giai đoạn điều tra
VAHS.
1.2

Quỵ định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về quyền cơng tố

của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự
1.2.1


Yêu cầu Cơ quan điều tra thay đỗi, bồ sung hoặc trực tiếp thay đổi,

bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự; yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố, thay
đổi, bỗ sung hoặc trực tiếp thay đỏi, bỗ sung quyết định khởi tố bị can
Theo quy định tại điểm 1 Điều 112 BLTTHS năm 2003 thì một trong các
nhiệm vụ quyền hạn của VKS khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra
VAHS là khởi tố VAHS, khởi tố bị can; yêu cầu CQĐT khởi tố hoặc thay đổi quyết
định khởi tố vụ án, khởi tổ bị can. Mặt khác theo quy định tại Điều 106, Điều 126,
Điều 127 thì trong giai đoạn điều tra VAHS, VKS có quyền yêu cầu CQĐT thay
đổi, bổ sung hoặc trực tiếp thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố VAHS, yêu cầu
CQĐT khởi tố, thay đổi, bổ sung hoặc trực tiếp thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố
bị can. Tuy nhiên, theo quan điểm của tác giả hoạt động khởi tố VAHS, yêu cầu
CQĐT khởi tố VAHS không nằm trong các hoạt động thực hành quyền công tố ở
giai đoạn điều tra VAHS mà thuộc về hoạt động thực hành quyền công tố ở giai
đoạn khởi tố. Chính vì vậy mà nội dung thực hành quyền công tố của VKS trong
giai đoạn điều tra VAHS chỉ gồm yêu cầu CQĐT thay đổi, bổ sung hoặc trực tiếp
thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố VAHS; yêu cầu CQĐT khởi tố, thay đổi, bổ
sung hoặc trực tiếp thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố bị can.
*

Quyền yểu cầu Cơ quan điều tra thay đổi, bổ sung hoặc Viện kiểm sát trực

tiếp thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự


×