Khóa luận tốt nghiệp
LỜI CẢM ƠN
Qua khóa luận này, em xin chân thành cảm ơn đã nhiệt tình hướng dẫn, giúp đỡ em
trong việc định hướng đề tài, các vấn đề nghiên cứu cùng Các anh chị công tác tại Ngân
hàng thương mại cổ phần Á Châu Chi nhánh Đà Nẵng, đặc biệt là các anh chị công tác tại
Tổ pháp lý chứng từ đã tạo điều kiện giúp đỡ em hồn thành khóa luận này.
Mặc đã rất cố gắng trong quá trình thực hiện, tuy nhiên nội dung bài khóa luận này
chắc chắn sẽ khơng trành khỏi những thiếu sót, hạn chế. Vì vậy, em mong nhận được ý kiến
đóng góp của các thầy, cơ giáo, các anh chị và các bạn để bài viết được tốt hơn. Em xin chân
cảm ơn.
LỜI CAM ĐOAN
SVTH: Đặng Thị Thanh Bình – Lớp 34K13
Khóa luận tốt nghiệp
Tác giả cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tác giả.
Các số liệu, phân tích, lập luận và kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa
từng được công bố trong bất kỳ cơng trình nghiên cứu nào khác.
Bất kỳ vi phạm nào của tác giả (nếu có) sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật, quy
chế của Đại học Đà Nẵng và quy chế của Trường Đại học Kinh tế Đà Nẵng.
Người viết
Đặng Thị Thanh Bình
SVTH: Đặng Thị Thanh Bình – Lớp 34K13
Khóa luận tốt nghiệp
DANH MỤC CÁC KÝ HỆU TỪ VIẾT TẮT
Ký hiệu...........................................................................................Diễn giải
ACB..................................................................................Ngân hàng Á Châu
BĐS............................................................................................Bất động sản
BLDS .....................................................................................Bộ Luật dân sự
CNH-HĐH.......................................................Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
ĐKGDBĐ............................................................Đăng ký giao dịch bảo đảm
GCNQSDĐ.............................................Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
LĐĐ.............................................................................................Luật đất đai
NHNN............................................................................Ngân hàng Nhà nước
NHTW........................................................................Ngân hàng Trung ương
NHTM ........................................................................Ngân hàng thương mại
TCTD ............................................................................... Tổ chức tín dụng
TCTG..............................................................................Tài chính trung gian
TMCP.............................................................................Thương mại cổ phần
TSBĐ....................................................................................Tài sản bảo đảm
QSDĐ............................................................................... Quyền sử dụng đất
UBND ..................................................................................Ủy ban nhân dân
SVTH: Đặng Thị Thanh Bình – Lớp 34K13
Khóa luận tốt nghiệp
MỤC LỤC
LỜI CÁM ƠN
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC KÝ HỆU TỪ VIẾT TẮT..............................................................................................................3
KÝ HIỆU DIỄN GIẢI .................................................................................................................................................3
ACB NGÂN HÀNG Á CHÂU......................................................................................................................................3
BĐS BẤT ĐỘNG SẢN.................................................................................................................................................3
BLDS BỘ LUẬT DÂN SỰ..........................................................................................................................................3
CNH-HĐH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA...............................................................................................3
ĐKGDBĐ ĐĂNG KÝ GIAO DỊCH BẢO ĐẢM........................................................................................................3
GCNQSDĐ GIẤY CHỨNG NHẬN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT.................................................................................3
LĐĐ LUẬT ĐẤT ĐAI..................................................................................................................................................3
NHNN NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC............................................................................................................................3
NHTW NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG......................................................................................................................3
NHTM NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.....................................................................................................................3
TCTD
TỔ CHỨC TÍN DỤNG.................................................................................................................................3
TCTG TÀI CHÍNH TRUNG GIAN............................................................................................................................3
TMCP THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN.............................................................................................................................3
TSBĐ TÀI SẢN BẢO ĐẢM.........................................................................................................................................3
QSDĐ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT................................................................................................................................3
UBND ỦY BAN NHÂN DÂN......................................................................................................................................3
........................................................................................................................................................................................3
........................................................................................................................................................................................3
LỜI MỞ ĐẦU................................................................................................................................................................1
Nếu nghĩa vụ được bảo đảm chưa đến hạn thực hiện thì tài sản bảo đảm được xử lý theo thoả thuận của các
bên; trong trường hợp khơng có thoả thuận thì tài sản bảo đảm được xử lý theo quy định của pháp luật về phá
sản để thực hiện nghĩa vụ khác của bên bảo đảm...............................................................................................54
6.3 NGUYÊN TẮC XỬ LÝ TÀI SẢN THẾ CHẤP.....................................................................................................................54
SVTH: Đặng Thị Thanh Bình – Lớp 34K13
Khóa luận tốt nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
Thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà Nước – “ đến năm 2020 đưa Việt
Nam từ một nước nông nghiệp trở thành một nước công nghiệp tiên tiến ”, trong những
năm qua, nước ta đã không ngừng đẩy mạnh cải cách kinh tế và thực hiện CNH-HĐH trên
cơ sở phát huy lợi thế so sánh của đất nước, gắn liền với nhu cầu thị trường trong ngoài
nước nhằm mục tiêu phát triển kinh tế xã hội nhanh, có hiệu quả và bền vững. Để thực
hiện được mục tiêu này thì vốn là một yếu tố quan trọng, vốn là tiền đề cho sự tăng trưởng
kinh tế, mức tăng trưởng kinh tế cao hay thấp phụ thuộc đáng kể vào quy mô và hiệu quả
của vốn đầu tư.
Với chức năng thu hút và phân bổ vốn trong nền kinh tế, NHTM đã thâm nhập vào
mọi hoạt động kinh tế - xã hội như là người mở đường, người tham gia, người quyết định
đối với mọi quá trình sản xuất kinh doanh. NHTM ngày càng đóng vai trị là trung tâm tiền
tệ, tín dụng và thanh toán của các thành phần kinh tế, là chế định tài chính quan trọng nhất
của nền kinh tế.
NHTM là một doanh nghiệp đặc biệt kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ. Trong số các
hoạt động kinh doanh của ngân hàng thì tín dụng là hoạt động quan trọng nhất, quan hệ tín
dụng là quan hệ xương sống, quyết định mọi hoạt động của nền kinh tế quốc doanh và nó
cịn là nguồn sinh lợi chủ yếu, quyết định sự tồn tại phát triển của ngân hàng. Nhưng nó
cũng là nghiệp vụ chứa đựng nhiều rủi ro nhất. Có vô số các rủi ro khác nhau khi cho vay,
xuất phát từ nhiều yếu tố và có thể dẫn đến việc không chi trả được nợ khi đến hạn làm
cho ngân hàng bị phá sản gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến tồn bộ nền kinh tế.
Chính vì vậy an tồn trong hoạt động tín dụng là một trong những vấn đề được quan
tâm hàng đầu không chỉ ở nước ta mà ở tất cả các quốc gia trên thế giới. Để hạn chế bớt thiệt
hại khi gặp rủi ro từ phía khách hàng, ngân hàng thường áp dụng hình thức cho vay có bảo
đảm bằng tài sản của khách hàng đặc biệt là biện pháp thế chấp tài sản. Trong thời gian qua
nhiều nghị định, thông tư được ban hành, hướng dẫn việc bảo đảm tiền vay bằng tài sản, đáp
ứng được sự mong đợi của khách hàng trong quá trình nhận và xử lý tài sản bảo đảm, góp
phần hạn chế rủi ro trong cho vay đối với ngân hàng. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện
cho vay thế chấp bằng tài sản, nội dung của bộ phận pháp luật này đã nảy sinh một số vướng
mắc, bất cập so với yêu cầu cuộc sống, hiệu quả áp dụng còn chưa cao. Bức xúc nhất hiện
nay là ở các lĩnh vực: Xác định loại tài sản thế chấp, công chứng chứng thực Giao dịch bảo
SVTH: Đặng Thị Thanh Bình – Lớp 34K13
Trang 1
Khóa luận tốt nghiệp
đảm, xử lý tài sản thế chấp…dẫn đến hậu quả là hàng nghìn tỷ đồng trên vốn vay của
NHTM khơng thể thu hồi được, đóng băng trong các bất động sản thế chấp. Những thực tiễn
đó bắt nguồn từ nguyên nhân trực tiếp là các văn bản pháp luật về vấn đề này còn tản mạn,
vừa chồng chéo, thậm chí mâu thuẫn nhau, chưa hình thành một hệ thống văn bản pháp luật
hoàn chỉnh.
