Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

Chính sách tài chính với việc đào tạo nguồn nhân lực thư viện số tại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (261.09 KB, 16 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>THƯ VIỆN SỐ TẠI VIỆT NAM</b>



<b>Hoàng Minh Bắc</b>

<b>1</b>


<b>*</b>

<b><sub> - Phạm Ngọc Hiển</sub></b>



<b>2</b>


<b>**</b>

<b><sub> - Phạm Tiến Đạt</sub></b>



<b>3</b>


<b>***</b>


<i><b>Tóm tắt: Kinh tế số đang có sự phát triển mạnh mẽ trên toàn thế giới </b></i>


<i>và tạo ra sự thay đổi căn bản trong cách tiếp cận hoạt động sản xuất, </i>
<i>tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ. Nền kinh tế số Việt Nam được đánh giá </i>
<i>là có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất khu vực Đông Nam Á với tốc độ </i>
<i>tăng trưởng đạt 38%/năm. Sự ra đời và phát triển mạnh mẽ của kinh </i>
<i>tế số kéo theo yêu cầu về trình độ nguồn nhân lực kỹ thuật cao, đặc </i>
<i>biệt là yêu cầu về sự đa dạng trong cách cung cấp và tiếp cận thông </i>
<i>tin, tri thức thông qua hệ thống thư viện hiện đại, thư viện số. u cầu </i>
<i>này địi hỏi cơng tác đào tạo nguồn nhân lực thư viện số phải thật sự </i>
<i>hiệu quả, đáp ứng được yêu cầu của tình hình mới. Hiện nay nhiều rào </i>
<i>cản đối với hiệu quả của hoạt động đào tạo, trong đó có rào cản về </i>
<i>cơ chế, chính sách tài chính như sự mất cân đối trong cơ cấu chi, tính </i>
<i>thiếu hiệu quả trong các chính sách hỗ trợ thuế, tín dụng… Bài viết </i>
<i>tập trung phân tích các chính sách tài chính cho đào tạo nói chung và </i>
<i>đào tạo nhân lực thư viện số nói riêng. Qua đó, rút ra một số khuyến </i>
<i>nghị chính sách nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả của hoạt động này.</i>



<i><b>Từ khóa: Thư viện; Nhân lực; Kỹ thuật số; Chính sách tài chính.</b></i>


<b>1. </b>

<b>PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC THƯ VIỆN SỐ PHÙ HỢP VỚI YÊU CẦU </b>


<b>CỦA NỀN KINH TẾ SỐ TẠI VIỆT NAM</b>



<b>1.1. Sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế số tại Việt Nam</b>


Kinh tế số là một phần của nền kinh tế, hiện có nhiều quan điểm về
<i>kinh tế số. Ở nghĩa hẹp, phát triển kinh tế số là sử dụng công nghệ số và dữ </i>


*<sub> Thạc sĩ, Trung tâm Thông tin - Thư viện, Đại học Quốc gia Hà Nội.</sub>


**<sub> Thạc sĩ, Trường Tiểu học Thanh Hải, Thanh Hà, Hải Dương.</sub>


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

<i>liệu để tạo ra những mơ hình kinh doanh mới, tạo ra sản phẩm, dịch vụ số hoặc </i>
<i>hỗ trợ cung cấp dịch vụ số cho doanh nghiệp (Nguyễn Minh Phong, 2019). </i>


<i>Nền kinh tế số được định nghĩa là “phần sản lượng kinh tế chỉ bắt nguồn </i>


<i>hoặc chủ yếu bắt nguồn từ các công nghệ số với mơ hình kinh doanh dựa vào </i>
<i>hàng hóa hoặc dịch vụ số” (Cục Thông tin khoa học và Công nghệ Quốc </i>


gia, Bộ Khoa học và Công nghệ, 2018). Theo nghĩa này, kinh tế số bao
gồm các ngành nghề có mơ hình kinh doanh gắn liền với cơng nghệ số:
các nền tảng trực tuyến (quảng cáo, truyền hình, ứng dụng…), các dịch
vụ hỗ trợ nền tảng như nền kinh tế chia sẻ, tài chính tổng hợp, gọi vốn
cộng đồng, hoạt động sản xuất thiết bị công nghệ thông tin (CNTT),
dịch vụ viễn thông, truy cập Internet, phát triển phần mềm…



