Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

MỘT SỐ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ VAI TRÒ CỦA NGUỒN VỐN NGUỒN VỐN TÍN DỤNG TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (185.43 KB, 29 trang )

MỘT SỐ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
VÀ VAI TRỊ CỦA NGUỒN VỐN NGUỒN VỐN TÍN DỤNG
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1.1. VỊ TRÍ CỦA NƠNG NGHIỆP, NƠNG THÔN TRONG NỀN KINH TẾ:

Đối với nước ta, trước mắt cũng như về lâu dài, nông nghiệp và kinh tế nông
thôn luôn là một nghành kinh tế quan trọng. Đảng và Nhà Nước ta luôn quan tâm
sâu sắc đến nông nghiệp, nông thôn và nông dân. Sự phát triển của nơng nghiệp và
nơng thơn có ý nghĩa hết sức quan trọng trong cả kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội
của Quốc Gia; xuất phát từ các đặc trưng cơ bản sau:
Về mặt kinh tế: về cơ bản nước ta vẫn là một nước nơng nghiệp lac hậu.
Nơng nghiệp nói chung vẫn chiếm 30 – 40% tổng thu nhập quốc dân (GDP). Vì
vậy nếu khơng nâng cao năng suất, hiệu quả nơng nghiệp, khơng có nền sản xuất
nơng nghiệp và kinh tế nơng thơn phát triển ổn định thì nền kinh tế sẻ không tăng
trưởng nhanh và bền vững được.
Về mặt chính trị xã hội: Địa bàn nơng thơn Việt Nam rộng lớn, trước
hết đây là nơi tập trung hơn 70% và trên 60% lực lượng lao động xã hội lấy nghề
nơng nghiệp làm nguồn gốc chính. Vì vậy, phát triển mạnh mẽ nông nghiệp và
nông thôn là biện pháp hữu hiệu nhất đảm bảo việc làm, tăng thu nhập cho nơng
dân, thực hiện chủ trương xóa đói giảm nghèo.
Để thúc đẩy mở rộng sản xuất thì nhu cầu về nguồn lực cho sản xuất là rất
lớn, nguồn vốn cung ứng hiệu quả, lao động có chất lượng, quản lý tốt…. Trong
các nguồn lực đó thì nguồn lực về vốn sản xuất khơng phải lúc nào cũng chiếm vai
trị qua trọng nhất.
Ngân hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn Việt Nam là một ngân
hàng nằm trong hệ thống các ngân hàng thương mại ở Việt Nam. Ngân hàng thực
hiện chức năng huy động và sử dụng nguồn vốn có hiệu quả cho phát triển nông


nghiệp, nông thôn. Ngân hàng là đơn vị cung ứng nguồn lực tài chính chủ yếu cho
các hộ nơng dân.


1.2 NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG
MẠI TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG

1.2.1Khái niệm, lịch sử hình thành và phát triển của ngân hàng thương mại
Ngân hàng đầu tiên đã xuất hiện từ khi nào? Các nhà sử học và ngôn ngữ học
đã đưa ra một câu truyện hấp dẫn về nguồn gốc ngân hàng.Cả tiếng Pháp cổ banque
và tiếng ý banca đã sử dụng từ nhiều thế kỷ trước để chỉ “cái ghế dài” hay “bàn của
người đổi tiền”. Điều đó mơ tả khá rõ những gì mà giới sử học đã quan sát về
những ngân hàng đầu tiên xuất hiện từ hơn 2000 năm trước đây. Họ là những người
đổi tiền, thường ngồi ở bàn hoặc một cửa hiệu nhỏ trong trung tâm thương mại,
Giúp khách du lịch đến thành phố đổi ngoại tệ lấy bản tệ và chiết khấu thương
phiếu giúp các nhà bn có vốn kinh doanh.
Các ngân hàng đầu tiên có thể đã dùng vốn tự có để tài trợ cho hoạt động của
họ, nhưng điều đó khơng kéo dài trước khi ý tưởng về việc thu hút tiền gửi và cho
vay ngắn hạn đối với những khách hàng giàu có trở thành nội dung quan trọng của
hoạt động ngân hàng. Các khoản cho vay được cấp cho các nhà buôn, chủ tàu, lãnh
chúa với lãi suất thấp khoảng 6% năm và khoảng 48% tháng cho những dự án mạo
hiểm nhất. Hầu hết các ngân hàng đầu tiên xuất hiện ở Hi Lạp (nguồng từ mạng
internet).
Công nghiệp ngân hàng đã dần dần lan rộng từ nền văn minh cổ đại Hi Lạp và
La Mã sang văn minh Bắc Âu và Tây Âu. Hoạt động của ngân hàng đã gặp phải
những chống đối của tôn giáo trong suốt thời Trung Cổ, chủ yếu là các khoản cho
vay đối với người nghèo thường có lãi suất cao. Tuy vậy, Khi thời kì Trung cổ đi
qua, thời kì Phục Hưng bắt đầu ở Châu Âu, các khoản cho vay và tiền gửi phần lớn
liên quan đến những người tương đối giàu có đã làm giảm sự chống đối của tôn


giáo đối với hoạt động ngân hàng. Sự phát triển của những con đường thương mại
lục địa mới và những biến chuyển trong ngành hàng hải vào các thế kỷ 15, 16, 17
đã dần chuyển trung tâm thương mại của thế giới từ Địa Trung Hải sang Châu Âu