Xuất phát từ những lý do đó, tác giả đã mạnh dạn chọn đề tài “Chế độ pháp lý về thế
chấp tài sản bảo đảm thực hiện các hoạt động tín dụng của Ngân hàng Thương mại” đề
làm đề tài cho khoá luận của mình, đồng thời góp phần hồn thiện các quy định về bảo
đảm tiền vay nói riêng và hồn thiện các quy định về pháp luật ngân hàng nói chung.
• Mục đích nghiên cứu
Tác giả nghiên cứu đề tài nhằm làm rỏ cơ sở khoa học và thực tiễn của quan hệ thế
chấp tài sản, đồng thời nêu ra những điểm còn bất cập trong quy định của pháp luật ngân
hàng hiện hành về thế chấp tài sản để bảo đảm thực hiện hoạt động tín dụng ngân hàng. Từ
đó, đề xuất một số các kiến nghị góp phần hồn thiện chế độ pháp lý về thế chấp tài sản
trong hoạt dộng tín dụng của ngân hàng thương mại.
• Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là những quy định của pháp luật về thế chấp tài
sản mà chủ yếu là các quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ thế chấp tài sản để bảo đảm
thực hiện các hoạt động tín dụng ngân hàng, đặc biệt là hoạt động cho vay. Ngồi ra, khóa
luận cịn làm rõ những điểm mới, tiến bộ trong quy định của pháp luật ngân hàng liên quan
đến thế chấp tài sản trong hoạt động tín dụng của NHTM cũng như những hạn chế, thiếu
sót của những quy định đó.
Là cơng trình nghiên cứu luật học nên khóa luận của tác giả chỉ tiếp cận thế chấp tài
sản dưới góc độ là loại quan hệ xã hội chịu sự điều chỉnh của pháp luật. Mặt khác, khóa
luận khơng nghiên cứu tồn bộ các vấn đề liên quan đến thế chấp tài sản với tư cách là một
biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự mà nghiên cứu nó ở tư cách là một biện pháp
đảm bảo thực hiện các hoạt động tín dụng của NHTM, đặc biệt là hoạt động cho vay.
• Phương pháp nghiên cứu
SVTH: Đặng Thị Thanh Bình – Lớp 34K13
Trang 2
Khóa luận tốt nghiệp
Để khóa luận mang tính khoa học, tác giả đã sử dụng kết hợp các phương pháp
nghiên cứu chủ yếu và phổ biến như: phương pháp luật học so sánh, phương pháp đối
chiếu, phương pháp phân tích kết hợp giải thích và tổng hợp, khái qt hóa.
• Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Đề tài là cơng trình nghiên cứu có giá trị tham khảo cho những người làm công tác
pháp luật trong quá trình hồn thiện những quy định của pháp luật ngân hàng về thế chấp
tài sản để đảm bảo thực hiện các hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại. Đồng
thời, có thể làm tài liệu học tập cho các bạn sinh viên có nhu cầu tìm hiểu.
• Bố cục đề tài
Ngồi phần mở đầu, kết luận, nội dung khóa luận được chia làm ba chương:
- Chương 1: Những vấn đề lý luận về thế chấp tài sản bảo đảm các hoạt động tín
dụng của Ngân hàng Thương mại.
- Chương 2: Pháp luật về thế chấp bảo đảm thực hiện các hoạt động tín dụng của
Ngân hàng Thương mại ở Việt Nam.
- Chương 3:Thực trạng pháp luật Việt Nam về thế chấp tài sản bảo đảm thực hiện
các hoạt động tín dụng của Ngân hàng Thương mại - Kiến nghị hồn thiện.
CHƯƠNG 1
SVTH: Đặng Thị Thanh Bình – Lớp 34K13
Trang 3
Khóa luận tốt nghiệp
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THẾ CHẤP TÀI SẢN BẢO
ĐẢM THỰC HIỆN CÁC HOẠT ĐỘNG TÍNH DỤNG CỦA
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
1.Tổng quan về ngân hàng thương mại và hoạt động tín dụng của
Ngân hàng thương mại.
1.1 Ngân hàng thương mại.
1.1.1 Khái niệm và đặc điểm của Ngân hàng Thương mại
Lịch sử hình thành và phát triển của ngân hàng thương mại gắn liền với sự phát triển
của nền sản xuất hàng hóa. NHTM ra đời là kết quả của một quá trình hình thành và phát
triển lâu dài, phù hợp và gắn liền với tiến trình phát triển của nền sản xuất hàng hóa. Nó
được xem như là sản phẩm của nền sản xuất hàng hóa, là một bộ phận không thể tách rời
và tồn tại như một tách yếu trong nền kinh tế hiện đại.
Vậy NHTM là gì? Nó hoạt động như thế nào? Tại sao nó lại đóng một vai trị quan
trọng như vậy đối với sự phát triển của nền kinh tế? Xung quanh vấn đề này tồn tại nhiều
quan điểm khác nhau.
Trên giác độ tài chính ngân hàng các nhà kinh tế học hiện đại quan điểm rằng:
Ngân hàng thương mại là một loại hình doanh nghiêp – Một doanh nghiệp đặc biệt
hoạt động và kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ và tín dụng. Theo quan điểm của Peter Rose thì
ngân hàng là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa
dạng nhất – đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán – và thực hiện nhiều chức
năng tài chính nhất so với bất kỳ tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế”. Còn các nhà
kinh tế học Việt Nam thì cho rằng “Ngân hàng thương mại là một tổ chức mà hoạt động chủ
yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi, trên nguyên tắc hoàn trả, tiến hành cho vay, chiết khấu
và làm các phương tiện thanh toán.”
Trên giác độ pháp luật khái niệm NHTM cũng có những quan điểm khác nhau ở
mỗi quốc gia1.
Đạo luật ngân hàng của Pháp (1941) định nghĩa: “Ngân hàng thương mại là những xí
nghiệp hay cơ sở mà nghề nghiệp thường xuyên là nhận tiền bạc của công chúng dưới hình
Võ Thị Thúy Anh & Lê Phương Dung (2009), Nghiệp vụ ngân hàng hiện đại, Nhà xuất bản
tài chính, Đà Nẵng, Tr.8
1
SVTH: Đặng Thị Thanh Bình – Lớp 34K13
Trang 4
Khóa luận tốt nghiệp
thức ký thác, hoặc dưới các hình thức khác và sử dụng tài ngun đó cho chính họ trong
các nghiệp vụ về chiết khấu, tín dụng và tài chính”.
Cịn pháp luật Ấn Độ thì có cái nhìn về NHTM như sau “ Ngân hàng thương mại là
cơ sở nhận các khoản ký thác để cho vay hay tài trợ, đầu tư.”
Luật các Tổ chức tín dụng Việt Nam 2010 định nghĩa rằng “Ngân hàng thương mại
là loại hình ngân hàng được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng2 và các hoạt động
kinh doanh khác theo quy định của Luật này nhằm mục tiêu lợi nhuận.”3
Mặc dù có
nhiều quan điểm khác nhau về NHTM, nhưng tựu chung lại có thể hiểu tổng quát: Ngân
hàng thương mại là một tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân hoạt động kinh doanh trên
lĩnh vực tiền tệ với hoạt động chính là huy động tiền gửi dưới các hình thức khác nhau của
khách hàng, trên cơ sở nguồn vốn huy động này và vốn chủ sở hữu của ngân hàng để thực
hiện các nghiệp vụ cho vay, đầu tư, chiết khấu đồng thời thực hiện các nghiệp vụ thanh
tốn, mơi giới, tư vấn và một số dịch vụ khác cho các chủ thể trong nền kinh tế.
Cũng là một tổ chức kinh tế nên giống như các doanh nghiệp khác trong nền kinh tế,
NHTM cũng sử dụng các yếu tố sản xuất như lao động, tư liệu lao động, đối tượng lao động
(tiền vốn) làm yếu tố đầu vào, để sản xuất ra những yếu tố đầu ra dưới hình thức dịch vụ tài
chính mà khách hàng u cầu. Tuy nhiên, khác với các doanh nghiệp khác, là một loại hình
doanh nghiệp đặc biệt, NHTM có một số đặc điểm đặc trưng như sau:
Thứ nhất, NHTM là một doanh nghiệp đặc thù kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệtín dụng. Các hoạt động của NHTM nhằm thúc đẩy và lưu chuyển các dòng tiền tệ từ trạng
thái tĩnh sang trạng thái động phục vụ cho việc giao dịch, thanh toán phát sinh hàng ngày
trong nền kinh tế thông qua các hoạt động huy động vốn và cho vay. Các NHTM có khả
năng tạo tiền từ các nghiệp vụ kinh doanh của mình thơng qua chính sách tỉ giá, lãi suất.Vì
vậy, ngân hàng thương mại là một mắt xích góp phần ổn định chính sách tiền tệ quốc gia
đặc biệt đối với các quốc gia đang trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế để hội nhập khu
vực và quốc tế như Việt Nam.