<i>Theo nghĩa rộng, kinh tế số là “một nền kinh tế vận hành chủ yếu dựa </i>


<i>trên công nghệ số”, đặc biệt là các giao dịch điện tử tiến hành thông qua </i>


Internet, kinh tế số bao gồm tất cả các lĩnh vực và nền kinh tế (công
nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ; sản xuất, phân phối, lưu thơng hàng hóa,
giao thơng vận tải, logistic, tài chính ngân hàng,…) mà cơng nghệ số
được áp dụng. Tại Việt Nam, theo ông Vũ Đại Thắng, Thứ trưởng Bộ
Kế hoạch và Đầu tư, kinh tế số được hiểu là toàn bộ hoạt động kinh tế
dựa trên nền tảng số1<sub>. Hiểu theo nghĩa này, bất kỳ lĩnh vực nào áp dụng </sub>


công nghệ số vào việc quản lý, vận hành đều được xếp vào kinh tế số.
Trong nghiên cứu này, kinh tế số được hiểu theo nghĩa rộng, nghĩa tổng
quát này.


Về đặc điểm, dù được hiểu theo nghĩa nào thì kinh tế số cũng có
những đặc điểm khác biệt so với kinh tế truyền thống như: Dữ liệu
chính là nguồn tài nguyên giá trị trong nền kinh tế số; nền kinh tế số
hình thành từ sự phát triển các công nghệ số mới; sự tương tác giữa
diễn ra nhanh chóng, mạnh mẽ tạo ra những ảnh hưởng tích cực cho cả
<i>mạng lưới và nâng cao hiệu quả làm việc (Báo cáo tương lai kinh tế số Việt </i>


<i>Nam hướng tới năm 2030 và 2045, 2019). Các nghiên cứu của UNCTAD </i>


(2019), Ousmane Dione (2019) chỉ ra rằng, kinh tế số đã và đang thay
đổi các nền kinh tế trên toàn cầu, với tốc độ chóng mặt ở cả các nước


1 <sub></sub>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

phát triển và các nước đang phát triển. Việc ứng dụng rộng rãi các công


nghệ số mang lại lợi ích cho tất cả các đối tượng tham gia, chính phủ,
doanh nghiệp và người thụ hưởng sản phẩm, dịch vụ. Kinh tế số mang
lại hiệu quả tích cực khi mà hiệu suất kinh tế đạt được ở mức cao, các
sản phẩm được sản xuất, phân phối với tốc độ nhanh hơn, cung cấp đa
dạng, thuận tiện hơn và với chi phí thấp hơn. Đặc biệt với các dịch vụ
như thông tin, kinh tế số giúp việc cung cấp không bị giới hạn về không
gian, thời gian và mở rộng lớn về “khối lượng” và chất lượng.


Nền kinh tế số đang bùng nổ tại Việt Nam. Năm 2016, Tạp chí PC
mơ tả Việt Nam là "Thung lũng Silicon của Đông Nam Á". Các ngành
mới nổi và ngành công nghiệp phát triển nhanh ở Việt Nam bao gồm
cơng nghệ tài chính, viễn thơng, điện tử và sản xuất máy tính, dịch vụ
Cơng nghệ thơn tin và truyền thơng. Việt Nam có nhiều tiền đề quan
trọng để phát triển nền kinh tế số như hạ tầng kỹ thuật, hệ thống chính
sách hỗ trợ của Nhà nước, hệ thống giáo dục và đào tạo… Theo Báo
cáo “Nền kinh tế số Đông Nam Á 2019” do Google, Temasek và Bain
công bố tháng 10.2019, kinh tế số Việt Nam năm 2019 đạt trị giá 12 tỷ
USD (đóng góp 5% GDP quốc gia trong năm 2019), cao gấp 4 lần so với
giá trị năm 2015 và dự đoán chạm mốc 43 tỷ USD vào năm 2025. Trong
đó, riêng lĩnh vực thương mại điện tử Việt Nam ước đạt 5 tỷ USD trong
năm 2019, cao gấp 12,5 so với mức 0,4 tỷ USD năm 2015 và sẽ tăng tới
23 tỷ USD vào năm 2025, với tốc độ tăng trưởng xấp xỉ 49%/năm. Bên
cạnh đó, ngành dịch vụ du lịch trực tuyến, truyền thông trực tuyến
và gọi xe trực tuyến cũng có sự vươn lên mạnh mẽ, đóng góp vào sự
phát triển của nền kinh tế số Việt Nam. Kinh tế số Việt Nam cùng với
Indonesia đang dẫn đầu về tốc độ tăng trưởng trong khu vực Đông
Nam Á, với tốc độ tăng trung bình 38%/năm (cao hơn so với mức 33%
của trung bình trong khu vực).