và quần đảo Anh, nơi ngân hàng trở thành công nghiệp hàng đầu. Chính giai đoạn
này đã gieo mầm cho cuộc cách mạng công nghiệp với yêu cầu về một hệ thống tài
chính phát triển . Cụ thể, việc ứng dụng phương thức sản xuất lớn đòi hỏi sự mở
rộng tương ứng trong thương mại toàn cầu, để tiêu thụ các sản phẩm cơng nghiệp
địi hỏi phải phát triển các phương thức thanh tốn và tín dụng mới. Hệ thống ngân
hàng đã nhanh chóng phát triển thêm nhiều nghiệp vụ để đáp ứng nhu cầu ngày
càng cao. Trong số các ngân hàng đứng đầu phải kể tới ngân hàng Medici ở Italia
và ngân hàng Hochsteteck ở Đức.
Những nghiệp vụ đầu tiên mà các ngân hàng Châu Âu thực hiện là lưu giữ bảo
quản các vật có giá như tái sản bằng vàng, bạc bởi vì trong giai đoạn này dân chúng
rất lo ngại về tình trạng mất mát tài sản do an ninh hoặc do chiến tranh. Những nhà
buôn thường cảm thấy an toàn hơn khi để tài sản của họ tại ngân hàng hơn là mang
theo bên mình trong những chuyến đi biển. Ở Anh thời kì vua Henry III và Charles
I chính phủ thực hiện chính sách tịch thu các tài sản bằng vàng, bạc và kết quả là
công chúng tiến hành gửi tài sản của họ tại các cửa hàng thợ vàng và được chứng
nhận bằng các chứng chỉ của cửa hàng. Sau đó, các chứng chỉ này được lưu thơng
như tiền bởi vì sử dụng chứng chỉ trong thực tế thuận tiện hơn và ít rủi ro hơn việc
sử dụng vàng trực tiếp. Khách hàng thường mang tài sản bằng vàng bạc, đồ trang
sức tới các chuyên gia để xác nhận giá trị của nó, chứng minh nó không phải là đồ
giả - một nghiệp vụ mà ngày nay các ngân hàng vẫn thực hiện. Khi các thuộc địa
được thiết lập ở Bắc Mỹ và Nam Mỹ, hoạt động ngân hàng ở Châu Âu được
chuyển sang Châu Mỹ. Đầu tiên những người đi giao dịch chủ yếu với các ngân
hàng có trụ sở chính tại nước của họ. Sang thế kỷ 19, chính quyền bang ở Hoa kỳ


bắt đầu cho phép thành lập các công ty ngân hàng. Rất nhiều các công ty như vậy
ban đầu chỉ là một bộ phận của các doanh nghiệp thương mại mà trong đó dịch vụ
ngân hàng hồn tồn là thứ yếu so với dịch vụ bán hàng. Sự phát triển của tổ chức
ngân hàng lớn chuyên nghiệp tập trung ở một và trung tâm thương mại hàng đầu,
đặc biệt là NewYork đã tạo điều kiện cho ngành công nghiệp phát triển một cách

nhanh chóng. (nguồn từ internet)
Khi nghiên cứu về ngân hàng thương mại, các nhà kinh tế học đều thống nhất
với nhau về vị trí, chức năng của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế. Nhưng
khi định nghĩa thế nào là ngân hàng thương mại thì họ lại không thống nhất. Ở Mỹ
nếu đứng trên quản lý pháp luật “Ngân hàng được định nghĩa như một công ty là
thành viên của công ty bảo hiểm tiền gửi liên bang”, còn đứng trên giác độ chức
năng hoạt động của ngân hàng trong nền kinh tế thì “ngân hàng thương mại là loại
hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ đa dạng nhất -đặc biệt là
tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh tốn, thực hiện các chức năng tài chính đa dạng
nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế”. Sở dĩ có tình
trạng này là do hoạt động của ngân hàng thương mại đa dạng, các thao tác trong
từng nghiệp vụ của ngân hàng lại rất phức tạp và các vấn đề này luôn luôn biến
động theo sự biến động chung của nền kinh tế .Mặt khác do phong tục tập quán và
luật pháp của mỗi quốc gia, mỗi vùng khác nhau đã dẫn đến quan niệm không đồng
nhất về ngân hàng thương mại. (Nguồn từ mạng Internet).
Theo luật các tổ chức tín dụng 1997 của Việt Nam: “Ngân hàng là loại hình tổ
chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh
doanh khác có liên quan”
Từ những cách hiểu trên khái niệm ngân hàng có thể được khái quát như sau:
Đó là một tổ chức kinh tế kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, tín dụng mà hoạt động
chủ yếu và thường xuyên nhất của nó là nhận tiền gửi của khách hàng với trách


nhiệm hồn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, đầu tư, chiết khấu và thực hiện
một số dịch vụ khác.
1.2.2 Vai trò của ngân hàng trong nền kinh tế
Trong khi nhiều người tin rằng các ngân hàng chỉ đóng vai trị rất nhỏ trong
nền kinh tế (nhận tiền gửi và cho vay) thì trên thực tế ngân hàng hiện phải thực
hiện nhiều vai trò mới để duy trì khả năng cạnh trang và đáp ứng địi hỏi ngày càng
cao của xã hội. Các ngân hàng ngày nay có những vai trị cơ bản như sau:

Vai trị trung gian thanh toán: Ngân hàng làm trung gian thanh toán khi nó
thực hiện thanh tốn theo u cầu của khách hàng như trích tiền gửi từ tài khoản
tiền gửi của họ để thanh tốn hàng hóa, dịch vụ hoặc nhập vào tài khoản tiền gửi
của khách hàng tiền thu bán hàng và các khoản thu khác theo lệnh của họ.
Vai trị trung gian tín dụng: Ngân hàng làm trung gian tín dụng khi nó là cầu
nối giữa người có vốn dư thừa và người có nhu cầu về vốn. Thơng qua các khoản
vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế, ngân hàng hình thành nên quỹ cho
vay của nó rồi đem cho vay đối với nền kinh tế.
Vai trò người bảo lãnh: Cam kết trả nợ cho khách hàng khi khách hàng mất
khả năng thanh toán chẳng hạn như phát hành thư tín dụng.
Vai trị đại lý: Thay mặt khách hàng quản lý và bảo vệ tài sản của họ, phát
hành hoặc chuộc lại chứng khoán (thường được thực hiện tại phòng ủy thác)
Vai trò thực hiện chính sách: Thực hiện các chính sách kinh tế của chính phủ
góp phần điều tiết sự tăng trưởng kinh tế và theo đuổi các mục tiêu xã hội khác.
Vai trò góp phần mở rộng và thu hút vốn đầu tư nước ngoài, dịch chuyển cơ
cấu kinh tế.
1.2.3 Các hoạt động cơ bản của một ngân hàng thương mại


1.2.3.1 Hoạt động tạo lập vốn
Muốn thực hiện các hoạt động kinh doanh của mình trước tiên các ngân hàng
phải có vốn. Nguồn vốn của ngân hàng rất đa dạng và phong phú có thể kể ra một
số nguồn như sau:
Nguồn tiền gửi: Bao gồm tiền gửi thanh toán (tiết kiệm khơng kỳ hạn), tiền
gửi có kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm. Tiền gửi tiết kiệm được chia thành thiền gửi tiết
kiệm có kỳ hạn và tiền gửi khơng kỳ hạn. Đây là nguồn vốn chủ yếu của ngân hàng
theo đúng nghĩa của nó. Trong các loại tiền gửi thì tiền gửi thanh tốn là nguồn vốn
có chi phí thấp hơn cả, tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn càng dài thì chi phí càng cao,
tuy nhiên đây là nguồn vốn ổn định cần thiết để ngân hàng có thể mở rộng cho vay
trung và dài hạn .

Nguồn vốn đi vay: Có người cho rằng NHTM là một tổ chức “đi vay để cho
vay”, điều này rõ ràng không phản ánh chính xác nguồn gốc ra đời cũng như bản
chất hoạt động của NHTM. Ngân hàng chỉ đi vay khi có những tình huống phát
sinh đặc biệt như để đảm bảo khả năng thanh toán, để đảm bảo tỷ lệ dự trữ bắt buộc
theo quy định, để đáp ứng nhu cầu mở rộng tín dụng. Tuy nhiên, khơng thể phủ
nhận đây là nguồn vốn rất quan trọng của ngân hàng. Tùy vào trường hợp cụ thể
mà NHTM có thể vay của ngân NHTƯ, vay tổ chức tín dụng trong và ngoài nước
hay vay của dân cư, của tổ chức kinh tế thông qua việc phát hành kỳ phiếu hoặc trái
phiếu.
Vốn tự có và quỹ của ngân hàng: Chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn
song đây lại là bộ phận hết sức quan trọng. Nó là cơ sở để khởi động các hoạt động
của ngân hàng, đồng thời là tấm đệm giúp ngân hàng tránh khỏi nguy cơ khủng
hoảng, mất khả năng thanh toán.


Ngồi ra, các NHTM cịn có thể tận dụng các nguồn vốn khác như: Nguồn
vốn ủy thác của tổ chức tín dụng lớn, các tổ chức tín dụng nước ngồi, nguồn vốn
phát sinh trong q trình thanh tốn giữa các ngân hàng. Tuy nhiên các nguồn vốn
này thường không ổn định và khơng phải ngân hàng nào cũng có điều kiện sử dụng.
1.2.3.2 Hoạt động sử dụng vốn
Trên cơ sở nguồn vốn của mình, các ngân hàng sẽ tiến hành các hoạt động sử
dụng vốn để tìm kiếm lợi nhuận. Các hoạt động sử dụng vốn chủ yếu bao gồm:
Hoạt động ngân quỹ, hoạt động cho vay, hoạt động đầu tư.
Hoạt động ngân quỹ: Cũng như bất kỳ một doanh nghiệp nào khác, khả năng
thanh toán thường xuyên là một trong những yếu tố quan trọng quyết định sự tồn
tại hay sụp đổ của một ngân hàng. Khả năng thanh toán thường xuyên của một
ngân hàng được đảm bảo bởi các tài sản có tính lỏng cao như :Tiền mặt tại quỹ của
ngân hàng, tiền gửi tại ngân hàng Trung ương và các ngân hàng thương mại khác,
tiền đang trong quá trình thu. Số lượng càng nhiều thì khả năng thanh toán của
ngân hàng càng được đảm bảo. Tuy nhiên đây là những tài sản không sinh lời hoặc

sinh lời thấp nhất trong các tài sản của ngân hàng, việc giữ nhiều những tài sản này
sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của ngân hàng. Chính vì vậy các ngân hàng
cần phải tính tốn để duy trì các tài sản này ở mức hợp lý sao cho vừa đảm bảo khả
năng thanh toán thường xuyên vừa đạt mức lợi nhuận hợp lý.
Hoạt động tín dụng: Ngược lại với hoạt động ngân quỹ là hoạt động mang lại
ít thu nhập nhất cho ngân hàng, hoạt động cho vay là hoạt động chủ yếu và thường
xuyên nhất, mang lại lợi nhuận lớn nhất cho ngân hàng. Thực chất hoạt động cho
vay là việc thiết lập các quan hệ tín dụng giữa ngân hàng với khách hàng, chúng
đem lại cho ngân hàng những khoản thu nhập lớn trừ tiền lãi tiền vay, song cũng
đặt ngân hàng trước những nguy cơ rủi ro cao nhất. Chính vì vậy việc quả lý các
khoản mục cho vay luôn được các ngân hàng đặc biệt chú trọng .