Thứ hai, sản phẩm mà ngân hàng kinh doanh và làm dịch vụ là hàng hóa tài
chính. Nếu các doanh nghiệp sản xuất sáng tạo ra hàng hóa hữu hình như lúa, gạo, áo quần,
2
Khoản 12 Điều 4 Luật TCTD 2010 “Hoạt động ngân hàng là việc kinh doanh, cung ứng
thường xuyên một hoặc một số các nghiệp vụ sau đây: Nhận tiền gửi; Cấp tín dụng; Cung
ứng dịch vụ thanh tốn qua tài khoản”.
3
Khoản 3 Điều 4 Luật TCTD 2010.
SVTH: Đặng Thị Thanh Bình – Lớp 34K13
Trang 5
Khóa luận tốt nghiệp
dày dép, xe máy, ơtơ… thì các NHTM sản xuất ra các hàng hóa vơ hình, có đặc tính phi vật
chất, chỉ bắt đầu khi khách hàng chuyển đến ngân hàng các ủy nhiệm của họ khi phát sinh
từ hợp đồng giao dịch thương mại, tín dụng hoặc phải hồn thành một nghĩa vụ tài chính
nào đó, do vậy tính chất bị động, phụ thuộc khách hàng trong sản phẩm dịch vụ ngân hàng
là vô cùng lớn, dẫn đến mức độ rủi ro cũng tăng cao. Vì vậy, cần vận hành theo một quy
trình và phải được điều hành bởi nguồn lực có trình độ chun mơn nhất định, dựa trên
những cơ sở pháp lý do pháp luật quy định để đảm bảo hiệu quả các hoạt động của ngân
hàng.
Thứ ba, NHTM kinh doanh chủ yếu bằng vốn của người khác. NHTM không
trực tiếp tham gia sản xuất và lưu thơng hàng hóa như các doanh nghiệp thơng thường; mà
nó thực hiện các chức năng trung gian tín dụng, trung gian thanh tốn và làm dịch vụ tiền
tệ, tư vấn tài chính cho khách hàng. Ngân hàng kinh doanh chủ yếu khơng phải bằng vốn
tự có, mà chủ yếu bằng vốn của những người gửi tiền qua vai trị trung gian tín dụng, làm
mơi giới cho các nhà đầu tư và những người có tích lũy. Từ đó cho thấy, NHMT mặc dù
nắm trong tay một bộ phận lớn nhất của cải xã hội dưới dạng giá trị nhưng lại khơng có
quyền sở hữu chúng, đồng thời hoạt động của nó dựa vào thương hiệu và uy tín tạo ra với
khách hàng.
Thứ tư, hoạt động của NHTM là cầu nối giữa các nhà đầu tư, các doanh nghiệp,
những cá nhân có vốn nhàn rỗi và các nhà đầu tư, các doanh nghiệp, các cá nhân có nhu
cầu vay vốn. Như vậy, các NHTM góp một phần lớn điều hòa vốn trong nền kinh tế, đảm
bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được liên tục, làm cho sản phẩm xã hội được tăng
lên, vốn đầu tư được mở rộng, từ đó góp phần túc đẩy sự phát triển kinh tế, cải thiện đời
sống nhân dân.
Thứ năm, NHTM là trung tâm biến đổi và tiếp nhận rủi ro trong nền kinh tế.
Thông qua kênh ký thác, ngân hàng nhận các nguồn tài chính từ những người cho vay đầu
tiền, rồi thơng qua các kênh tín dụng, NHTM chuyển các luồng tài chính đến tay người đi
vay sau cùng, và cũng bằng hai cách này, NHTM chuyển đi hoặc nhận về các luồng tài
chính từ các định chế tài chính khác. Khi làm như vậy, NHTM đã vơ tình tạo lập các kênh
rủi ro giữa các chủ thể kinh tế, các chế định tài chính với nhau.
Hơn nữa, bản thân
khách hàng của ngân hàng là chủ thể luôn chứa đựng rủi ro nên khi họ tìm đến ngân hàng
mặc nhiên họ đã san sẻ rủi ro đo cho ngân hàng. Và như vậy, NHTM đã tổng hợp tất cả
SVTH: Đặng Thị Thanh Bình – Lớp 34K13
Trang 6
Khóa luận tốt nghiệp
các rủi ro của khách hàng về để gánh vác. Như vậy, với chức năng là trung gian tài chínhcầu nối gắn kết giữa chủ thể thừa tiền muốn cho vay với chủ thể thiếu tiền muốn đi vay,
NHTM chính là tiếp nhận và trung chuyển các rủi ro trong nền kinh tế.
1.1.2 Các hoạt động chủ yếu của Ngân hàng thương mại.
Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động của một NHTM hiện đại tập trung chủ yếu
vào ba hoạt động cơ bản đó là: hoạt động huy động vốn, hoạt động sử dụng vốn và hoạt
động trung gian. Ba hoạt động này có quan hệ mật thiết, tác động hỗ trợ nhau cùng phát
triển, làm nên uy tín và thế mạnh cạnh tranh cho NHTM trong nền kinh tế.
Hoạt động huy động vốn:
Một đặc trưng trong hoạt động kinh doanh của các NHTM đó là đi vay để cho vay.
Do đó, khác với các doanh nghiệp khác kinh doanh trong lĩnh vực phi tài chính, huy động
vốn là hoạt động kinh doanh hết sức quan trọng đối với NHTM. Đây là nghiệp vụ đầu
tiên, là sự khởi tạo cho các hoạt động của ngân hàng. Bởi vậy, mới có câu nói huy động
các nguồn vốn khác nhau trong xã hội là lẽ sống quan trọng nhất của các NHTM. Trong
hoạt động của NHTM vốn tự có thường chiếm một tỷ lệ nhỏ trong trong nguồn vốn, vì vậy
chính nguồn vốn vay mượn này, chứ không phải vốn chủ sở hữu, đã tạo nguồn lực tài
chính chủ yếu cho các hoạt động của NHTM. Do vậy, để đảm bảo cho hoạt động của mình
cơng tác quan trọng đầu tiên của các NHTM là họat động huy động vốn. Công tác huy
động vốn bao gồm huy động vốn tiền gửi và huy động vốn phi tiền gửi.
Theo quy đinh của Luật Các TCTD 2010 NHTM được huy động vốn dưới các hình thức4:
- Huy động vốn bằng nhận tiền gửi của các tổ chức, cá nhân và các tổ chức tín dụng
khác dưới hình thức tiền gửi khơng kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm và các loại
tiền gửi khác.
-Huy động vốn bằng việc phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu
để huy động vốn của các tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài.
-Huy động vốn bằng vay vốn ngắn hạn của Ngân hàng Nhà nước5
-Vay vốn của tổ chức tín dụng, tổ chức tài chính khác hoạt động tại Việt Nam và nước ngoài.
- Các hình thức huy động vốn khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.
Hoạt động sử dụng vốn
4
5
Xem Khoản 1, 2 Điều 98, Điều 99 và Điều 100 Luật Các TCTD 2010.
Điều 24 Luật Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam 2010
SVTH: Đặng Thị Thanh Bình – Lớp 34K13
Trang 7
Khóa luận tốt nghiệp
Hoạt động này phản ánh q trình sử dụng vốn của các NHTM vào các mục đích
khác nhau nhằm đảm bảo an toàn kinh doanh cũng như tìm kiếm lợi nhuận. Hiện nay, các
NHTM có hướng sử dụng vốn chủ yếu là6:
-Cho vay;
-Chiết khấu, tái chiết khấu cơng cụ chuyển nhượng và giấy tờ có giá khác;
-Bảo lãnh ngân hàng;
-Phát hành thẻ tín dụng;
-Bao thanh tốn trong nước; bao thanh toán quốc tế đối với các ngân hàng được phép
thực hiện thanh tốn quốc tế;
-Các hình thức cấp tín dụng khác sau khi được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận.