<b>1.2. Vai trị của thư viện số với sự phát triển của kinh tế số tại Việt Nam</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

dựng hạ tầng công nghệ 4G, 5G, đồng thời cần đào tạo, nâng cao trình độ
lực lượng lao động để họ bắt kịp với xu hướng công nghệ số. Các đột phá
trên cần được thể hiện trong mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội,
<i>trong đó có lĩnh vực thư viện. Với vai trò là “trái tim của xã hội thơng tin”, </i>
thư viện có vị trí quan trọng trong việc giải quyết các vấn đề mang tính
chiến lược của xã hội hiện đại, đó là đảm bảo quyền tự do truy cập thông
tin và tri thức cho mọi người dân. Có thể nói, thư viện là tấm gương phản
chiếu rõ nét nhất về mức độ tiến bộ xã hội của một quốc gia, bởi vì một xã
hội được coi là tiến bộ, không thể trong đó con người thiếu văn hóa, thiếu
cơ sở thông tin và tri thức giáo dục. Xã hội ngày càng phát triển thì vai trị
của thư viện lại càng quan trọng, một xã hội dựa vào tri thức, một xã hội
mà thơng tin và tri thức chính là sức mạnh để cái biến xã hội, nguồn lực
thông tin là nguồn lực chiến lược quan trọng; một xã hội mà số phận của
các cá nhân, của một đất nước phụ thuộc vào khả năng chiếm lĩnh, thu
thập kịp thời, lĩnh hội thích hợp và sử dụng sáng tạo những thông tin mới
sẽ không thể thiếu một hệ thống thư viện hiện đại - Thư viện số.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

số là thư viện hoặc bộ phận của thư viện có tài ngun thơng tin được
xử lý, lưu giữ dưới dạng số mà người sử dụng thư viện truy cập, khai
thác thông qua thiết bị điện tử và không gian mạng”.


Điểm chung của các khái niệm về thư viện số trên là tất cả những
thư viện truyền thống nào có tổ chức phục vụ một số lượng đáng kể tài
nguyên số. Và theo thời gian số lượng các tài liệu số sẽ dần thay thế số
lượng tài liệu in ấn truyền thống bởi tính tiện lợi trong sử dụng, đồng
thời khắc phục được ảnh hưởng của các yếu tố không gian và thời gian.
Với sự phát triển của thư viện thơng minh, người đọc có thể tiếp cận
tài liệu với số lượng lớn hơn, tốc độ tìm kiếm và truy xuất nhanh hơn
đồng thời có thể sử dụng ở nhiều nơi và không bị phụ thuộc vào yếu tố


thời gian. Thư viện số là sự kết hợp hài hịa giữa thơng tin kiểu truyền
thống (sách, báo in ấn) với thông tin kỹ thuật số (các thơng tin được số
hóa) do đó có cơ sở để phát triển.


<i>Để “trái tim của xã hội thông tin” thực sự có sức lan tỏa, làm bệ </i>
phóng quan trọng cho sự phát triển của kinh tế - xã hội, đòi hỏi hệ
thống thư viện cần được phát triển cả về chiều rộng chiều sâu. Với việc
gia tăng số lượng thư viện tại các địa phương, các trường đại học, các
viện nghiên cứu, các cấp học phổ thông cũng như các số lượng các loại
sách, báo; gia tăng số lượng các phương thức tìm kiếm, truy cập và sử
dụng thông tin như thư viện truyền thống, thư viện điện tử… sẽ tăng
khả năng tiếp cận cho độc giả. Bên cạnh đó, hệ thống thư viện cần
được nâng cao chất lượng cả về trang thiết bị kỹ thuật, đa dạng hóa
các loại sách, báo, tạp chí nhất là phải gia tăng chất lượng của đội ngũ
nguồn nhân lực phục vụ trong lĩnh vực này.


