Tải bản đầy đủ (.docx) (40 trang)

TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG VÀ PHÂN TÍCH TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (222.25 KB, 40 trang )

TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG VÀ PHÂN TÍCH TÍN DỤNG
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 Hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại
1.1.1 Khái quát về Ngân hàng thương mại
1.1.1.1 Khái niệm về Ngân hàng thương mại
Ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài
chính đa dạng nhất, đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán – và thực
hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào
trong nền kinh tế.
Theo Luật các tổ chức tín dụng đã được Quốc hội thông qua năm 1997 và
Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật các tổ chức tín dụng (được thông qua
ngày 15/6/2004) thì: “Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn
bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan”, còn “hoạt
động ngân hàng” được hiểu là “hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng
với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và
cung ứng các dịch vụ thanh toán”.
1.1.1.2 Chức năng của Ngân hàng thương mại
Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng gồm ngân hàng
thương mại, ngân hàng phát triển, ngân hàng đầu tư, ngân hàng chính sách, ngân
hàng hợp tác và các loại hình ngân hàng khác. Ngân hàng nói chung và Ngân hàng
thương mại nói riêng có 3 chức năng chính như sau:
- Trung gian tài chính: Trong nền kinh tế, luôn tồn tại hai loại chủ thể, một loại
có chi tiêu và đầu tư vượt quá thu nhập, nghĩa là cần bổ sung vốn, còn một loại có thu
nhập lớn hơn chi tiêu, như vậy họ có tiền để tiết kiệm. Tuy nhiên, không phải lúc nào
hai loại chủ thể trên cũng có thể tiếp xúc trực tiếp với nhau, do đó cần đến trung gian
tài chính để kết nối người tiết kiệm với người đầu tư.
Với chuyên môn, khả năng thẩm định thông tin của mình và sự không hoàn hảo
trong hệ thống tài chính, Ngân hàng thương mại là tổ chức thích hợp nhất để đóng vai
trò trung gian tài chính, bằng cách đi huy động vốn trước khi cho vay lại để hưởng
chênh lệch lãi suất. Khi đó, Ngân hàng vừa là người đi vay, vừa là người cho vay.
- Tạo phương tiện thanh toán: Làm phương tiện thanh toán chính là một trong


những chức năng quan trọng nhất của tiền tệ. Tuy nhiên, việc in tiền là độc quyền của
Bộ Tài chính, hoặc Ngân hàng Trung ương và các Ngân hàng thương mại không có
khả năng tự tạo ra các giấy bạc của riêng mình. Dù vậy, Ngân hàng thương mại vẫn có
khả năng tạo ra phương tiện thanh toán, hay nói cách khác là làm gia tăng tổng cung
tiền bằng việc cho vay (hay tạo tín dụng).
Thông qua hoạt động nhận gửi và cho vay, hệ thống Ngân hàng thương mại sẽ
làm tăng cung tiền, tuy nhiên mức độ gia tăng này là bao nhiêu thì còn phụ thuộc vào
tỷ lệ dự trữ của các Ngân hàng. Trong trường hợp lý tưởng, nếu mỗi Ngân hàng đều
dự trữ lượng tiền mặt bằng 10% tiền gửi thì số nhân tiền m sẽ có giá trị bằng 10.
- Trung gian thanh toán: Trong đa số các trường hợp, việc thanh toán bằng tài
khoản (chuyển khoản) tiện dụng và dễ quản lý hơn rất nhiều so với thanh toán bằng
tiền mặt. Để có thể tiến hành thanh toán qua tài khoản, thì vai trò của các Ngân hàng
là không thể thiếu. Thông qua các công cụ như thanh toán bằng séc, ủy nhiệm chi,
nhờ thu, thẻ ATM…. Ngân hàng trở thành trung gian thanh toán lớn nhất hiện nay tại
hầu hết các quốc gia.
1.1.1.3 Tầm quan trọng của hoạt động tín dụng
Tuy nhiên, những lý thuyết trên chỉ đúng với các mô hình Ngân hàng cổ điển.
Ngày nay, với sự phát triển của kinh tế và khoa học công nghệ hiện đại, hoạt động của
Ngân hàng thương mại đã trở nên vô cùng đa dạng. Bên cạnh những nghiệp vụ truyền
thống như tín dụng, huy động vốn, làm trung gian thanh toán, các Ngân hàng hiện đại
còn tham gia đầu tư ủy thác, tư vấn tài chính, kinh doanh vàng và ngoại tệ….
Không chỉ có thế, trên đường xây dựng một mô hình tập đoàn tài chính – ngân
hàng đa năng, nhiều Ngân hàng thương mại VN đã mở rộng đầu tư sang chứng
khoán, bảo hiểm, bất động sản…. bằng cách thành lập những công ty con, hoạt động
trong các lĩnh vực riêng biệt với trung tâm là ngân hàng mẹ. Dù vậy, đối với bất kỳ
Ngân hàng nào tại VN nói riêng và trên thế giới nói chung thì tín dụng vẫn là hoạt
động cơ bản, chiếm tỉ trọng lớn nhất trong tổng tài sản cũng như lợi nhuận. Vì thế, rủi
ro trong kinh doanh ngân hàng cũng có xu hướng tập trung nhiều nhất vào hoạt động
tín dụng, và đây luôn là mối quan tâm lớn nhất của các Ngân hàng thương mại.
1.1.2 Hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại

1.1.2.1 Khái niệm và phân loại tín dụng ngân hàng
Hoạt động tín dụng ra đời và phát triển cùng với sự phát triển của nền sản
xuất hàng hóa, đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc thúc đẩy cung cấp và lưu
thông hàng hóa. Có rất nhiều cách hiểu về hoạt động tín dụng, tuy nhiên một cách
chung nhất thì tín dụng là khái niệm chỉ mối quan hệ giữa các chủ thể, trong đó
chủ thể này chuyển cho chủ thể khác quyền sử dụng một lượng tiền tệ (hoặc hàng
hóa), theo những điều kiện nhất định mà hai bên cùng đồng ý.
Tín dụng ngân hàng là quan hệ chuyển nhượng quyền sử dụng vốn từ Ngân
hàng cho khách hàng trong một thời hạn nhất định với một khoản chi phí nhất
định. Về ý nghĩa thì khái niệm tín dụng rộng hơn cho vay. Thực tế, cho vay chỉ là
một trong nhiều hình thức cấp tín dụng, bởi còn có nhiều hình thức khác như chiết
khấu, cho thuê tài chính, bảo lãnh, bao thanh toán…
Tất cả những nghiệp vụ này đều là việc Ngân hàng cho phép khách hàng sử
dụng vốn của mình, xuất phát từ sự tin tưởng nhất định đối với khách hàng.
Theo Luật các tổ chức tín dụng và Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật
các tổ chức tín dụng thì “hoạt động tín dụng” là việc tổ chức tín dụng sử dụng
nguồn vốn tự có, nguồn vốn huy động để cấp tín dụng. Trong đó, “cấp tín dụng” là
việc tổ chức tín dụng thỏa thuận để khách hàng sử dụng một khoản tiền với nguyên
tắc có hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bảo lãnh
ngân hàng và các nghiệp vụ khác.
Dù thế nào, tín dụng ngân hàng cũng có các đặc trưng sau:
- Có sự chuyển nhượng quyền sử dụng vốn từ người sở hữu sang người sử
dụng.
- Xuất phát từ nguyên tắc hoàn trả, nghĩa là ngân hàng khi chuyển giao quyền
sử dụng vốn cho khách hàng phải có cơ sở để tin rằng người đi vay sẽ trả cả gốc và
lãi đúng hạn.
- Giá trị hoàn trả thông thường phải lớn hơn giá trị cho vay, tức là người đi
vay phải trả thêm một khoản lãi bên cạnh phần vốn gốc.
- Tiền vay được cấp trên cơ sở cam kết hoàn trả vô điều kiện. Những văn bản
xác định quan hệ tín dụng thực chất là một dạng lệnh phiếu, theo đó bên đi vay

cam kết hoàn trả vô điều kiện cho Ngân hàng khi đến hạn thanh toán.
*Phân loại tín dụng ngân hàng
Hoạt động tín dụng của Ngân hàng có thể được phân loại theo nhiều tiêu thức
khác nhau.
+ Căn cứ vào thời hạn cho vay: Phân loại tín dụng theo thời gian có ý nghĩa
hết sức quan trọng, vì thời hạn tín dụng liên quan rất mật thiết đến tỷ lệ sinh lời
cũng như rủi ro của các khoản tín dụng, hay kể cả khả năng hoàn trả của khách
hàng. Có thể phân chia như sau:
- Tín dụng ngắn hạn: Là loại hình cho vay có thời hạn từ 12 tháng trở xuống,
thông thường để tài trợ cho tài sản lưu động của doanh nghiệp, hoặc các nhu cầu
chi tiêu ngắn hạn của cá nhân. Nhìn chung, tín dụng ngắn hạn có tỷ trọng lớn nhất.
- Tín dụng trung hạn: Thường có thời hạn từ 1 đến 5 năm. Chủ yếu được dùng
để tài trợ cho các tài sản cố định, hoặc đầu tư vào các dự án mới có quy mô tương
đối nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh.
- Tín dụng dài hạn: Từ 5 năm trở lên, dùng để đáp ứng các nhu cầu dài hạn
như xây dựng nhà ở, mua sắm những thiết bị có thời gian sử dụng lâu, đầu tư các
dự án lớn…
Tất nhiên, việc phân chia này cũng chỉ có tính chất tương đối vì có nhiều
khoản cho vay không xác định trước được chính xác thời gian.
+Căn cứ theo hình thức tài trợ: Tùy theo hình thức tài trợ, tín dụng có thể
được chia thành cho vay, chiết khấu, bảo lãnh, cho thuê tài chính, bao thanh toán…
- Cho vay: Là việc Ngân hàng cấp tiền cho khách hàng, với cam kết hoàn trả
cả gốc và lãi trong một khoảng thời gian nhất định. Có thể cho vay thấu chi, cho
vay trực tiếp từng lần, cho vay theo hạn mức….
- Chiết khấu: Là hình thức cấp tín dụng trong đó Ngân hàng nhận các chứng
từ có giá và trao cho khách hàng một số tiền nhất định, thông thường nhỏ hơn
mệnh giá của chứng từ được chiết khấu. Phần chênh lệch chính là lợi nhuận mà
Ngân hàng được hưởng.
- Bảo lãnh: Là cam kết bằng văn bản của Ngân hàng (bên bảo lãnh) với bên
có quyền (bên nhận bảo lãnh) về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách

hàng (bên được bảo lãnh), nếu khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không
đúng nghĩa vụ cam kết với bên nhận bảo lãnh.
- Cho thuê: Là việc Ngân hàng bỏ tiền ra mua tài sản để cho khách hàng thuê
lại theo những thỏa thuận nhất định. Sau một thời gian, khách hàng phải trả cả gốc
lẫn lãi cho Ngân hàng.
- Bao thanh toán: Là một hình thức cấp tín dụng của tổ chức tín dụng cho bên
bán hàng thông qua việc mua lại các khoản phải thu phát sinh từ việc mua, bán
hàng hóa đã được bên bán hàng và bên mua hàng thỏa thuận trong hợp đồng mua,
bán hàng hóa (QDD số 1096/2004/QĐ-NHNN).
+Căn cứ vào mức độ tín nhiệm của khách hàng:
- Tín dụng không có đảm bảo: Là loại hình tín dụng không cần có tài sản thế
chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của bên thứ ba. Điều đó có nghĩa, việc cho vay chỉ dựa
vào uy tín của khách hàng (tín chấp). Thông thường, cho vay tín chấp chỉ được áp
dụng đối với các khách hàng lớn, đã có quan hệ lâu năm với Ngân hàng, hoặc các
khoản cho vay theo chỉ thị của Chính phủ (mà Chính phủ yêu cầu không cần tài
sản đảm bảo).
- Tín dụng có đảm bảo: Là loại hình tín dụng dựa trên cơ sở các bảo đảm như
thế chấp, cầm cố…. hoặc bảo lãnh của một bên thứ ba. Ngân hàng phải kiểm tra,
đánh giá được tình trạng của tài sản đảm bảo, bởi đây là nguồn thu nợ để bù đắp
trong trường hợp khách hàng không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ.
+ Căn cứ theo mức độ rủi ro: Để phân loại theo tiêu thức này, các Ngân hàng
cần nghiên cứu các mức độ, các căn cứ về đánh giá rủi ro. Theo khoản 6, điều 7,
quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN của ngân hàng nhà nước, tổ chức tín dụng cần
tiến hành phân loại nợ theo 5 nhóm:
 Nhóm 1 (Nợ đủ tiêu chuẩn) bao gồm: Các khoản nợ được tổ chức tín dụng
đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ cả gốc và lãi đúng hạn.
 Nhóm 2 (Nợ cần chú ý) bao gồm: Các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh
giá là có khả năng thu hồi cả gốc và lãi nhưng có dấu hiệu khách hàng suy giảm
khả năng trả nợ.
 Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm: Các khoản nợ được tổ chức tín dụng