Trong các hoạt động sử dụng vốn hiện có của NHTM thì hoạt động chủ yếu và đem
lại nguồn thu lớn nhất cho ngân hàng là hoạt động cho vay. Thông qua cho vay, NHTM sử
dụng nguồn vốn huy động được để thực hiện cho vay đầu tư, cung cấp vốn đáp ứng nhu
cầu vốn sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng,.. của các chủ thể kinh tế, góp phần đảm bảo sự
vận động liên tục của guồng máy kinh tế xã hội, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Nền kinh tế
phát triển, nhu cầu về dịch vụ tiện ích của con người tăng cao, ngân hàng mở và cung cấp
các dịch vụ tiện ích đó để thu phí - một nguồn thu không nhỏ của các NHTM. Như vậy,
hoạt động sử dụng vốn - đặc biệt là cho vay là hoạt động quan trong bậc nhất đối với sự
tồn tại và phát triển của mỗi NHTM, cũng như đem lại hiệu quả to lớn cho nền kinh tế xã
hội.
Hoạt động trung gian
Có huy động được vốn thì mới có nguồn vốn cho vay, cho vay có hiệu quả, phát triển
kinh tế thì mới có nguồn vốn để huy động vào; đồng thời muốn cho vay và huy động tốt thì
ngân hàng phải làm tốt nghiệp vụ mơi giới trung gian của mình. Như vậy, hoạt động trung
gian hỗ trợ đáng kể cho nghiệp vụ khai thác nguồn vốn, mở rộng các nghiệp vụ đầu tư, cho
vay của ngân hàng, là hoạt động không thể thiếu tạo nên cái gọi là đặc trưng của NHTM
đó là đi vay để cho vay. Các hoạt động này bào gồm:
-Dịch vụ trong thanh toán như: thu chi hộ cho khách hàng - chuyển tiền, thu hộ séc,
dịch vụ cung cấp thẻ tín dụng, thẻ thanh tốn..
- Dịch vụ tư vấn, mơi giới như: mua bán hộ chứng khoán theo uỷ nhiệm của khách
6
Khoản 3, Điều 98 Luật các TCTD 2010
SVTH: Đặng Thị Thanh Bình – Lớp 34K13
Trang 8
Khóa luận tốt nghiệp
hàng, tư vấn tài chính, giúp đỡ các cơng ty, xí nghiệp phát hành cổ phiếu, trái phiếu, bất
động sản…
- Các dịch vụ khác: Nhận bảo quản các tài sản quí giá, các giấy tờ chứng thư quan
trọng của công chúng, cho thuê két sắt, bảo mật..
1.1.3 Sự cần thiết phải điều chỉnh pháp luật đối với hoạt động của Ngân hàng Thương mại.
Pháp luật là hệ thống các quy định về các thức ứng xử chung giữa các chủ thể trong
xã hội, được ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phù hợp với bản chất của nền
kinh tế và định hướng của nhà nước, trong đó có các quan hệ xã hội hình thành trong lĩnh
vực ngân hàng. Trong nền kinh tế thị trường, hệ thống các NHTM với các hoạt động của
mình có vai trị vơ cùng quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế. Cụ thể, hệ thống
ngân hàng là kênh cung ứng vốn chủ yếu cho nền kinh tế. Vì vậy, hiệu quả hoạt động của
các NHTM sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn tại và phát triển của nền kinh tế. Tuy nhiên,
hoạt động ngân hàng là một loại hình dịch vụ và bản thân ngân hàng là một lĩnh vực nhạy
cảm, chứa đựng nhiều rủi ro. Do đó, để tránh những hậu quả xấu xảy ra đối với nền kinh tế
cần phải có các quy định pháp lý hết sức chặt chẽ và hiện đại để điều chỉnh và quản lý các
hoạt động của hệ thống các Tổ chức tín dụng nói chung và hoạt động của NHTM nói riêng.
Những lý do sau đây sẽ lý giải cho rõ việc cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật đối với
các hoạt động của NHTM:
Thứ nhất, để tạo cơ sở pháp lý cho các tổ chức hoạt động ngân hàng – đặc biệt
NHTM thực hiện các hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực ngân hàng trên cơ sở bình đẳng
và cạnh tranh lành mạnh.
Để tiến hành hoạt động ngân hàng, các quy định pháp luật sẽ tạo ra các quyền và
nghĩa vụ cho các chủ thể trong quan hệ pháp luật ngân hàng. Các tổ chức tín dụng sẽ có
một mơi trường pháp lý mà ở đó, họ được tự chủ kinh doanh và chịu trách nhiệm đối với
hành vi của mình. Cạnh tranh lành mạnh các tổ chức tín dụng sẽ góp phần thúc đẩy sự phát
triển của lĩnh vực ngân hàng, phát huy vai trị của hệ thống ngân hàng trong q trình xây
dựng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay.
Thứ hai, để đảm bảo an toàn hệ thống ngân hàng bởi các hoạt động của NHTM tiềm
ẩn nhiều nguy cơ rủi ro cao.
Sự an toàn của hệ thống ngân hàng có quan hệ mật thiết đến kinh tế xã hội của một
quốc gia. Những bằng chứng lịch sử cho thấy, nếu hệ thống ngân hàng – đặc biệt là các
SVTH: Đặng Thị Thanh Bình – Lớp 34K13
Trang 9
Khóa luận tốt nghiệp
NHTM xảy ra khủng hoảng sẽ tác động mạnh đến an sinh và trật tự xã hội cũng như làm
chậm quá trình phát triển kinh tế. Vì vậy, để đảm bảo an toàn trong hoạt động ngân hàng,
một trong những công cụ quan trọng để nhà nước thực hiện là thông qua việc ban hành và
thực hiện pháp luật đối với hoạt động của NHTM.
Thứ ba, để tạo cơ sở pháp lý giải quyết các tranh chấp có thể phát sinh trong qúa
trình thực hiện các hoạt động của NHTM. Những tranh chấp phát sinh trong các giao dịch
thương mại nói chung và giao dịch ngân hàng nói riêng thương đối phổ biến trong nền kinh
tế thị trường. Ví dụ: tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa NHTM là bên cho vay với khách
hàng vay, tranh chấp về dịch vụ thanh toán giữa bên thụ hưởng thư tín dụng và ngân hàng
phát hành thư tín dụng… Những tranh chấp này sẽ được các bên thương lượng, hòa giải
hoặc cơ quan có thẩm quyền ( tịa án hoặc trọng tài thương mại) giải quyết thông qua việc
vận dụng các quy định của pháp luật ngân hàng trong từng trường hợp cụ thể.
Ngoài ra, việc điều chỉnh bằng pháp luật các hoạt động của NHTM nói riêng và hoạt
động kinh doanh của các Tổ chức tín dụng nói chung giúp cho các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền có thể tiến hành các hoạt động quản lý nhà nước về lĩnh vực ngân hàng như
cấp giấy phép thành lập và hoạt động ngân hàng, quản lý ngoại hối…nhằm đảm bảo hoạt
động ngân hàng phát triển theo đúng định hướng của Đảng và Nhà nước, đáp ứng yêu cầu
xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc
tế tại Việt Nam.
1.2 Hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại.
1.2.1 Khái niệm và bản chất của tín dụng ngân hàng.
Mặc dù tín dụng ra đời từ rất lâu nhưng đến nay định nghĩa về tín dụng vẫn chưa
được thống nhất. Vì vậy, tùy thuộc vào góc độ tiếp cận mà tín dụng có thể được hiểu theo
nhiều nghĩa khác nhau.
Khái niệm “Tín dụng” có nguồn gốc từ thuật ngữ Latinh “Creditium” có nghĩa là sự
tin tưởng, tín nhiệm. Theo quan điểm cổ điển, tín dụng được coi là quan hệ vay mượn tài
sản (tiền tệ hoặc hàng hóa) giữa người cho vay và người đi vay dựa trên nguyên tắc có
hồn trả cả vốn lẫn lời sau một thời gian nhất định. Xét ở góc độ kinh tế, tín dụng được
định nghĩa là một phạm trù kinh tế phản ánh quan hệ sử dụng vốn của nhau giữa các pháp
nhân và thể nhân trong nền kinh tế. Trong quan hệ tài chính tín dụng có thể hiểu theo các
nghĩa sau:
SVTH: Đặng Thị Thanh Bình – Lớp 34K13
Trang 10
Khóa luận tốt nghiệp
-Xét trên gốc độ chuyển dịch quỹ cho vay từ chủ thể thặng dư tiết kiệm sang chủ thể
thiếu hụt tiết kiệm thì tín dụng được coi là phương pháp chuyển dịch qũy từ người cho vay
sang người đi vay.
-Trong một quan hệ tài chính cụ thể, tín dụng là một giao dịch về tài sản trên cơ sở
hoàn trả giữa hai chủ thể.
Trong một số ngữ cảnh cụ thể tín dụng đồng nghĩa với thuật ngữ cho vay hay sự bão
lãnh của bên thứ ba.