<b>1.3. Đào tạo nguồn nhân lực thư viện số tại Việt Nam </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

viên có định hướng một cách chuyên nghiệp trong khối công nghệ bao
la, nắm bắt được các kỹ năng cần thiết để nghiên cứu, phát triển các
hướng ứng dụng công nghệ hiện đại vào trong thực tiễn hoạt động
của thư viện. Do đó, việc thay đổi quan điểm trong đào tạo cán bộ
thông tin thư viện không thể tách rời các thay đổi liên quan đến xã
hội thông tin, nền kinh tế tri thức, quản trị tri thức và giáo dục, đào
tạo hiện đại.


Hiện nay ở Việt Nam có khoảng 50 trường đại học, cao đẳng có
tổ chức đào tạo chuyên ngành Thông tin thư viện với các cấp đào tạo
từ trung cấp, đại học, và sau đại học. Ngồi các trường đào tạo có uy
tín lâu năm như Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà


Nội, Đại học Văn hóa Hà Nội, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Tp.
Hồ Chí Minh, Đại học Văn hóa Tp. Hồ Chí Minh thì một số trường
đại học khác cũng đã mở chuyên ngành đào tạo này. Điều này chứng
minh cho nhu cầu cao của xã hội với ngành thông tin thư viện, tuy
nhiên cũng đặt ra nhiều vấn đề về công tác đào tạo. Theo đánh giá
của PGS.TSKH. Bùi Loan Thùy thì chất lượng nguồn nhân lực tuy
bước đầu đã được nâng cấp nhưng còn xa mới đáp ứng được nhu cầu
phát triển nhanh và hội nhập quốc tế, các điểm yếu chính của nhân
lực trong ngành thông tin thư viện là: chưa làm chủ được công nghệ,
kỹ năng chuyên nghiệp yếu, thiếu tư duy sáng tạo (Bùi Loan Thùy,
2014). Các hạn chế trong công tác đào tạo trên bắt nguồn từ chương
trình đào tạo, phương pháp đào tạo chưa phù hợp và đội ngũ giảng viên
thiếu kỹ năng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

<b>2. TỔNG QUAN VỀ CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH VỚI ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC THƯ </b>


<b>VIỆN SỐ TẠI VIỆT NAM </b>



<b>2.1. Hệ thống các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển nguồn </b>
<b>nhân lực thư viện số</b>


Đảng và Nhà nước ta nhất quán quan điểm xem giáo dục và đào
tạo là quốc sách hàng đầu. Quan điểm này được thể hiện xuyên suốt
trong các văn kiện của Đảng. Nghị quyết Trung ương 3, (khoá VII)
năm 1993 khẳng định: “Khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo
là quốc sách hàng đầu; đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển”.
Văn kiện Đại hội X khẳng định: “Giáo dục và đào tạo cùng với khoa
học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực thúc
đẩy cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước”1<sub>. Cương lĩnh xây dựng </sub>


<b>đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển </b>


<i>2011) được thông qua tại Đại hội XI của Đảng nhấn mạnh: “Giáo dục </i>


<i>và đào tạo, khoa học và công nghệ có sức mạnh nâng cao dân trí, phát triển </i>
<i>nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng phát triển đất </i>
<i>nước, xây dựng nền văn hoá và con người Việt Nam. Phát triển giáo dục và </i>
<i>đào tạo cùng với phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu; đầu </i>
<i>tư cho giáo dục và đào tạo là đầu tư phát triển”</i>2<sub>. Nghị quyết Trung ương </sub>


<i>8, (khoá XI) năm 2013 một lần nữa khẳng định: “Giáo dục và đào tạo là </i>


<i>quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân”. Đại </i>


<i>hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng (2016) xác định: “Phấn </i>


<i>đấu trong những năm tới, tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, </i>
<i>hiệu quả giáo dục, đào tạo; đáp ứng ngày càng tốt hơn công cuộc xây dựng, </i>
<i>bảo vệ Tổ quốc và nhu cầu học tập của nhân dân. Giáo dục con người Việt </i>
<i>Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo </i>
<i>của mỗi cá nhân; yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào, sống tốt và làm </i>
<i>việc hiệu quả. Phấn đấu đến năm 2030, nền giáo dục Việt Nam đạt trình độ </i>
<i>tiên tiến trong khu vực”.</i>


1<i><sub> Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, </sub></i>
NXB Chính trị Quốc gia, H. 2006, tr.94-95.