đánh giá là không có khả năng thu hồi nợ gốc và lãi khi đến hạn. Các khoản nợ này
được tổ chức tín dụng đánh giá là có khả năng tổn thất một phần nợ gốc và lãi.
 Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ) bao gồm: Các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh
giá là khả năng tổn thất cao.
 Nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn) bao gồm: Các khoản nợ được tổ chức tín
dụng đánh giá là không còn khả năng thu hồi, mất vốn.
+Căn cứ theo mục đích cho vay:
Theo tiêu thức này, tín dụng có thể được chia thành các loại sau
- Tín dụng tiêu dùng: Là loại hình cho vay để đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng
cá nhân, có thể chia nhỏ ra thành cho vay mua nhà, mua ô tô, hỗ trợ du học…
- Tín dụng công nghiệp & thương mại: Là loại hình cho vay phục vụ sản xuất
kinh doanh công nghiệp, thương mại, dịch vụ…
- Tín dụng nông nghiệp: Là loại hình cho vay để trang trải các khoản chi phí
sản xuất trong hoạt động nông nghiệp.
+Căn cứ vào phương pháp hoàn trả
- Tín dụng có thời hạn: Là loại hình cho vay có thời hạn trả nợ định trước,
được xác định rõ trong hợp đồng. Có thể có một hoặc nhiều kỳ hạn trả nợ (nợ được
trả thành một hoặc nhiều lần).
- Tín dụng không có thời hạn cụ thể: Có thể do Ngân hàng yêu cầu, hoặc
người đi vay tự nguyện trả nợ bất cứ lúc nào nhưng cần phải thông báo trước cho
Ngân hàng một khoản thời gian hợp lý.
* Những phương pháp phân loại kể trên cho thấy tính đa dạng, hoặc chuyên
môn hóa trong cấp tín dụng của các Ngân hàng. Trong xu hướng đa dạng hóa hoạt
động, các Ngân hàng có thể đồng thời mở rộng phạm vi tài trợ và duy trì những
lĩnh vực mà mình có lợi thế. Với việc phân loại tín dụng hợp lý, các Ngân hàng
cũng dễ dàng theo dõi mức độ rủi ro và sinh lợi gắn liền với mỗi lĩnh vực tài trợ, từ
đó đề ra chính sách tín dụng phù hợp.
1.1.2.2 Các nghiệp vụ tín dụng
1.1.2.2.1 Cho vay
- Cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao cho

khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời hạn nhất định theo
thỏa thuân với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi.
Thời hạn nhất định ở đây chính là thời hạn cho vay, được tính từ khi khách
hàng bắt đầu nhận vốn vay cho đến thời điểm trả hết nợ gốc và lãi vay.
+Cho vay thấu chi: Thấu chi là nghiệp vụ cho vay qua đó Ngân hàng cho
phép người vay được chi trội (vượt) trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến
một giới hạn nhất định, trong một khoảng thời gian xác định. Giới hạn này được
gọi là hạn mức thấu chi.
Khi khách hàng gửi thêm tiền vào tài khoản, hoặc được chuyển khoản thêm
một số tiền, Ngân hàng sẽ thu nợ gốc và lãi. Số tiền mà khách hàng phải trả được
tính như sau: Số lãi phải trả = Lãi suất thấu chi * Thời gian thấu chi
* Số tiền thấu chi.
Hình thức này cho phép khách hàng thực hiện các thủ tục thanh toán nhanh
chóng, kịp thời, linh hoạt mà không cần phải làm đơn xin cấp tín dụng mới. Tất
nhiên, thấu chi chỉ được áp dụng cho các khách hàng có độ tin cậy cao, thu nhập
đều đặn.
+Cho vay trực tiếp từng lần: Là hình thức cho vay phổ biến với các khách
hàng không có nhu cầu vay thường xuyên, không có điều kiện để được cấp hạn
mức thấu chi. Đối với những khách hàng chủ yếu sử dụng vốn chủ sở hữu và tín
dụng thương mại, chỉ có nhu cầu vốn thời vụ thì đây là phương thức cho vay phù
hợp.
Mỗi lần vay khách hàng phải làm đơn và trình bày phương án sử dụng vốn
vay. Mỗi món vay sẽ được tách biệt thành các hồ sơ khác nhau. Ngân hàng sẽ thu
gốc và lãi theo từng kỳ hạn nợ trong hợp đồng, và nếu có dấu hiệu vi phạm hợp
đồng thì Ngân hàng sẽ thu nợ trước hạn hoặc chuyển nợ quá hạn.
Nghiệp vụ này tương đối đơn giản, nhưng Ngân hàng phải mất nhiều chi phí
cho việc theo dõi các món vay.
+Cho vay theo hạn mức: Đây là nghiệp vụ theo đó Ngân hàng thỏa thuận cấp
cho khách hàng một hạn mức tín dụng nhất định, có thể tính cho cả kỳ hoặc cuối
kỳ. Tuy nhiên, bất kể theo phương pháp nào (cả kỳ, cuối kỳ) thì hạn mức tín dụng