Như vậy, thơng qua các định nghĩa trên chúng ta có thể hiểu được tín dụng một các
chung nhất là một giao dịch giữa hai bên, trong đó một bên-bên cho vay giao tài sản cho bên
kia-bên đi vay dựa vào lời hứa thanh toán lại trong tương lai của bên kia. Tuy nhiên, mục
đích của việc nghiên cứu chương này là xem xét tín dụng với tư cách là một chức năng cơ
bản và quan trọng nhất đối với hoạt động của ngân hàng – đặc biệt đối với NHTM. Bên cạnh
đó, tín dụng cịn là nghiệp vụ mang lại phần lớn nguồn thu nhập cho NHTM và quyết định
tới sự thành công hay thất bại của NHTM trên thị trường.
Vậy, dưới giác độ của ngân hàng tín dụng được hiểu là: Tín dụng là một giao dịch tài
sản (tiền hoặc hàng hóa) giữa bên cho vay (ngân hàng và các định chế tài chính khác) và
bên đi vay (cá nhân, doanh nghiệp và các tổ chức khác) trong đó bên cho vay chuyển giao
tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời hạn nhất định theo thỏa thuận, bên đi vay có
trách nhiệm hồn trả vơ điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạnh thanh
tốn.7
Từ định nghĩa trên, bản chất tín dụng trong hoạt động của NHTM là một giao dịch về
tài sản trên cơ sở hồn trả và có các đặc trưng sau:
Tài sản giao dịch trong quan hệ tín dụng ngân hàng có thể dưới hình thái tiền tệ
hoặc hoặc dưới hình thái hiện vật như hàng hóa, máy móc, thiết bị, bất động sản.
Xuất phát từ nguyên tắc hoàn trả, người cho vay khi chuyển giao tài sản cho người
đi vay sử dụng phải có cơ sở tin rằng người đi vay sẽ trả đúng hạn. Đây là yếu tố hết sức
cơ bản trong hoạt động tín dụng của các NHTM và ảnh hưởng đến khả năng thu hồi các
khảo tín dụng.
Giá trị được hồn trả thơng thường lớn hơn giá trị lúc cho vay, hay nói cách khác
người đi vay phải trả thêm phần lãi ngoài vốn gốc đã mượn trước đó.
Lê Văn Tề và Huỳnh Thị Hương Thảo (2011), Thị trường tài chính và các định chế tài
chính trung gian, Nhà xuất bản Phương Đơng, Hồ Chí Minh, Tr. 378
7
SVTH: Đặng Thị Thanh Bình – Lớp 34K13
Trang 11
Khóa luận tốt nghiệp
Trong quan hệ tín dụng ngân hàng, tiền vay được cấp trên cơ sở cam kết hồn trả
vơ điều kiện. Về khía cạnh pháp lý cơ sở của việc hồn trả vơ điều kiện này chính là những
văn bản xác định quan hệ tín dụng như hợp đồng tín dụng, khế ước nhận nợ, các giấy tờ có
giá khác…
1.2.2 Hoạt động tín dụng của ngân hàng.
1.2.2.1 Khái niệm
Hoạt động tín dụng được định nghĩa là việc tổ chức tín dụng sử dụng nguồn vốn tự
có, nguồn vốn huy động được để thỏa thuận cấp tín dụng cho khách hàng trên ngun tắc
có hồn trả bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán, bảo
lãnh ngân hàng và một số nghiệp vụ khác.8
Qua định nghĩa trên, có thể thấy hoạt động tín dụng của các tổ chức tín dụng nói
chung và của NHTM nói riêng có các đặc trưng cơ bản sau:
Một là, chủ thể một bên giao dịch trong quan hệ tín dụng ngân hàng bao giờ cũng là
một tổ chức tín dụng có đủ điều kiện hoạt động tín dụng theo quy định của pháp luật, chủ
thể này tham gia giao dịch với tư cách người đầu tư (người cho vay) và có quyền địi tiền
của người được đầu tư (người đi vay) khi hợp đồng đáo hạn.
Hai là, nguồn vốn chủ yếu mà các NHTM và các định chế tài chính trung gian khác
khi thực hiện các hoạt động tín dụng là nguồn vốn huy động được từ các tổ chức, các nhân
trong xã hội thông qua hoạt động nhận tiền gửi, phát hành trái phiếu hay vay nợ của các tổ
chức tín dụng khác trên thị trường liên ngân hàng.
Ba là, cơ chế hoạt động chủ yếu của các tổ chức tín dụng là “đi vay để cho vay” nên
hoạt động của các tổ chức này thường mang tính rủi ro cao và có ảnh hưởng dây chuyền
đến nhiều tổ chức, các nhân khác trong nền kinh tế.
Bốn là, hoạt động tín dụng được thể hiện ra bởi nhiều hình thức như cho vay, bảo
lãnh, mua giấy tờ có giá…khá tương đồng với các giao địch dân sự phổ biến như hợp đồng
vay tài sản, bão lãnh thực hiện nghĩa vụ dân sự, mua bán tài sản,…nhưng do đặc trưng của
hoạt động ngân hàng nên các giao dịch tín dụng của các tổ chức tín dụng khơng chịu sự
điều chỉnh trực tiếp của Bộ luật dân sự 2005 mà chịu sự điều chỉnh của Luật các tổ chức
tín dụng và các văn bản chi tiết thi hành luật này.
8
Khoản 14, Điều 4, Luật Các tổ chức tín dụng 2010
SVTH: Đặng Thị Thanh Bình – Lớp 34K13
Trang 12
Khóa luận tốt nghiệp
Những đặc trưng trên đây trong hoạt động tín dụng của NHTM và các định chế tài
chính trung gian khác cũng chính là điểm khác nhau giữa hoạt động tín dụng với các giao
dịch khác phát sinh trong xã hội.
Các hoạt động tín dụng của NHTM bao gổm:
Cho vay là hình thức cấp tín dụng, theo đó bên cho vay giao hoặc cam kết giao cho
khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích xác định trong một thời gian nhất
định theo thỏa thuận với ngun tắc có hồn trả cả gốc và lãi.9
Chiết khấu là việc mua có kỳ hạn hoặc mua có bảo lưu quyền truy địi các cơng cụ
chuyển nhượng, giấy tờ có giá khác của người thụ hưởng trước khi đến hạn thanh tốn.10
Cho th tài chính là hình thức cấp tín dụng mà theo đó tổ chức tín dụng cho khách
hàng thuê tài sản với thời gian th khơng ít hơn 1 năm và thõa mãn các điều kiện thuê tài
chính theo quy định của pháp luật về cho th tài chính.11
Bao thanh tốn là hình thức cấp tín dụng cho bên bán hàng hoặc bên mua hàng
thơng qua việc mua lại có bảo lưu quyền truy đòi các khoản phải thu hoặc các khoản phải
trả phát sinh từ việc mua, bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ theo hợp đồng mua, bán hàng
hoá, cung ứng dịch vụ12.
Bảo lãnh ngân hàng là hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng cam kết với
bên nhận bảo lãnh về việc tổ chức tín dụng sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách
hàng khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ đã cam kết;
khách hàng phải nhận nợ và hồn trả cho tổ chức tín dụng theo thỏa thuận13.
Trong những năm 1960 trở về trước hoạt động tín dụng của NHTM chỉ có cho vay
bằng tiền. Nhưng từ những năm 1970 trở lại đây cho thuê vận hành và cho thuê tài chính
đã được các ngân hàng hoặc các định chế tài chính khác cung cấp cho khách hàng. Đây là
một sản phẩm kinh doanh, một hình thức tín dụng bằng tài sản thực (nhà ở, văn phòng làm
việc, máy móc- thiết bị). Vì vậy, hoạt động tín dụng của NHTM ngày nay bao gồm các
nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho th tài chính, bao thanh tốn, bão lãnh ngân hàng và
Khoản 16, Điều 4, Luật Các tổ chức tín dụng 2010
Khoản 19, Khỏa 4, Luật Các tổ chức tín dụng 2010
11
Khái niệm này được khái quát từ Điều 1, Nghị định 16/2001/NĐ-CP về tổ chức và hoạt
động của cơng ty th tài chính, ( được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 65/2005/NĐ-CP ngày
19/5/2005).