Hoạt động đầu tư: Các NHTM thực hiện hoạt động đầu tư bằng cách tiến
hành mua bán các chứng khoán trên thị trường để tìm kiếm lợi nhuận thơng qua
chênh lệch giá. Đây cũng là cách thức để ngân hàng thực hiện phương châm đa
dạng hóa nghiệp vụ kinh doanh. Hơn nữa, các chứng khốn có độ an tồn và tính
lỏng cao cũng sẽ giúp đảm bảo khả năng thanh khoản của ngân hàng được tốt hơn.
1.2.4 CÁC KHÁI NIÊM CƠ BẢN VỀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG:

Để hiểu rõ hơn nhưng phần tích trong chuyên đề, ta đi vào làm rõ một số
khái niệm có cơ bản sau:
- Tín Dụng ngân hàng: Khó có thể đưa ra được một định nghĩa rõ ràng về
tín dụng. Vì vậy, tùy thuộc theo mức độ nghiên cứu mà chúng ta có thể xác định
nội dung thuật ngữ này.
Tín dụng(Credit) xuất phát từ chỗ Latin là credo (tin tưởng, tín nhiệm).
Trong thực tế cuộc sống thuật ngữ tín dụng được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau,
trên cơ sở tiếp cận theo chức năng hoạt động của ngân hàng thì tín dụng được hiểu
như sau:
Tín dụng là một giao dịch về tài sản(tiền hoặc hàng hóa) giữa bên cho vay

(ngân hàng và các định chế tài chính khác) và bên đi vay (cá nhân doanh nghiệp và
các chủ thể khác), trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng
trong một thời gian nhất định theo thỏa thuận, bên đi vay có trách nhiệm hồn trả
vơ điều kiện vốn gốc và lãi cho bên đi vay khi đến hạn thanh tốn.
Từ khái niệm trên, tín dụng là một giao dịch về tài sản trên cơ sở các đặc trưng sau:
-

Tài sản giao dịch trong quan hệ tín dụng ngân hàng bao gồm hai hình

thức là cho vay (bằng tiền), cho thuê (bất động sản và động sản).
-

Xuất phát từ nguyên tắc có hồn trả, vì vậy người cho vay khi chuyển

giao tài sản cho người đi vay sử dụng phải có cơ sở để tin rằng người đi vay
sẻ hồn trả đúng hạn. Đây là yếu tố hết sức cơ bản trong quản trị tín dụng.


-

Giá trị hồn trả thơng thường phải lớn hơn giá trị lúc cho vay, hay nói

cách khác là người vay phải trả thêm phần lãi ngoài vốn gốc (lãi được xem là
giá phải trả cho việc sử dụng lượng giá trị mà bên đi vay được chuyển giao
sử dụng trong một khoảng thời gian nhất định).
-

Trong quan hệ tín dụng ngân hàng, tiền vay được cấp trên cơ sở cam

kết hồn trả vơ điều kiện khi đến hạn thanh tốn đã thỏa thuận trong hợp

đồng tín dụng, khế ước vay tiền.
Các hình thức tín dụng: Việc nghiên cứu các hình thức tín dụng có thể
theo các tiêu thức phân loại về thời hạn và chủ thể tham gia quan hệ tín dụng. Cách
nghiên cứu này có thể giúp ta xem xét quan hệ tín dụng dưới những góc độ khác
nhau và có thể lý giải tại sao tín dụng có thể thỏa mản nhu cầu đa dạng của các chủ
thể thừa và thiếu vốn.
a) Căn cứ vào thời hạn tín dụng:
-

Tín dụng ngắn hạn: là các khoản cho vay khơng quá 12 tháng nhằm

đáp ứng các nhu cầu vốn ngắn hạn như bỗ sung ngân quỷ , đảm bảo yêu cầu
thanh toán ngắn hạn, bổ sung nhu cầu vốn lưu đọng hoặc đáp ứng nhu cầu
tiêu dùng cá nhân.
-

Tín dụng trung và dài hạn: có thời hạn vay trên 1 năm đến vài chục

năm. Nó thường đáp ứng nhu cầu phát triển tái sản xuất theo chiều rộng và
theo chiều sâu, kết quả là mức tăng sản xuất và của cải xã hội.
b) căn cứ và chủ thể tham gia quan hệ tín dụng:
- Tín dụng thương mại: là quan hệ tín dụng giữa các nhà doanh nghiệp
được biểu hiện dưới hình thức mua, bán chịu hàng hóa, trong đó người cho vay là
người bán chịu hàng hóa vì đã chuyển nhượng tạm thời quyền sử dụng lượng giá trị
hàng hóa bán chịu cho người mua. Đây là quan hệ tín dụng trực tiếp, thường xuyên


nảy sinh giửa các nhà doanh nghiệp, cơ sở pháp lý xác định mối quan hệ vay mượn
trong tín dụng thương mại là thương phiếu.
- Tín dụng ngân hàng: là quan hệ tín dụng giửa ngân hàng với các chủ thể