cũng là số dư tối đa tại thời điểm tính.
Hạn mức tín dụng được tính toán dựa trên cơ sở kế hoạch kinh doanh và nhu
cầu vốn của khách hàng. Cụ thể, với các doanh nghiệp sản xuất thì hạn mức này
được ước lượng theo dự trữ hàng hóa hợp lý, vốn chủ sở hữu tham gia dự trữ và
các nguồn khác tài trợ cho dự trữ.
Trong kỳ vay khách hàng có thể vay trả nhiều lần, nhưng dư nợ không được
vượt quá hạn mức tín dụng. Mỗi lần vay khách hàng cần trình bày phương án sử
dụng tiền vay, cung cấp các chứng từ hàng hóa và nêu yêu cầu vay vốn. Hình thức
này rất thích hợp với những khách hàng vay mượn thường xuyên, và giúp khách
hàng chủ động trong quản lý ngân quỹ. Tuy nhiên, Ngân hàng sẽ gặp nhiều khó
khăn trong việc kiểm soát các khoản cho vay.
+Cho vay luân chuyển: Là nghiệp vụ cho vay dựa trên sự luân chuyển của
hàng hóa., thường được áp dụng khi doanh nghiệp mua hàng nhưng thiếu vốn. Khi
đó, doanh nghiệp sẽ làm đơn xin vay vốn và cam kết trả nợ ngay khi thu được tiền
bán hàng. Hạn mức tín dụng có thể được thỏa thuận trong một hoặc vài năm, và cả
Ngân hàng lẫn doanh nghiệp đều phải nghiên cứu kế hoạch luân chuyển hàng hóa
để dự đoán dòng ngân quĩ trong thời gian sắp tới.
Trong cho vay luân chuyển, thời hạn cho vay không phải là thời hạn trả nợ
(khác với các nghiệp vụ cho vay khác) mà là thời hạn để Ngân hàng xem xét lại
mối quan hệ với khách hàng và quyết định xem có nên cho vay nữa hay không.
Các khoản phải thu và hàng hóa trong kho đều trở thành vật đảm bảo cho khoản
cho vay.
Hình thức này rất tiện lợi cho khách hàng, nhưng Ngân hàng có thể không thu
hồi được vốn nếu doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc tiêu thụ hàng hóa.
+Cho vay trả góp: Là loại hình cho vay trong đó Ngân hàng cho phép khách
hàng trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thỏa thuận. Cho vay trả góp
thường được áp dụng cho các khoản vay có thời hạn dài, tài trợ cho tài sản cố định
hoặc hàng lâu bền.
Cho vay trả góp có rủi ro khá cao do khách hàng thường thế chấp bằng chính
hàng hóa mua trả góp, do dó lãi suất cho vay trả góp thường là cao nhất trong

khung lãi suất của Ngân hàng.
+Cho vay gián tiếp: Ngoài các khoản cho vay trực tiếp, Ngân hàng cũng có
thể cho vay thông qua các tổ chức trung gian. Ngân hàng chuyển giao một số khâu
của hoạt động tín dụng cho các tổ chức như Hội Nông dân, Hội Phụ nữ…., nhằm
tiếp cận tốt hơn với thị trường có nhiều khoản vay nhỏ, người vay phân tán, cách
xa Ngân hàng, nhằm tiết kiệm phí cho vay.
Tuy nhiên, các trung gian cũng có thể lợi dụng vị thế của mình để chiếm dụng
vốn, hoặc tự ý nâng lãi suất cho vay.
1.1.2.2.2 Chiết khấu
Chiết khấu là việc Ngân hàng nhận các chứng từ có giá và trao cho khách
hàng một số tiền nhất định, nhỏ hơn mệnh giá của chứng từ được chiết khấu. Số
tiền chênh lệch này phụ thuộc vào lãi suất, kỳ hạn và lệ phí chiết khấu.
So với cho vay, chiết khấu có các điểm khác biệt như sau:
- Không cần tài sản thế chấp, sử dụng ngay chứng từ nhận chiết khấu làm bảo
đảm tín dụng
- Ngân hàng thu lãi trước khi phát tiền vay bằng cách khấu trừ vào mệnh giá
- Quy trình cấp tín dụng đơn giản và nhanh chóng hơn so với cho vay
Thương phiếu là loại giấy tờ có giá được đem chiết khấu nhiều nhất, tuy nhiên
các Ngân hàng cũng nhận chiết khấu trái phiếu, kỳ phiếu, sổ tiết kiệm….Nhìn
chung, nghiệp vụ này khá an toàn bởi thương phiếu, trái phiếu…. đều có tính thanh
khoản tốt, nếu cần thiết có thể thực hiện tái chiết khấu tại NHNN
1.1.2.2.3 Cho thuê tài sản
Giao dịch thuê tài sản là một hợp đồng thương mại, trong đó người sở hữu tài
sản (bên cho thuê) đồng ý cho khách hàng (bên đi thuê) được quyền sử dụng tài
sản trong một khoảng thời gian nhất định, với một mức phí nhất định. Khoản phí
này thường được trả theo hình thức chuỗi niên kim, nhưng cách thức thanh toán
cũng có thể được thỏa thuận để phù hợp với nhu cầu của khách hàng.
Khi đi thuê, doanh nghiệp sẽ có tài sản để sử dụng mà không cần bỏ tiền ra
mua sắm. Nghiệp vụ này đặc biệt hữu dụng khi doanh nghiệp không có đủ tiền,
hoặc chỉ có nhu cầu sử dụng trong thời gian ngắn, nhỏ hơn thời gian khấu hao của