12
Khoản 17, Điều 4, Luật các tổ chức tín dụng 2010
13
Khoản 18, Điều 4, Luật Các tổ chức tín dụng 2010
9
10
SVTH: Đặng Thị Thanh Bình – Lớp 34K13
Trang 13
Khóa luận tốt nghiệp
một số nghiệp vụ khác. Tuy nhiên, trên thực tế, tín dụng ngân hàng nhiều khi được hiều
với nghĩa hẹp hơn là cho vay có lẽ bởi cho vay là một nội dung lớn của những quan hệ tín
dụng mà ngân hàng tham gia. Dó đó, việc phân loại hoạt động tín dụng chủ yếu dựa trên
cho vay.
1.2.2.2 Phân loại hoạt động tín dụng ngân hàng.
Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động tín dụng rất đa dạng và phong phú. Tùy theo
tiêu thức phân loại mà tín dụng được chia thành nhiều loại khác nhau như sau:
Phân loại theo thời hạn tín dụng14
Căn cứ vào thời hạn tín dụng, tín dụng được chia ra ba loại: tín dụng ngắn hạn, tín
dụng trung hạn và tín dụng dài hạn.
-Tín dụng ngắn hạn: loại tín dụng này có thời hạn dưới mười hai tháng và được sử
dụng để bù đắp thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp và các nhu cầu chi tiêu ngắn
hạn của cá nhân.
-Tín dụng trung hạn: loại tín dụng này có thời hạn từ 1-5 năm, được cung cấp để đầu tư mua sắm
tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị, công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh..
-Tín dụng dài hạn: là loại cho vay có thời hạn trên 5 năm. Đây là loại tín dụng được cung
ứng để đáp ứng các nhu cầu dài hạn như xây dựng nhà ở, các thiết bị, phương tiện vận tải
có quy mơ lớn.
Phân loại theo mục đích sử dụng vốn
Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn, tín dụng được chia làm hai loại: tín dụng đầu tư
và tín dụng tiêu dùng.
-Tín dụng đầu tư: là hình thức cấp phát tín dụng đối với các doanh nghiệp và cá thể
khác để tiến hành đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh.
-Tín dụng tiêu dùng: Là hình thức cấp phát tín dụng cho cá nhân để đáp ứng nhu cầu
tiêu dùng như mua sắm nhà cửa, xe cộ, các hàng hoá dùng lâu dài và cả những nhu cầu
hàng ngày. Tín dụng tiêu dùng có thể được cấp phát dưới hình thức bằng tiền hoặc dưới
hình thức bán chịu hàng hố.
Phân loại theo mức độ tín nhiệm đối với khách hàng
Theo căn cứ này, tín dụng được chia làm hai loại:
Điều 8, Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 về quy chế cho vay của tổ
chức tín dụng đối với khách hàng.
14
SVTH: Đặng Thị Thanh Bình – Lớp 34K13
Trang 14
Khóa luận tốt nghiệp
-Tín dụng có bảo đảm: là loại tín dụng được ngân hàng cung ứng nhưng phải có tài
sản thế chấp, cầm cố, hoặc phải có sự bảo lãnh của bên thứ ba.
-Tín dụng khơng bảo đảm: lào loại tín dụng chỉ dựa vào uy tín của khách hàng. Đối
với những khách hàng tốt, trung thực trong kinh doanh, có khả năng tài chính lành mạnh,
quản trị có hiệu quả thì ngân hàng có thể cấp tín dụng dựa vào uy tín bản thân khách hàng
mà khơng cần một nguồn thu nợ bổ sung.
1.2.2.3 Vai trò của hoạt động tín dụng trong nền kinh tế thị trường.
Nếu như huy động vốn là hoạt động tập trung vốn nhàn rỗi từ các chủ thể dư thừa
trong xã hội thì hoạt động tín dụng lại chuyển giao vốn cho những người có nhu cầu sử
dụng trong xã hội. Với vai trò trung gian, NHTM là kênh chuyển vốn từ những người thừa
vốn đến những người thiếu vốn một cách hiệu quả nhất. Chính vì vậy, hoạt động tín dụng
của các tổ chức tín dụng, đặc biệt là của các NHTM thực sự là đòn bẩy quan trọng để phát
triển nền kinh tế thị trường ngày nay. Vai trị của tín dụng ngân hàng được thể hiện cụ thể
các khía cạnh sau:
Thứ nhất, tín dụng ngân hàng góp phần thúc đẩy quá trình tái sản xuất, mở rộng nền
kinh tế.
Muốn đầu tư mở rộng quy mô sản xuất, kinh doanh, tăng cường cơ sở vật chất kỹ
thuật, nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường các nhà sản xuất kinh doanh cần phải có
vốn và khơng ai khác, ngân hàng chính là chủ thể tạo ra nguồn vốn đó thong qua hoạt động
tín dụng của mình. Nhờ vào nguồn vốn tín dụng mà các doanh nghiệp mới thường xun có
đủ vốn thực hiện liên tục quá trình sản xuất mở rộng, thúc đẩy việc tiêu thụ sản phẩm xã hội,
tạo ra mối quan hệ chặt chẽ giữa sản xuất, lưu thơng hóa hóa và tiêu dùng xã hội. Như vậy,
tín dụng đã góp phần động viên vật tư hàng hóa vào sản xuất, thúc đẩy tiến bộ khoa học kĩ
thuật, đẩy nhanh quá trình tái sản xuất xã hội.
Thứ hai, tín dụng ngân hàng là một trong những cơng cụ để nhà nước điều tiết nền
kinh tế - xã hội và điều hịa lưu thơng tiền tệ.
Thơng qua định hướng đầu tư tín dụng với các chính sách nhất định, tín dụng ngân
hàng có tác dụng to lớn đến điều chỉnh cơ cấu kinh tế cho phù hợp với chính sách và định
hướng phát triển kinh tế xã hội của Nhà nước trong từng thời kỳ nhất định.
Mặt khác, nhờ vào sự tồn tại của các hoạt động tín dụng nên các khoản tiền nhàn rỗi
bằng nhiều hình thức đã được huy động để đầu tư cho nền kinh tế, phục vụ cho các nhu cầu
SVTH: Đặng Thị Thanh Bình – Lớp 34K13
Trang 15
Khóa luận tốt nghiệp
khác của xã hội và dân cư. Sự gặp nhau giữa cung và cầu đã được thực hiện trên thị trường
vốn. Thông qua thị trường này, những nơi đang có vốn tiền tạm thời thừa được điều chuyển
đến những nơi cần bổ sung về vốn nhờ vào hoạt động tín dụng của các ngân hàng và các tổ
chức tài chính trung gian. Việc điều hịa vốn của tín dụng trong nền kinh tế khơng chỉ là giải
quyết mối quan hệ cung cầu về vốn trong nền kinh tế mà còn tạo điều kiện để rộng phạm vi
thanh tốn khơng dùng tiền mặt, tiết kiệm chi phí lưu thơng xã hội của tín dụng, góp phần
vào việc điều hịa và ổn định lưu thơng tiền tệ.
Thứ ba, tín dụng ngân hàng góp phần thúc đẩy, mở rộng các quan hệ quốc tế.
Trong nền kinh tế thị trường, các quan hệ trao đổi quốc tế không ngừng được mở
rộng, thị trường trong nước không thể tách rời khỏi thị trường thế giới. Vì vậy các quan hệ
tín dụng quốc tế cũng không ngừng phát triển, tạo điều kiện cho các hoạt động sản xuất
kinh doanh trong nước được mở rộng nhờ tranh thủ các nguồn tài chính bên ngồi. Mặt
khác, nhờ vào các hoạt động của tổ chức tín dụng mà vốn cịn được đầu tư ra nước ngồi,
mở rộng các quan hệ hợp tác quốc tế. Tín dụng ngân hàng có một vai trị rất lớn khơng chỉ
đối với ngân hàng mà còn đối với xã hội. Xã hội càng phát triển thì các hoạt động tín dụng
của ngân hàng càng cần thiết.
2. Những lý luận về thế chấp tài sản bảo đảm thực hiện các hoạt
động tín dụng của Ngân hàng Thương mại.
2.1 Khái niệm và đặc trưng của các biện pháp bảo đảm hoạt động tín dụng.
Trong tất cả các hoạt động của NHTM và các định chế tài chính trung gian khác, có
thể khẳng định rằng, tín dụng là hoạt động mang lại nhiều lợi nhuận nhất cho ngân hàng,
song đây cũng là hoạt động có thể mang lại nhiều rủi ro nhất. Có thể nói, tín dụng ln đi
kèm với rủi ro và rủi ro là một đặc trưng cơ bản của hoạt động tín dụng. Rủi ro trong hoạt
động tín dụng là tình trạng người đi vay, người sử dụng vốn tín dụng khơng có khả năng
hồn trả được hoặc là gốc hoặc lãi hoặc cả gốc và lãi đúng hạn, đầy đủ như đã thỏa thuận.