khác trong xã hội. Đây là mối quan hệ tín dụng gián tiếp, trong đó ngân hàng đóng
vai trị trung gian vừa là người đi vay, vừa là người cho vay. Khác với tín dụn trực
tiếp, nguồn vốn của tín dụng ngân hàng là nguồn huy động của xã hội với khối
lượng và thời hạn khác nhau, do đó có thể thỏa mản các nhu cầu vốn đa dạng về
khối lượng cũng như thời hạn và mục đích sử dụng. Có thể phân thành các loại tín
dụng ngân hàng sau:
*) Căn cứ vào mục đích:
- Cho vay bất động sản: là loại cho vay liên quan đế việc mua sắm và xây
dựng nhà ở, đất đai, bất động sản trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại, dịch vụ.
- Cho vay công nghiệp và thương mại: là loại vay ngắn hạn để bổ sung vốn
lưu động cho các thành phần kinh tế hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp, thương
mại và dịch vụ.
- Cho vay nông nghiệp: là loại cho vay để trang trải các chi phí sản xuất,
cơng lao động… liên quan đến q trình sản xuất nơng nghiệp.
- Cho vay tiêu dùng: là lọai cho vay để đáp ứng các nhu cầu mua sắm, tiêu
dùng và cho vay đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng trạm xá, điện, nước sạch, trường
học, giao thông nông thôn… phục vụ sản xuất, sinh hoạt trong một khu vực, cụm
dân cư.
- Cho vay các định chế tài chính: bao gồm cho vay các ngân hàng thương
mại, cơng ty tài chính, quỷ tín dụng và các định chế tài chính khác.

*) Căn cứ vào thời hạn cho vay:


- Cho vay ngắn hạn: là loại cho vay có thời hạn đến 12 tháng
- Cho vay trung hạn: là loại cho vay có thời hạn trên 12 tháng đến 5 năm.
- Cho vay dài hạn: là loại cho vay có thời hạn trên 5 năm.
*) Căn cứ vào mức độ tín nhiệm nơi khách hàng:
- Cho vay bảo đảm bàng tài sản: là loại cho vay dựa trên cơ sở các tài sản
bảo đảm thế chấp, cầm cố bằng tài sản của khách hàng; bảo lảnh thế chấp, cầm cố

tài sản của bên thứ ba; cho vay bảo đảm hình thành từ nguồn vốn vay.
- Cho vay khơng có bảo đảm bằng tài sản: do các tổ chức tín dụng chủ
động lựa chọn trên cơ sở các phương án vay vốn hiệu quả, khả thi và độ tín nhiệm,
uy tín trong qua hệ tín dụng của khách hàng; tổ chức tín dụng nhà nước cho vay
khơng có bảo đảm bằng tài sản theo chỉ định của chính phủ; cho vay cá nhân, hộ
gia đình nghèo có bảo lảnh tín chấp của các tổ chức đồn thể chính trị xã hội.
*) Căn cứ vào khả năng hoàn trả:
- Cho vay có thời hạn: là loại cho vay có thảo thuận hay các kỳ hạn trả nợ
cụ thể trên hợp đồng tín dụng.
- Cho vay khơng kỳ hạn: Ngân hàng có thể yêu cầu người vay vốn trả nợ
bất kỳ lúc nào nhưng phải báo trước một thời gian hợp lý, đã thỏa thuận trong hợp
đồng tín dụng.
*) Căn cứ và xuất xứ của tín dụng:
- Cho vay trực tiếp: Ngân hàng cấp vốn trực tiếp cho ngừơi có nhu cầu và
người vay trả nợ trực tiếp cho ngân hàng.
- Cho vay gián tiếp: Ngân hàng cung cấp vốn cho người có nhu cầu thơng
qua các tổ vay vốn, các doanh nghiệp cung ứng và bao tiêu sản phẩm cho hộ nông
dân trên cơ sở thỏa thuận trước giửa ba bên.


Ngồi ra ngân hàng cịn thực hiện các nghiệp vụ bảo lảnh cho khách hàng
bằng uy tín của mình. Đối với nghiệp vụ này, ngân hàng không phải cung cấp bằng
tiền, nhưng nếu khách hàng không thực hiện được nghĩa vụ theo hợp đồng thì ngân
hàng phải có nghĩa vụ thanh toán thay.
Bên cạnh các khái niệm về ngân hàng, tín dụng ngân hàng cịn có những khái
niệm cần lưu ý như hộ nơng dân, cơng nghiệp hóa hiện đại hóa, cơng nghiệp hóa
hiện đại hóa nơng nghiệp nơng thơn…
- Hộ gia đình: theo điều 116 khoản 1 bộ luật dân sự nước ta: - hộ gia đình là
một trong các chủ thể trong quan hệ dân sự, là “những Hộ gia đình mà các thành
viên có tài sản chung để hoạt động kinh tế chung trong quan hệ sử dụng đất, trong

hoạt sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp và trong một số lĩnh vực sản xuất, kinh doanh
khác do pháp luật quy định” (giáo trình tín dụng)
- Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp nơng thơn: là q trình
chuyển dịch cơ cấu nơng nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa lớn, gắn với cơng
nghiệp chế biến và thị trường, thực hiện cớ khí hóa, điện khí hóa, thủy lợi hóa, ứng
dụng các thành tựu khoa học cơng nghệ, trước hết là công nghệ sinh học; đưa thiết
bị kỹ thuật và công nghệ hiện đại vào các khâu sản xuất nông nghiệp nhằm nâng
cao năng suất, chất lượng, hiệu quả sức cạnh tranh trên thị trường. Xây dựng kết
cấu hạ tầng nông thôn, quy hoạch phát triển theo hướng hiện đại, đi đôi với bảo vệ
môi trường sinh thái; xây dựng nông thôn dân chủ, công băng, văn minh (giáo trình
tín dụng ngân hàng).
1.3 VAI TRỊ CỦA TÍN DỤNG NGÂN HÀNG TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRÊN
ĐỊA BÀN HUYỆN QUỲNH LƯU.