2<i><sub> Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NXB </sub></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

Trong Chiến lược phát triển giáo dục 2011 – 2020, được ban hành
kèm theo Quyết định số 711/QĐ-TTg ngày 13 tháng 06 năm 2012, Thủ
<i>tướng Chính phủ đã xác định: Phát triển giáo dục phải thực sự là quốc </i>


sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân.
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, nâng cao
vai trò các tổ chức, đồn thể chính trị, kinh tế, xã hội trong phát triển
giáo dục. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển. Thực hiện các chính
sách ưu đãi đối với giáo dục, đặc biệt là chính sách đầu tư và chính sách
tiền lương; ưu tiên ngân sách Nhà nước dành cho phát triển giáo dục
phổ cập và các đối tượng đặc thù.


<i>Đặc biệt, Luật số 46/2019/QH14 ngày 21/11/2019 (Luật Thư viện) ra </i>


đời tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho hoạt động của hệ thống thư
viện. Luật Thư viện được ban hành tương đối đầy đủ các nội dung liên
quan sự phát triển của thư viện, thư viện số, hiện đại hóa thư viện…
Trong đó, có ban hành nội dung liên quan đến nguồn tài chính cho
phát triển thư viện, theo đó nguồn tài chính của thư viện bao gồm:
(i) Nguồn ngân sách nhà nước; (ii) Nguồn thu từ dịch vụ thư viện;
(iii) Nguồn tài trợ, viện trợ, tặng cho, đóng góp từ tổ chức, cá nhân
trong nước và nước ngoài theo quy định của pháp luật; (iv) Nguồn thu
hợp pháp khác (Điều 35, Luật Thư viện 2019).


Như vậy, một hệ thống các văn bản pháp luật đã được ban hành
nhằm cụ thể hóa các chủ trương của Đảng và Nhà nước về phát triển
giáo dục. Luật Giáo dục, các Nghị định của Chính phủ, Thơng tư của
các Bộ, ngành, Quyết định của các đơn vị có liên quan đã tạo được ban
hành tương đối đầy đủ, hoàn thiện. Các văn bản này tập trung vào việc
tạo cơ chế theo hướng thuận lợi, nâng cao chất lượng chất giáo dục,
bắt kịp với xu thế phát triển của kinh tế - xã hội, hội nhập với quốc tế.


<b>2.2. Chính sách tài chính cho đào tạo nguồn nhân lực thư viện số tại Việt Nam </b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

<i>Nhà nước, chính sách ưu đãi về thuế, chính sách ưu đãi tín dụng và các chính </i>
<i>sách ưu đãi khác, cụ thể sau:</i>


<i>Thứ nhất, chính sách chi ngân sách Nhà nước cho giáo dục. Nhà </i>


nước luôn chú trọng đầu tư ngân sách Nhà nước cho giáo dục – đào
tạo, điều này được thể hiện trong tỷ trọng của nguồn chi cho giáo dục
– đào tạo luôn ở mức cao và ổn định theo thời gian.


Hình 1. Chi cho giáo dục, đào tạo tổng chi tiêu công của Việt Nam
với một số nước, khu vực (%)


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

Bên cạnh đó, chính sách đầu tư cho giáo dục hướng tới đổi mới và
hoàn thiện cơ chế, chính sách giá dịch vụ giáo dục – đào tạo. Đẩy mạnh xã
hội hóa, trước hết đối với giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học, huy
động xã hội tham gia vào quá trình giáo dục – đào tạo, tạo điều kiện và cơ
hội để mọi người dân được hưởng thụ thành quả của giáo dục – đào tạo.
Tiếp tục thực hiện mục tiêu kiên cố hóa trường, lớp học; từng bước hiện
đại hóa cơ sở vật chất – kỹ thuật, đặc biệt là hạ tầng cơng nghệ thơng tin.


<i>Thứ hai, chính sách thuế. Chính sách thuế hiện có nhiều ưu đãi </i>


đối với hoạt động giáo dục, điều này được thể hiện trong quy định tại
các Luật thuế có liên quan (Luật thuế Thu nhập doanh nghiệp, Thuế
Giá trị gia tăng, Thuế Thu nhập cá nhân, Thuế Xuất nhập khẩu..). Tại
Khoản 2, Điều 13, Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế thu
nhập doanh nghiệp (năm 2013), quy định về áp dụng thuế suất 10%
đối với thu nhập của doanh nghiệp từ thực hiện hoạt động xã hội hoá
trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo, dạy nghề, y tế, văn hoá, thể thao và
môi trường, đây là mức thuế suất bằng 50% so với mức thuế suất chung


của các doanh nghiệp trong (từ ngày 01/01/2016 mức thuế suất Thuế
Thu nhập doanh nghiệp là 20%).