tài sản…
Cho thuê tài sản lại có thể chia thành hai hình thức, là thuê vận hành và thuê
tài chính. Thuê vận hành (thuê hoạt động) là hợp đồng cho thuê ngắn hạn, chi phí
thuê bao gồm cả hao mòn tài sản, chi phí bảo dưỡng, bảo hiểm và lợi nhuận của
bên cho thuê. Trong trường hợp này, chi phí thuê thường cao vì bên cho thuê chịu
nhiều rủi ro xung quanh giá trị của tài sản.
Thuê tài chính là hình thức phổ biến hơn, về thực chất là một phương pháp tài
trợ vốn. Thông thường, người đi thuê sẽ lựa chọn tài sản cần sử dụng, sau đó
thương lượng với công ty cho thuê tài sản (hoặc Ngân hàng). Khi đó, Ngân hàng sẽ
bỏ tiền ra mua tài sản để cho doanh nghiệp thuê lại. Cũng có trường hợp, doanh
nghiệp bán tài sản cho Ngân hàng rồi đi thuê lại chính tài sản đó.
Một hợp đồng thuê tài chính phải thỏa mãn 3 điều kiện:
- Người đi thuê có quyền mua lại tài sản khi chấm dứt hợp đồng thuê
- Thời gian thuê tối thiểu phải bằng 75% thời gian sử dụng của tài sản
- Hiện giá của các khoản tiền thuê ít nhất phải bằng 90% giá thị trường của tài
sản ở thời điểm thuê
Thuê tài chính có những ưu điểm nhất định so với bỏ tiền ra mua tài sản, và
tùy tình hình là doanh nghiệp có thể lựa chọn phương án tối ưu.
- Nếu đi thuê tài chính, khách hàng có thể tránh được rủi ro do sở hữu tài sản.
Trong nhiều hợp đồng thuê, người đi thuê có quyền chấm dứt hợp đồng trước thời
hạn (và chịu một khoản phạt). Khi đó, rủi ro về sự lạc hậu hay mất giá của tài sản
sẽ cho người cho thuê gánh chịu.
- Linh hoạt hơn nhiều so với đi mua. Điều này đặc biệt thích hợp với những
khách hàng chỉ có nhu cầu sử dụng tài sản theo thời vụ, nhờ đó họ có thể thay đổi
tài sản một cách dễ dàng.
- Lợi ích về thuế. Đối với thuê hoạt động, chi phí thuê sẽ được tính vào chi
phí trước khi xác định lợi nhuận nộp thuế.
- Tiết kiệm thời gian. Trong nhiều trường hợp, quy trình ra quyết định thuê tài
sản nhanh hơn nhiều so với việc đi mua.
- Loại bỏ các hạn chế tín dụng. Có một số doanh nghiệp không đủ điều kiện

để nhận tín dụng, nhưng họ lại dễ dàng có được tài sản mới thông qua việc đi thuê.
Lý do đơn giản là tài sản đi thuê được coi như vật thế chấp.
1.1.2.2.4 Bảo lãnh, bao thanh toán
+ Bảo lãnh là cam kết của Ngân hàng dưới hình thức thư bảo lãnh về việc
thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng của Ngân hàng, nếu khách hàng
không thực hiện nghĩa vụ như cam kết. Về bản chất, bảo lãnh là một hình thức tài
trợ của Ngân hàng cho khách hàng, qua đó khách hàng có thể tìm được nguồn tài
chính để mua hàng hóa, hoặc thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm
thu lợi.
Đây là hình thức tài trợ thông qua uy tín, nghĩa là Ngân hàng không phải xuất
tiền ngay khi bảo lãnh, do vậy bảo lãnh được coi là tài sản ngoại bảng. Tuy nhiên,
khi khách hàng không thực hiện được cam kết thì Ngân hàng phải đảm nhiệm
nghĩa vụ trả nợ thay, cho nên bảo lãnh cũng chứa đựng các rủi ro như một khoản
cho vay. Do đó, Ngân hàng phải phân tích khách hàng như khi cho vay.
Tùy theo mục tiêu, bảo lãnh có thể được chia thành nhiều loại.
- Bảo lãnh bảo đảm tham gia dự thầu là cam kết của Ngân hàng với chủ đầu
tư (hoặc chủ thầu) về việc trả tiền phạt thay cho bên dự thầu, trong trường hợp bên
dự thầu vi phạm các quy định.
- Bảo lãnh thực hiện hợp đồng là cam kết của Ngân hàng về việc chi trả tổn
thất thay cho khách hàng, nếu khách hàng không thực hiện đầy đủ hợp đồng như
cam kết và gây tổn thất cho bên thứ ba.
- Bảo lãnh bảo đảm hoàn trả tiền ứng trước là cam kết của Ngân hàng về việc
sẽ hoàn trả tiền ứng trước cho bên mua (người hưởng bảo lãnh) nếu bên cung cấp
(người được bảo lãnh) không trả. Thông thường, bên mua yêu cầu bên cung cấp
phải có bảo lãnh của Ngân hàng về hoàn trả tiền ứng trước, nhằm đề phòng người
cung cấp vừa không chuyển hàng, vừa không trả tiền đặt cọc.
- Bảo lãnh vay vốn là cam kết của Ngân hàng đối với bên cho vay (tổ chức tín
dụng, cá nhân, doanh nghiệp…..) về việc trả gốc và lãi đúng thời hạn nếu người đi
vay không trả được.
- Bảo lãnh đảm bảo thanh toán là cam kết của Ngân hàng về việc sẽ thanh