Rủi ro ngân hàng nói chung và rủi ro tín dụng nói riêng ln ở dạng tiềm ẩn và có thể xảy
ra bất cứ lúc nào, có ảnh hường lớn thậm chí có khả năng làm đảo lộn kết quả hoạt động
kinh doanh của một ngân hàng. Vì vậy, việc nhận biết rủi ro, có biện pháp khắc phục và
SVTH: Đặng Thị Thanh Bình – Lớp 34K13
Trang 16
Khóa luận tốt nghiệp
ngăn chặn chúng ngay từ đầu là một cách làm khôn ngoan và chủ động mà các tổ chức
hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng thông nên thực hiện các biện pháp bảo đảm tín dụng
thơng qua việc áp dụng các quy định pháp luật về các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa
vụ dân sự.
Như vậy, trong hoạt động tín dụng của tổ chức tín dụng, biện pháp bảo đảm bằng tài
sản đóng vai trị rất quan trọng trong việc đảm bảo khả năng thu hồi vốn. Cụ thể, nếu
trường hợp bên đi vay, bên sử dụng vốn khơng có khả năng trả nợ khi đến hạn thì tổ chức
tín dụng có thể xử lý tài sản để đảm bảo thu hồi nợ.
Vậy, bảo đảm tín dụng hay còn gọi là bảo đảm tiền vay bằng tằng sản là việc tổ chức
tín dụng và khách hàng vay thỏa thuận về việc dùng tài sản của khách hàng hoặc tài sản
của người thứ ba để đảm bảo cho khả năng trả nợ của khách hàng vay, theo đó nếu khách
hàng vay khơng thực hiện hay thực hiện không đúng nghĩa vụ trả nợ, tài sản bảo đảm sẽ
được xử lý để tổ chức tín dụng thu hồi nợ.15
Như vậy, các biện pháp bảo đảm tín dụng sẽ nâng cao ý thức thực hiện nghĩa vụ đúng
và đầy đủ của bên có nghĩa vụ - bên vay vốn. Mặt khác, các biện pháp này cũng giúp cho
bên có quyền - các NHTM luôn ở thế chủ động trong việc bảo vệ lợi ích của mình trong
các giao dịch đã ký kết. Trong trường hợp có sự tranh chấp, đối kháng về lợi ích giữa bên
nhận bảo đảm – các NHTM với các chủ thể khác- bên vay vốn, các biện pháp bảo đảm tín
dụng sẽ là cơ sở vững chắc để bảo vệ lợi ích của bên nhận bảo đảm- các NHTM. Việc áp
dụng các biện pháp bảo đảm tín dụng đảm bảo lợi ích của các TCTD - NHTM, lợi ích
người gửi tiền và lợi ích của xã hội.
Các đặc trưng của các biện pháp bảo đảm tín dụng:
Nói chung bất kỳ tài sản hoặc quyền về tài sản được phép giao dịch mà có khả năng
tạo ra lưu chuyển tiền tệ đều có thể dùng làm bảo đảm. Tuy nhiên từ gốc độ của người cho
vay bảo đảm tín dụng phải thể hiện các đặc trưng sau:
Giá trị bảo đảm thường phải lớn hơn nghĩa vụ được bảo đảm.
Nghĩa vụ tđược bảo đảm bao gồm cả vốn, lãi ( kể cả lãi qua hạn) và các chi phí khác
trừ trường hợp các bên có thỏa thuận lãi và các loại phí khác khơng thuộc phạm vi bảo
đảm thực hiện nghĩa vụ.
Trần Vũ Hải (2010), Giáo trình Luật Ngân hàng Việt Nam, Nhà xuất bản Giáo dục Việt
Nam, Hà Nội, tr.120
15
SVTH: Đặng Thị Thanh Bình – Lớp 34K13
Trang 17
Khóa luận tốt nghiệp
Bảo đảm tín dụng khơng chỉ là nguồn thu nợ của ngân hàng mà cịn có ý nghĩa thúc
giục người đi vay trả nợ, nếu không họ sẽ mất tài sản. Nhưng, nếu giá trị của tài sản nhỏ
hơn nghĩa vụ được đảm bảo thì người đi vay dễ có động cơ khơng trả nợ. Mặt khác, bảo
đảm tín dụng phải lớn hơn nghĩa vụ tín dụng nhằm đảm bảo khả năng thu hồi nợ của khách
hàng khi giá trị thị trường của tài sản đảm bảo suy giảm, khả năng thanh khoản của tài sản
không cao.
Tài sản phải có sẵn thị trường tiêu thụ.
Mức độ thanh khoản của tài sản có quan hệ đến lợi ích của người cho vay. Các NHTM
thường ưa thích những tài sản có tính thanh khoản cao tức dễ bán ra trên thị trường như
các loại giấy tờ có giá: trái phiếu, tín phiếu kho bạc, sổ tiết kiệm,.. Đối với những tài sản có
tính thanh khoản khơng cao ngân hàng phải tính đến các chi phí phải gánh chịu trong q
trình thanh lý tài sản nên ít khi được ngân hàng chấp nhận.
Có đầy đủ cơ sở pháp lý để người cho vay có quyền ưu tiên về xử lý tài sản.
Đặc trưng này phải thể hiện được các mặt sau: tài sản phải thuộc sở hữu hợp pháp của
người đi vay hoặc người bảo lãnh và được pháp luật cho phép giao dịch, đồng thời phải có
đủ các cơ sở pháp lý để ngân hàng – chủ thể cho vay được quyền ưu tiên xử lý tài sản
nhằm thu nợ khi người đi vay khơng thanh tốn đúng hạn.
2.2 Khái niệm và đặc điểm pháp lý, bản chất của biện pháp bảo đảm bằng thế chấp
tài sản trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại.
2.2.1 Khái niệm
Để đảm bảo thực hiện các hoạt động tín dụng, các biện pháp bảo đảm phổ biến hiện nay
được hầu hết các NHTM lựa chọn áp dụng bao gồm: cầm cố tài sản của bên vay, thế chấp tài
sản của bên vay và bảo lãnh bằng tài sản của bên thế ba. Trong đó, biện pháp bảo đảm tín
dụng được áp dụng nhiều nhất và tối ưu hơn cả là biệp pháp thế chấp tài sản bao gồm tài sản
của chính người đi vay và tài sản của bên bảo lãnh thứ ba.
Vậy, thế chấp là gì mà được tơn vinh là “nữ hồng” của các biện biện pháp bảo đảm.
Điều 342, BLDS 2005 quy định: “ Thế chấp tài sản là việc một bên (sau đây gọi là
bên thế chấp) dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự
đối với bên kia (sau đây gọi là bên nhận thế chấp) và khơng chuyển giao tài sản đó cho
bên nhận thế chấp”. Khái niệm này cho thấy biện pháp thế chấp vừa bảo đảm lợi ích của
bên có quyền vừa duy trì được hoạt động sản xuất kinh doanh của bên có nghĩa vụ. Nếu
SVTH: Đặng Thị Thanh Bình – Lớp 34K13
Trang 18
Khóa luận tốt nghiệp
như trong biện pháp cầm cố tài sản16, bên có nghĩa vụ phải giao tài sản cho bên có quyền
thì trong quan hệ thế chấp bên bảo đảm chỉ dùng tài sản để bảo đảm mà không chuyển
giao tài sản đó cho bên có quyền. Dùng tài sản để đảm bảo mà không phải chuyển giao tài
sản mà lợi ích của các bên trong quan hệ vẫn đạt được là một cách giải quyết tuyệt vời,
hữu hiệu mà chỉ có ở biện pháp thế chấp. Điều đó giải thích tại sao thế chấp được lựa chọn
làm biện pháp bảo đảm trong hầu hết các giao dịch dân sự, đặc biệt là trong các quan hệ tín
dụng.
Vậy, thế chấp tài sản để bảo đảm thực hiện hoạt động tín dụng ngân hàng là việc bên có nghĩa
vụ (bên vay vốn) dùng tài sản thuộc quyền sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ
(bao gồm nợ gốc, lãi và tiền phạt lãi quá hạn) đối với bên có quyền ( bên cho vay – các NHTM) và
khơng chuyển giao tài sản đó cho bên có quyền.
2.2.2 Đặc điểm pháp lý của biện pháp thế chấp.
Biện pháp bảo đảm bằng thế chấp tài sản có các những đặc điểm pháp lý riêng so với
các biện pháp bảo đảm khác như sau:
Thứ nhất, khơng có sự chuyển giao tài sản thế chấp.