Tại Điều 5, Luật Thuế Giá trị gia tăng năm 2008 quy định, việc: Dạy
học, dạy nghề theo quy định của pháp luật; Xuất bản, nhập khẩu, phát
hành báo, tạp chí, bản tin chuyên ngành, sách chính trị, sách giáo khoa,
giáo trình, sách văn bản pháp luật, sách khoa học – kỹ thuật, sách in bằng
chữ dân tộc thiểu số và tranh, ảnh, áp phích tuyên truyền cổ động, kể cả
dưới dạng băng hoặc đĩa ghi tiếng, ghi hình, dữ liệu điện tử; in tiền; không
thuộc đối tượng phải chịu thuế Giá trị gia tăng. Đồng thời tại Điều 8, áp
dụng mức thuế suất 5% (bằng 50% so với các sản phẩm hàng hóa thơng
thường) đối với giáo cụ dùng để giảng dạy và học tập, bao gồm các loại mơ
hình, hình vẽ, bảng, phấn, thước kẻ, com-pa và các loại thiết bị, dụng cụ
chuyên dùng cho giảng dạy, nghiên cứu, thí nghiệm khoa học…


<i>Thứ ba, chính sách tín dụng và các chính sách hỗ trợ khác. Hiện </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

Bên cạnh đó là các ưu tiên đầu tư tài chính và đất đai xây dựng
trường học, theo đó các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Hội đồng Nhân dân và
Ủy ban Nhân dân các cấp có trách nhiệm đưa việc xây dựng trường
học, cơng trình thể dục, thể thao, văn hóa, nghệ thuật phục vụ giáo
dục vào quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của ngành
và địa phương; ưu tiên đầu tư tài chính và đất đai cho việc xây dựng
trường học và ký túc xá cho học sinh, sinh viên trong kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội.


<b>2.3. Một số tồn tại, hạn chế của chính sách tài chính cho đào tạo nguồn nhân lực </b>
<b>thư viện số tại Việt Nam </b>


Hiện các chính sách chính sách tài chính cho đào tạo nguồn nhân


lực thư viện số tại Việt Nam chưa có chính sách riêng mà được thực
hiện trong tổng thể chung của các chính sách cho giáo dục - đào tạo, do
đó việc đánh giá cũng được thực hiện theo cách này. Thực tế cho thấy,
bên cạnh những thành công đã đạt được, chính sách đầu tư cho giáo
dục, đào tạo của Việt Nam cịn có những hạn chế, bất cập như:


<i>Một là, cơ cấu đầu tư cho giáo dục đào tạo chưa hợp lý. Sự thiếu </i>


hợp lý được thể hiện ở cơ cấu chi cho các nhiệm vụ, nội dung chi.


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

đến chất lượng giáo dục thấp. Sinh viên sau khi tốt nghiệp còn hạn chế
về tư duy sáng tạo, kỹ năng thực hành, năng lực vận dụng những kiến
thức được học vào giải quyết các vấn đề thực tiễn, thiếu kiến thức và kỹ
năng cần thiết cho hội nhập, khả năng thích ứng với cơng việc, ý thức
tổ chức kỷ luật cịn hạn chế.


<i>Hai là, trong cơ cấu chi tiêu cho giáo dục, đào tạo có sự khơng tương </i>


<i>xứng trong đầu tư cho các bậc học. Trên thực tế ngân sách Nhà nước dành </i>
cho giáo dục đại học còn hạn chế với 12% tổng ngân sách dành cho giáo
dục, chỉ bằng gần một nửa so với kinh phí dành cho bậc tiểu học. Phân
loại theo cấp học, chi tiêu cho giáo dục mầm non và giáo dục phổ thông
chiếm xấp xỉ 70% tổng chi cho giáo dục. Tình trạng mất cân đối về cơ
cấu giáo dục đại học và chi tiêu cho giáo dục đại học dẫn đến thiếu lực
lượng lao động chất lượng cao trong hầu hết các ngành công nghiệp,
công nghệ thông tin, các ngành khoa học công nghệ - điều kiện quan
trọng quyết định phát triển nhanh và bền vững ở Việt Nam.