toán tiền theo đúng hợp đồng cho người thụ hưởng nếu khách hàng không thanh
toán đủ.
+Bao thanh toán về bản chất là hoạt động mua bán nợ, nói cách khác thì Ngân
hàng đã mua lại các khoản phải thu của doanh nghiệp. Nhờ có sự chuyên môn hóa
trong việc thu hồi nợ nên sau khi mua lại các khoản nợ, Ngân hàng có thể nâng cao
hiệu suất và giảm chi phí thu nợ. Trong khi đó, doanh nghiệp không cần bận tâm
đến việc thu nợ mà chỉ tập trung vào sản xuất kinh doanh.
Với nghiệp vụ bao thanh toán, khách hàng có thể nhận được những tiện ích
sau:
- Có thể thu tiền hàng ngay lập tức, tăng nguồn vốn lưu động, thực chất thì
doanh nghiệp đã sử dụng tín dụng của Ngân hàng mà không cần phụ thuộc vào tài
sản thế chấp.
- Tiết kiệm đáng kể thời gian và chi phí trong việc theo dõi và thu hồi khoản
phải thu, được Ngân hàng hỗ trợ đánh giá tình hình kinh doanh và uy tín tín dụng
của bên mua trước khi giao hàng
- Nếu sử dụng hình thức bao thanh toán miễn truy đòi thì Ngân hàng sẽ gánh
chịu hộ rủi ro thanh toán đối với người bán chịu hàng hóa.
Theo quy chế Hoạt động bao thanh toán của tổ chức tín dụng ban hành kèm
Quyết định 1096/2004/QĐ-NHNN thì tổng số dư bao thanh toán cho một khách
hàng không được vượt quá 15% vốn tự có của đơn vị bao thanh toán. Ngoài ra, các
khoản phải thu phát sinh từ các giao dịch bán hàng dưới hình thức ký gửi, từ các
hợp đồng mua, bán hàng có thời hạn thanh toán còn lại dài hơn 180 ngày… cũng
không được thực hiện bao thanh toán.
*Với các nghiệp vụ tín dụng đa dạng như đã kể trên, Ngân hàng có thể đáp
ứng một cách tối đa nhu cầu vốn của khách hàng. Tùy theo quá trình luân chuyển
vốn, chu kỳ thu nhập, đặc điểm kinh doanh…. của khách hàng mà Ngân hàng áp
dụng phương thức tài trợ vốn phù hợp.
1.1.2.3 Chính sách tín dụng của Ngân hàng thương mại
Mỗi một Ngân hàng thương mại đều xây dựng cho mình một chính sách tín
dụng riêng. Thông thường, chính sách tín dụng được thể hiện dưới hình thức văn

bản, tuy nhiên trong một số trường hợp thì chính sách tín dụng có thể là những chỉ
thị bằng lời của BLĐ Ngân hàng, hoặc là một tập hợp các hành vi, thông lệ, tập
quán…
Nhưng dù là dưới hình thức nào, mỗi Ngân hàng thương mại nói chung và tổ
chức tín dụng nói riêng đều xây dựng một tập hợp những quy chế, hướng dẫn và
chỉ tiêu đối với hoạt động tín dụng.
1.1.2.3.1 Vai trò của chính sách tín dụng
Tín dụng là hoạt động cơ bản của Ngân hàng. Với tầm quan trọng, quy mô và
mức ảnh hưởng lớn, hoạt động này cần phải được thực hiện dựa trên một chính
sách rõ ràng, được xây dựng và hoàn thiện qua nhiều năm. Đó chính là chính sách
tín dụng.
Chính sách tín dụng thể hiện cương lĩnh tài trợ của một ngân hàng, là cơ sở để
hình thành nên các thủ tục cho vay. Nói cách khác, nó là một văn bản đưa ra triết lý
và khái niệm cơ bản trong hoạt động tín dụng. Chính sách tín dụng là hướng dẫn
chung về mặt nghiệp vụ cho cán bộ tín dụng cũng như các nhân viên ngân hàng,
tăng cường chuyên môn hóa trong phân tích tín dụng, tạo sự thống nhất chung
trong hoạt động tín dụng nhằm hướng tới mục tiêu hạn chế rủi ro, nâng cao tỷ lệ
sinh lời.
1.1.2.3.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến chính sách tín dụng
Có 4 nhân tố chính ảnh hưởng đến chính sách tín dụng.
- Nhu cầu tín dụng của khách hàng: Chính sách tín dụng là chính sách phục
vụ nhu cầu tín dụng của khách hàng. Do đó, hiển nhiên là nhu cầu của khách hàng
với các đặc tính khác nhau (khách hàng lớn, nhỏ, thường xuyên hay không thường
xuyên….) sẽ tác động đến nội dung và thành công của chính sách tín dụng.
- Khả năng sinh lời và rủi ro tiềm năng của khách hàng: Mức độ an toàn cũng
như tỷ lệ sinh lời của các hoạt động tín dụng được quyết định chính bởi khả năng
sinh lời và rủi ro tiềm năng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng.
Nếu khách hàng làm ăn thuận lợi, Ngân hàng sẽ dễ dàng thu hồi vốn và ngược lại.
- Chính sách của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước: Các chính sách ưu đãi
tín dụng, chính sách tỷ giá, chính sách hỗ trợ lãi suất…. của Chính phủ và Ngân