Đây là một đặc trưng riêng biệt của biện pháp thế chấp. Trong quan hệ thế chấp, bên thế
chấp không phải chuyển giao tài sản bảo đảm cho bên nhận thế chấp mà vẫn được trực tiếp
nắm giữ tài sản đó. Tính chất bảo đảm được xác định bằng việc bên thế chấp sẽ phải giao
cho bên nhận thế chấp những giấy tờ chứng minh tình trạng pháp lý của tài sản thế chấp như
giấy đăng ký quyền sở hữu tài sản ( như ô tô, xe máy, máy bay, tàu biển..), giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, hay các giấy tờ khác như hợp đồng mua bán hàng hóa, hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất…Như vậy, khác với biện pháp cầm cố, trong quan hệ thế chấp
các bên giảm thiểu được những thủ tục, công việc liên quan đến trực tiếp đến việc chuyển
giao tài sản từ chủ thể này sang chủ thể khác.
Sự không chuyển giao tài sản không hề ảnh hưởng tới quyền lợi của bên nhận thế chấp
hay nói cách khác quyền định đoạt đối với tài sản thế chấp của bên nhận thế chấp không bị
mất hay giảm sút từ việc không trực tiếp nắm giữ tài sản thế chấp. Bên thế chấp là người
trực tiếp nắm giữ tài sản thế chấp, mặc dù vậy vẫn không thể định đoạt tài sản thế chấp do
Điều 326, BLDS 2005 quy định “ Cầm cố tài sản là việc một bên (sau đây gọi là bên cầm
cố) giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận cầm cố)
để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự”.
16
SVTH: Đặng Thị Thanh Bình – Lớp 34K13
Trang 19
Khóa luận tốt nghiệp
giấy tờ pháp lý liên quan đến tài sản- cái quyết định một giao dịch được thực hiện do bên
nhận thế chấp giữ.
Thứ hai, biện pháp thế chấp đáp ứng linh hoạt lợi ích của các bên chủ thể.
Đối với bên nhận thế chấp: bên nhận thế chấp khơng phải giữ gìn và bảo quản tài sản
bảo đảm trong thời hạn thế chấp do vậy họ không phải chịu những chi phí về việc thuê kho
bến bãi, người trong coi hay các biện pháp bảo quản thích hợp cũng như không phải chịu
trách nhiệm bồi thường thiệt hại nếu như không may làm hỏng, mất mát tài sản thể chấp. Đối
với bên thế chấp: biện pháp thế chấp giúp bên thế chấp vẫn được tiếp tục sử dụng, khai thác
công dụng của tài sản thế chấp để tìm kiếm lợi nhuận, đồng thời vẫn được sử dụng tài sản
vay - vốn vay từ bên nhận thế chấp-các NHTM chuyển cho.
Tuy nhiên, xét một cách toàn diện biện pháp thế chấp vẫn chưa cân bằng được lợi ích
cho cả hai bên, cũng như so với cầm cố biện pháp thế chấp mang lại nhiều rủi ro hơncho
bên có quyền. Cụ thể, bên nhận thế chấp vẫn phải chịu rủi ro nhiều hơn so với bên thế
chấp. Thứ nhất, đó là việc xác định tính xác thực của giấy tờ thế chấp. Thực tế đã chứng
minh có nhiều vấn đề bất cập xoay quanh vấn đề giấy tờ thế chấp như trường hợp: Một tài
sản thế chấp nhưng lại được lập nhiều hồ sơ khác nhau để xin vay tiền của các ngân hàng
khác nhau. Với sự phát triển của khoa học kỷ thuật ngày nay thì việc làm giả các giấy tờ
như giấy đăng ký ô tô, xe máy, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất diễn ra ngày càng phổ
biến và tinh vi đến nổi không thẩm tra tài sản cụ thể trên thực tế thì bên nhận thế chấp rất
khó phát hiện ra. Thứ hai, việc giữ gìn giá trị tài sản thế chấp lại thuộc về bên có nghĩa vụ
và họ có quyền khai thác, sử dụng tài sản thế chấp nếu khơng có thỏa thuận khác. Như vậy,
rất dễ xảy ra hiện tượng bên thế chấp tìm cách bán tài sản thế chấp cho người khác trong
thời gian thế chấp mà bên nhận thế chấp không biết được hay bên thế chấp lạm quyền khai
thác tài sản thế chấp dẫn đến tài sản bị hư hỏng, giảm sút giá trị…Tất cả đều dẫn đến khả
năng không bảo đảm được quyền của bên nhận thế chấp.
Thứ ba, tài sản thế chấp thường có sự thay đổi trong thời hạn thế chấp và dẫn đến
việc xung đột về lợi ích giữa bên nhận thế chấp với những người khác có liên quan đến tài
sản thế chấp.
Sự thay đổi này có thể là sự thay đổi về chủ thể như: bên thế chấp cho thuê tài sản thế
chấp, bên thế chấp bán tài sản thế chấp là hàng hóa ln chuyển trong q trình sản xuất
kinh doanh, cũng có thể là sự thay đổi về giá trị như tài sản thế chấp được mua bảo hiểm
SVTH: Đặng Thị Thanh Bình – Lớp 34K13
Trang 20
Khóa luận tốt nghiệp
và sự kiện bảo hiểm đã xảy ra, hoặc là sự thay đổi về trạng thái như tài sản thế chấp là tài
sản được hình thành trong tương lai, tài sản thế chấp được đầu tư thêm để làm tăng thêm
giá trị.
2.2.3 Bản chất của biện pháp bảo đảm bằng thế chấp tài sản để thực hiện các hoạt động
tín dụng của Ngân hàng thương mại.
Mặc dù các biện pháp bảo đảm tín dụng đặc biệt là thế chấp có ý nghĩa rất lớn trong
hạn chế rủi ro tín dụng, tuy nhiên nếu quá chú trọng đến yếu tố này thì sẽ dẫn đến những
hậu quả xấu đó là: làm mất khách hàng, dẫn đến các hạn chế đối với các khoản tín dụng
tốt. Vì vậy, khi thực hiện các biện pháp bảo đảm tín dụng nói chung và biện pháp bảo đảm
bằng thế chấp tài sản nói riêng, các NHTM cần thiết phải hiểu rõ bản chất của thế chấp để
áp dụng đúng đắn vào các hoạt động tín dụng của mình, cụ thể ngân hàng cần phải lưu ý
những vấn đề sau:
Thứ nhất, thế chấp tài sản là biện pháp mang tính phịng ngừa rủi ro, chỉ áp dụng khi
có hành vi vi phạm nghĩa vụ xảy ra, chứ không phải là điều kiện tiên quyết mà bên cho vay
dựa vào đó để quyết định cho vay. Việc cho vay của NHTM phải dựa vào việc xem xét,
đánh giá tính khả thi, hiệu quả của dự án đầu tư, phương án sản xuất kinh doanh, dịch vụ
hoặc dự án đầu tư, phương án phục vụ đời sống và khả năng hoàn trả nợ vay của khách
hàng vay để quyết định cho vay. Rất tiếc, trong thời gian qua một số các NHTM đặt ý
nghĩa của thế chấp tài sản bảo đảm tín dụng khơng đúng chỗ, coi biện pháp thế chấp là cơ
sở quyết định duy nhất để cho vay, trong khi đó lại khơng chú ý đúng mức đến phân tích
các yếu tố khác của người vay. Điều đó xảy ra khơng những làm mất khách hàng mà còn
làm giảm đáng kể chất lượng tín dụng. Như vậy, thế chấp tài sản chỉ là biện pháp phịng vệ
chứ khơng phải là biện pháp duy nhất trong khi đưa ra các quyết định tín dụng.
Thứ hai, tài sản bảo đảm không thay thế được khoản nợ của bên vay, mà chỉ là biện
pháp phòng ngừa trong trường hợp bên vay không thực hiện hoặc thực hiện khơng đúng
nghĩa vụ trả nợ theo hợp đồng tín dụng ngân hàng. Tài sản bảo đảm chỉ được xử lý khi bên
đi vay không trả được nợ vay khi đến hạn nếu khơng có thỏa thuận khác. Trong trường hợp
tài sản bảo đảm được xử lý để thu hồi nợ mà khơng đủ để trả nợ thì bên đi vay vẫn phải
tiếp tục thực hiện nghĩa vụ trả số nợ cịn lại của mình đối với bên cho vay.
Thứ ba, giá trị của tài sản bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của bên thế chấp được xác định
tại thời điểm giao kết giao dịch bảo đảm làm cơ sở để NHTM quyết định cho vay, quyết
SVTH: Đặng Thị Thanh Bình – Lớp 34K13
Trang 21