<i>Thứ ba, các chính sách miễn giảm thuế, ưu đãi tín dụng và các </i>



chính sách ưu đãi khác vẫn chưa tạo được sức hút mạnh mẽ đối với
đơn vị đầu tư vào lĩnh vực này. Đối với chủ trương xã hội hóa giáo dục,
hiện chỉ một số đơn vị, tập đoàn lớn đầu tư như FPT, Vingroup, TH…
Tuy nhiên, việc đầu tư vào giáo dục trong thời gian qua chủ yếu tập
trung vào các lĩnh vực mà xã hội có nhu cầu cao như: cơng nghệ thơng
tin, y tế, tài chính, ngân hàng… mà chưa có nhiều đầu tư cho khối
ngành về thông tin thư viện.


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

Đặc biệt hiện nay việc đào tạo chuyên ngành này đã sụt giảm
mạnh tại các trường đại học khối tư thục. Một số trường từng có
đào tạo ngành này như Trường Đại học Thành Đô, Trường Đại học
Phương Đông, Trường Đại học Đông Đô… hiện đã khơng cịn đầu
tư do nhu cầu người học giảm sút. Trong mục tiêu chung hướng tới
nâng cao số lượng, chất lượng cũng như chủ trương xã hội hóa các
hoạt động đào tạo thì đây đang là vấn đề cần tìm ra hướng đi phù
hợp, nhất là trong vấn đề về cơ chế tài chính.


<b>3. MỘT SỐ ĐỀ XUẤT, KHUYẾN NGHỊ</b>



Để phát triển chất lượng đào tạo nguồn nhân lực thư viện số tại Việt
Nam, cần phối hợp tổng thể nhiều chính sách, trong đó chính sách tài
chính đóng vai trị quan trọng. Việc ban hành, thực thi hiệu quả chính
sách tạo điều kiện thuận lợi cho việc nâng cao chất lượng hiệu quả các
yếu tố ảnh hưởng đến công tác đào tạo như: hệ thống cơ sở vật chất,
học liệu, giáo trình; chất lượng, phương pháp giảng dạy của giảng viên;
bên cạnh đó giải quyết tốt vấn đề thu nhập của các sinh viên sau khi tốt
nghiệp được đảm bảo với mức lương phù hợp sẽ tạo điều kiện khuyến
khích các sinh viên đăng ký, theo học nhiều hơn.


Thời gian tới, chính sách tài chính cho phát triển đào tạo nguồn


nhân lực thư viện số tại Việt Nam nên tập trung vào các giải pháp cụ
thể như sau:


<i>Thứ nhất, đối với chính sách chi của ngân sách Nhà nước cho giáo </i>


dục và đào tạo.


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

Điều chỉnh cơ cấu chi giữa các bậc học, ngành học: Cần ưu tiên
phát triển hài hòa tỷ lệ giữa các ngành đào tạo, thực hiện tiêu chuẩn
hóa và hiện đại hóa giáo dục. Nhà nước cần dự báo, từ đó xây dựng,
thực hiện kế hoạch phát triển nguồn nhân lực theo ngành nghề, đảm
bảo hỗ trợ cho lĩnh vực, ngành nghề mà khả năng xã hội hóa chưa cao
như đào tạo cán bộ thông tin thư viện.


Với đặc thù của ngành Thông tin thư viện là ngành mà nhu cầu
sử dụng chỉ tập trung ở khối các cơ sở đào tạo, chủ yếu trong đơn vị
công lập do vậy việc thu hút nguồn vốn xã hội hóa cho hoạt động đào
tạo hạn chế. Thời gian tới cần xác định nguồn chi cho giáo dục đào tạo
nhân lực thư viện kỹ thuật số tập trung từ ngân sách Nhà nước và chủ
yếu được đào tạo tại các cơ sở đào tạo công lập. Phương thức phân bổ
ngân sách Nhà nước cho các trường đại học chuyển sang cơ chế đặt
hàng. Trường nào tốt thì Nhà nước sẽ đặt hàng, trường nào làm không
tốt ngân sách Nhà nước sẽ khơng cấp kinh phí.