hàng nhà nước đều có ảnh hưởng đến chính sách tín dụng. Nếu Chính phủ yêu cầu
thu hẹp cung tiền, các Ngân hàng thương mại phải hạn chế cấp tín dụng mới và
ngược lại.
- Tính chất của các khoản tiền gửi: Quy mô, tính ổn định… của các khoản
tiền gửi, cũng như khả năng huy động vốn của Ngân hàng đều có tác động lớn
đến chính sách tín dụng. Nếu nguồn tiền gửi dài hạn chiếm tỷ trọng lớn, Ngân
hàng có thể gia tăng các khoản tín dụng trung và dài hạn, và ngược lại.
1.1.2.3.3 Nội dung cơ bản của chính sách tín dụng
Tất cả các vấn đề có liên quan đến cấp tín dụng nói chung đều được xem xét
và đưa ra trong chính sách tín dụng. Chính sách tín dụng tạo cho cán bộ tín dụng ý
thức về phương hướng và một khung tham chiếu nhất định để theo đó xem xét cân
nhắc một khoản cho vay. Tất nhiên, chính sách tín dụng không nên quá cứng nhắc
đến mức bóp nghẹt tính sáng tạo của cán bộ tín dụng, hay ngăn cản các trường hợp
ngoại lệ có thể đưa ra một khoản cho vay an toàn.
+Chính sách khách hàng
Nhìn chung, khách hàng nhận tín dụng của Ngân hàng rất đa dạng, từ doanh
nghiệp, cá nhân, tổ chức xã hội, các cơ quan Nhà nước…. tuy nhiên luật pháp cũng
cấm, hoặc hạn chế Ngân hàng cho vay đối với một số đối tượng nhất định.
Người đứng tên vay cho một tập thể phải được sự ủy thác của cả tập thể. Cá
nhân vay phải là người đến tuổi thành niên.
+ Chính sách qui mô và giới hạn tín dụng
Ngoài các giới hạn cho luật quy định, mỗi Ngân hàng đều có quy định
riêng về quy mô cho vay tối đa đối với mỗi chi nhánh hoặc khách hàng. Quy mô
tối đa phải đẩm bảo kết hợp tính sinh lời với mức rủi ro có thể chấp nhận được
của mỗi khoản cho vay. Chính sách này còn được quy định cho từng thời kỳ
trong năm, có tính đến quy mô và tính chất nguồn vốn của từng ngân hàng.
+ Lãi suất và phí suất tín dụng
Mỗi Ngân hàng có các mức lãi suất tín dụng khác nhau tùy theo kỳ hạn, mức
độ rủi ro hoặc các loại tiền tệ. Bên cạnh khung lãi suất định trước, Ngân hàng cũng
cung cấp lãi suất thỏa thuận đối với từng khách hàng cụ thể (khách hàng lớn,

thường xuyên có thể được hưởng mức lãi suất ưu đãi hơn).
Lãi suất có thể cố định trong suốt kỳ hạn tín dụng, hoặc biến đổi tùy theo thay
đổi của lãi suất tham khảo (lãi suất thả nổi). Kết hợp của hai loại trên gọi là lãi suất
hỗn hợp. Khung lãi suất tín dụng do Ban giám đốc ngân hàng thông qua, bao gồm
lãi suất cơ bản và lãi suất bình quân với các kỳ hạn, các ngành và lĩnh vực chủ yếu.
Chính sách lãi suất cần chỉ rõ các bộ phận chính cấu thành lãi suất tín dụng như lãi
suất huy động (nguồn), chi phí nhân sự, phần bù rủi ro, thuế…

×