Nguồn vốn nói chung, và nguồn vốn tín dụng ln là nhưng nhân tố khơng
thể thiếu q trình phát triển kinh tế. Nhưng nguồn vốn đó khi đi vào từng vùng,
tùng địa phương nhất định nó lại đóng nhưng vai trò khác nhau. Do đặc điểm kinh


tế trên địa bàn huyện Quỳnh Lưu chủ yếu là nông nghiệp, đối tượng khách hàng
chủ yếu là nông dân và các doanh nghiệp phát triển sản xuất trong nông nghiệp. Do
vậy nguồn vốn tín dụng ngân hàng đóng những vai trò chủ yếu sau:
1.3.1 Thu hút các nguồn vốn, tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất nông nghiệp và
kinh tế nông thôn phát triển.
Vấn đề tạo dựng nguồn vốn và sử dụng nguồn vốn có hiệu quả là nhiệm vụ
chủ yếu để thực hiện thành công mục tiêu công nghiệp hố, hiện đại hố nơng
nghiệp, nơng thơn. Trong tổng số vốn xã hội đầu tư cho nông nghiệp, nông thơn,
một phần nguồn vốn từ ngân sách cấp có tính chất dẫn đường; một phần nguồn vốn
từ nước ngồi cịn rất hạn chế; phần còn lại rất lớn là huy động trong nước thông
qua các hệ thống ngân hàng theo tinh thần khai thác tối đa nguồn vốn nội lực.

Nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế là rất lớn, do đặc điểm tuần hồn vốn
ln dẫn đến tình trạng thừa, thiếu vốn tạm thời giữa các chủ thể. Tín dụng ngân
hàng với các đặc trưng riêng có, trở thành phương thức hiệu quả nhất trong việc
huy động các nguồn vốn nhàn rỗi đến những nơi phát sinh nhu cầu về vốn. Đồng
thời, việc phân phối vốn trong quan hệ tín dụng ngân hàng ln gắn liền với các
điều kiện bảo đảm tính hồn trả và có lãi. Vì vậy vốn được giao cho người sử dụng
có hiệu quả.
Bằng cách đó tín dụng thúc đẩy q trình sản xuất và lưu thơng phát triển
một cách có hiệu quả nhất. Người có vốn có thể thơng qua các hình thức tín dụng
khác nhau, đầu tư tiền nhàn rỗi, biến tiền tiêu dùng hoặc tích luỷ thành vốn đầu tư
cho sản xuất, kích thích sản xuất phát triển.
1.3.2 Thúc đẩy q trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn
nhanh và hiệu quả:
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nơng thơn phản ánh sự thay đỗi vì
chất của nền kinh tế nông nghiệp và nông thôn theo hướng hiện đại;; sự chuyển


dịch bao quát cả cơ cấu ngành, cơ cấu vùng lảnh thổ, cơ cấu các thành phần kinh tế,
… Vì vậy, cần phải có một lượng vốn rất lớn để giải quyết nhiều vấn đề, không thể
phát trển dàn trải mà phải lựa chọn những ngành nghề ưu tiên, những định hướng
phù hợp. Ngoài ra yêu cầu của đầu tư cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế phảI đủ
mạnh, phải bao quát và đồng bộ mới tạo được cú hích thúc đẩy sự chuỷen dịch
đúng hướng.
Trên cơ sở các vùng quy hoạch, các mục tiêu, dự án nông nghiệp và nơng
thơn mang tính thị trường và dài hạn. Tín dụng ngân hàng hồn tồn có khả năng
đầu tư cho tất cả các khâu trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, từ khâu cung
ứng giống, vật tư, nguyên liệu đầu vào đến sản xuất chế biến, thu mua tiêu thu và
xuất khẩu. Tập trung đầu tư chuyển dịch các loại cây trồng vật nuôi đang phát huy
hiệu quả kinh tế, các vùng chuyên canh sản xuất nguyên liệu tập trung kết hợp với
đầu tư nâng cao năng lựcchế biến nông sản, hướng đến xuất khẩu, đảm bảo lợi thế

so sánh của từng vùng, từng địa phương.
Tín dụng ngân hàng thông qua nguồn vốn đầu tư tạo điều kiện thúc đẩy kinh
tế hàng hố phát triển, nhiều hộ nơng dân tách khỏi sản xuất đơn điệu, phát triển
sản xuất lớn, chuyển dịch cớ cấu kinh tế nông nghiệp, kết hợp với cơng nghiệp và
dịch vụ.
1.3.3 Góp phần xây dựng kết cấu hạ tầng thay đổi bộ mặt ở nông thôn:
Phát triển kết cấu hạ tầng nông nghiệp và nông thôn có vị trí hết sức quan
trọng, vừa được coi là điều kiện, vừa được coi là bộ phận cấu thành trong CNH,
HĐH nông nghiệp, nông thôn.
Kết cấu hạn tầng trong nông nghiệp và nông thôn bao gồm kết cấu hạ tầng
kinh tế và kết cấu hạ tầng xã hội. Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng là quá trình kết
hợp tổng lực nhiều nguồn vốn: ngân sách, vốn vay nước ngồi, vốn tín dụng ngân
hàng và vốn đóng góp của dân với phương châm nhà nước và nhân dân cùng làm.