Tuy nhiên, cần có lộ trình trong việc thực hiện các giải pháp về cơ
cấu lại chi Ngân sách Nhà nước đối với khối giáo dục đại học và giáo
dục nghề nghiệp theo hướng: Không bao cấp dàn trải đối với tất cả các
cơ sở đào tạo; Thực hiện nguyên tắc từng bước tăng thu từ người học
để bù đắp chi phí đào tạo theo lộ trình điều chỉnh giá, phí quy định tại
Nghị định 16/2015/NĐ-CP của Chính phủ.



<i>Thứ hai, đối với chính sách ưu đãi thuế, tín dụng:</i>


Cần tiếp tục duy trì các mức ưu đãi thuế bao gồm các chính sách
miễn, giảm thuế (Thuế Thu nhập doanh nghiệp, Thuế Giá trị gia tăng,
Thuế Xuất nhập khẩu…) đối với lĩnh vực đào tạo. Cần ban hành các
văn bản hướng dẫn cụ thể, rõ ràng, minh bạch đối tượng nhận hỗ trợ.
Với việc coi giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu, việc mở rộng đối
tượng nhận các ưu đãi cũng như gia tăng mức độ ưu đãi cần được tính
đến trong việc ban hành các quy định thực hiện.


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

ngoài của Bộ Giáo dục và Đào tạo do khơng cịn phù hợp với các quy
định hiện hành. Đồng thời, cần tổ chức, quản lý, theo dõi, đánh giá
sau đầu tư đối với các chương trình, dự án sử dụng nguồn vốn ODA
để đánh giá tính hiệu lực, hiệu quả, đánh giá hiệu ứng đem lại của các
chương trình, dự án. Từ đó, rút ra các bài học kinh nghiệm để việc triển
khai đạt hiệu quả tốt hơn cho các chu trình sau.


Đối với hoạt động hỗ trợ người học. Nhà nước hỗ trợ trực tiếp học
phí đối với một số đối tượng thuộc diện chính sách; cho vay tín dụng
ưu đãi đối với sinh viên thuộc gia đình nghèo, cận nghèo. Các chính
sách hỗ trợ cần gắn với tình hình thực tế của từng đối tượng, phù hợp
với thực tế về các mức sinh hoạt, chi phí…


Đối với cơ chế tài chính cho các cơ sở giáo dục, đào tạo: cần được
đổi mới theo hướng tăng quyền tự chủ cho các cơ sở đào tạo. Ngân
sách Nhà nước đầu tư theo thực tế đối tượng thụ hưởng chính sách,
khơng nên tính bình qn một mức cho tất cả các trường, ngành học
và các nghề./.



<b>TÀI LIỆU THAM KHẢO</b>



1. Ousmane Dione, Giám đốc Quốc gia, Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam
(2019), “Chính sách: Chìa khóa thúc đẩy phát triển Kinh tế số”.


<i>2. UNCTAD (2019), Digital economy report 2019: Value creation and capture: </i>


<i>Implications for developing countries Investment and technology.</i>


3. Kim An (2019), “Nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng vốn ODA của
<i>ngành giáo dục - đào tạo”; truy cập: </i>


<i> /><i>qua-kiem-toan/nang-cao-hieu-qua-quan-ly-su-dung-von-oda-cua-nganh-giao-duc---dao-tao-142135</i>


4. Đinh Thị Nga (2017), “Đầu tư của Nhà nước cho giáo dục, đào tạo: Thực
<i>trạng và một số đề xuất”; truy cập: </i>


<i> /><i>trao-doi/dau-tu-cua-nha-nuoc-cho-giao-duc-dao-tao-thuc-trang-va-mot-so-de-xuat-130918.html</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

<i>6. Nguyễn Minh Phong (2019), “Nhận diện Kinh tế số”, truy cập: https://</i>


<i>nhandan.com.vn/kinhte/item/42307702-nhan-dien-kinh-te-so.html</i>


<i>7. Nguyễn Minh Hiệp (2014), “Thư viện số và vấn đề xây dựng thư viện số ở Việt </i>


<i>Nam”, Tạp chí Thư viện Việt Nam, Số 3. tr. 20-25,37</i>


8. Bùi Loan Thùy (2014), “Nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực bậc
đại học và cao học thư viện thông tin trong khơng gian phát triển mới”,
<i>Tạp chí Thư viện Việt Nam.</i>



9. Mai Tiến Dũng (2018), “Xây dựng Chính phủ điện tử hướng tới Chính
<i>phủ số và nền kinh tế số ở Việt Nam”; truy cập: />


</div>

<!--links-->

×