Thực tế nhiều năm qua, các NHTM đặc biệt là NHNo & PTNT đã tham gia
đầu tư tích cực và kết cấu hạ tầng nông thôn; Bên cạnh các chương trình thực hiện
đầu tư theo chỉ thị của Chính Phủ, nhiều năm qua các TCTD còn đầu tư cho các
chương trình điện khí hố nơng thơn, nước sạch và vệ sinh môi trường, xây dựng
và phát triển nhà ở, đường giao thơng nơng thơn, kiên cố hố kênh mương nội
đồng…. Các cơng trình ở nơng thơn mà ngân hàng tham gia hầu hết là các chương
trình kết hợp đầu tư giửa vốn nhà nước và đóng góp của nhân dân. Tuy nhiên,
nguồn vốn ngân hàng mang tính chất hỗ trợ nhưng đã mang lại ý nghĩa hết sức to
lớn đối với nhu cầu và mức độ thu nhập của đại bộ phận người dân nơng thơn, góp
phần thay đỗi đáng kể bộ mặt ở nông thôn.
1.3.4 Phát huy tối đa nội lực của các thành phần kinh tế ở nông thôn, đặc biệt
là thành phần kinh tế hộ và kinh tế hợp tác xã.
Cùng với chính sách của nhà nước khuyến khích các thành phần kinh tế phát
triển, nhu cầu về vốn của các thành phần kinh tế ngày càng phát triển rất phong phú
và đa dạng, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, tập trung vào các mơ

hình kinh tế chủ yếu sau:
- Đối với doanh nghiệp: xét trên tơng thể thì khơng có doanh nghiệp nào
khơng liên quan đến nông nghiệp và kinh tế nông thôn, vì đó là thị trường rộng lớn.
Tuy nhiên, tác động và nông nghiệp và nông thôn chủ yếu là các doanh nghiệp vừa
và nhỏ, đây là loại hình doanh nghiệp có nhiều lợi thế trong khai thác tiềm năng
của địa phương, tạo nhiều cơng ăn việc làm, dễ thích nghi với thị trường về thông
tin, đội ngũ lao động và quản lý.
- Về kinh tế hộ: Nghị quyết 10 của Bộ chính trị (tháng 4 năm 1998) về đỗi
mới quản lý kinh tế nông nghiệp, hộ nông dân được xác định là đơn vị kinh tế tự
chủ, là thành phần kinh tế cơ bản ở nông thôn. Luật đất đai (năm 1993) và nghị
định 17 (năm 1999) của chính phủ đã quy định giao ruộng đất ổn định lâu dài cho


hộ nông dân sử dụng với các quyền cơ bản: chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê,
thuê lại, thừa kế, thế chấp, bảo lảnh, góp vốn..). Nghị quyết 10 và luật đất đai đã
mở ra nhưng cơ sở về nhận thức và pháp lý cho sự phát triển kinh tế hộ, tạo điều
kiện cho các tổ chức, các ngành hỗ trợ cho đầu tư phát triển kinh tế hộ.
- Về kinh tế trang trại: Các mơ hình trang trại ở nước ta đang trong quá
trình hình thành, cũng cố phát triển, có tác dụng thúc đẩy sản xuất hàng hố, ứng
dụng tiến bộ kỷ thuật, tăng năng suất lao động, giải quyết việc làm, tăng thu nhập,
góp phần xố đói giảm nghèo ở nơng thơn. Nhà nước đang có chính sách ưu đãi
hình thức kinh tế này phát triển thuận lợi, trong đó có ưu đãi về đầu tư vốn ngân
hàng.
- Về hợp tác xã: sự phát triển của nông nghiệp, nông thôn trong hơn nửa thế
kỷ qua ở Việt Nam luôn gắn liền với sự phát triển của Hợp Tác Xã. Các hợp tác xã
đóng vai trị hết sức quan trọng trong sự phát triển nhiều mặt, nhất là việc xây dựng
kết cầu hạ tầng, phát triển cộng đồng nông thôn, sản xuất lương thực bảo đảm nhu
cầu tiêu dùng…
1.3.5 Tín dụng ngân hàng góp phần thực hiện các chủ trương chính sách của
Đảng và Nhà Nước đối với nơng nghiệp và nơng thơn:

Cùng với các cơng cụ tài chính khác, Nhà Nước thơng qua hoạt động tín
dụng Ngân Hàng để thực hiện các chủ trương, chính sách tác động đề nơng nghiệp
và nơng thơn như: khuyến khích hay hạn chế xuất khẩu nông sản để tăng khả năng
cạnh tranh, chính sách hỗ trợ cho nơng dân như: miễn giảm lãi suẩt khắc phục thiên
tai, dịch bệnh, cho vay không cần thế chấp, khoanh nợ, giảm nợ cho vay ưu đãi…
Tín dụng cịn là phương tiện thực hiện mỡ rộng hoặc thu hẹp phạm vi, đối
tượng cho vay, góp phần thực hiện từ cơ chế khống chế tài chính vĩ mô trực tiếp
sang giám tiếp trong lĩnh vực điều hành tiền tệ tín dụng của Ngân hàng nhà nước.


1.4 ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN TRONG CHO VAY PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRÊN ĐỊA BÀN
HUYỆN QUỲNH LƯU.

Do đặc điểm kinh tế của huyện Quỳnh Lưu là cơ cấu kinh tế chủ yếu là nông
nghiệp, thành phần nhân khẩu chủ yếu là các hộ gia đình nơng thơn. Tuy trong thời
gian gần đây loại hình doanh nghiệp và dịch vụ cũng đã bắt đầu phát triển. Tuy vậy
nền kinh tế vẫn mang đậm tính chất nơng nghiệp, nơng thơn, nên hoạt động cho vay
nguồn vốn tín dụng của NHNo & PTNT huyện Quỳnh Lưu cũng mang những đặc
điểm do hoạt động nơng nghiệp tác động:
(*) Tính chất thời vụ gắn liền với chu kỳ sinh trưởng của động thực vật
Tính chất thời vụ trong cho vay nơng nghiệp có liên quan đến chu kỳ sinh
trưởng của động, thực vật trong ngành nơng nghiệp nói chung và các ngành nghề
cụ thể mà ngân hàng cho vay. Thường tính thời vụ thể hiện ở các mặt sau:
-

Vụ, mùa trong sản xuất nông nghiệp quyết định thời điểm cho vay và

thu nợ. Nếu ngân hàng tập trung vào cho vay các ngành hẹp, như cho vay
cây, con nhất định thì phải tổ chức cho vay tập trung vào một thời kỳ nhất
định của năm, đầu vụ tiến hành cho vay, đến cuối vụ tiến hành thu nợ.

-

Chu kỳ sống tự nhiên của cây, con là yếu tố quyết định tính tốn thời

hạn cho vay. Chu kỳ ngắn hay dài còn phụ thuộc vào loại giốn cây hoặc con
và chu trình sản xuất. Ngày nay công nghệ sinh học cho phép lai tạo nhiều
giống mới, sản lượng cao hơn và thời gian sinh trưởng ngắn hơn.
(*) Mơi trường tự nhiên có ảnh hưởng đến thu nhập và khả năng trả nợ của
khách hàng:
Đối với khách hàng sản xuất kinh doanh nông nghiệp nguồng trả nợ vay
ngân hàng chủ yếu là tiền bán nông sản và các sản phẩm chế biến có liên quan đến
nơng sản. Như vậy sản lượng nông sản thu về sẽ là yếu tố quyết định trong xác định


khả năng trả nợ của khách hàng. Tuy nhiên sản lượng nông sản chịu ảnh hưởng của
thiên nhiên rất lớn, đặc biệt là các yếu tố như: đất, nước, khí hậu.
Bên cạnh đó yếu tố tự nhiên cũng tác động tới giá cả của nông sản (thời tiết
thuận lợi, vụ mùa bội thu, nhưng giá nông sản hạ…), làm ảnh hưởng đến khả năng
trả nợ của khách hàng đi vay.
(*) Chi phí tổ chức cho vay cao:
Chi phí tổ chức cho vay cao có liên quan đến nhiều yếu tố như: chi phí tổ
chức mạng lưới, chi phí cho việc thẩm định, theo dỏi khách hàng, phòng ngừa rủi
ro. Cụ thể là:
-

Cho vay nông nghiệp, đặc biệt là cho vay đối với hộ nơng dân thường chi phí

nghiệp vụ cho một đồng vốn vay thường cao do quy mô từng món vay nhỏ.
-


Số lượng khách hàng đơng, phân bố khắp nơi nên mở rộng cho vay thường

liên quan tới việc mở rộng mạng lưới cho vay và thu nợ (mở chi nhánh, bàn giao
dịch, tổ cho vay tại xã…); hiện nay mạng lưới của ngân hàng No & PTNT Việt
Nam là lớn nhất cũng chỉ mới đáp ứng được 25% nhu cầu vay của nơng nghiệp
(1999).
-

Do ngành nơng nghiệp có độ rủi ro tương đối cao nên chi phí cho dự phòng

thường là tương đối lớn so với các ngành khác.
-

Lãi suất thu hút nguồn vốn cho vay nông nghiệp cao do bị giới hạn bởi các

nguồn tại chỗ, phải chuyển dịch nguồn vốn từ nơi khác làm chi phí vốn tăng lên.
Khách hàng vay chủ yếu trong lĩnh vực nông nghiệp là hộ nông dân. Điều này xuất
phát từ thực tế nước ta có 12,588 triệu hộ với 27,922 triệu lao động đang hoạt động
trong lĩnh vực nông nghiệp chiếm hơn 60% lực lượng sản xuất trong xã hội (năm
1998). Phần lớn các hộ gia đình sản xuất mang tính tự cấp, tự túc. Vì vậy, đặc điểm
của hộ ảnh hưởng rất lớn đế tổ chức cho vay và áp dụng các phương thức, kỷ thuật
cho vay thích hợp.


(*) Tài sản bảo đảm tiền vay nhỏ hơn so với nhu cầu vay vốn:
Trong khu vực nông nghiệp và nông thôn, việc thực hiên các điều kiện bảo
đảm tiền vay là hết sức khó khăn. Đây là mơi trường kinh doanh có độ rủi ro lớn,
trình độ dân trí thấp, kinh nghiệm quản lý yếu kém giá trị tài sản bảo đảm rất nhỏ
và chưa đủ cơ sở pháp lý, trong khi để đầu tư chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật
ni cần có món vay lớn. ở Việt Nam mặc dù chính phủ đã nâng hạn mức cho vay

thông thường không cần tài sản thế chấp lên 20 triệu, song hạn mức không cần tài
sản thế chấp trên vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu của nông dân để mở rộng quy mô
sản xuất hoặc chuyển dich cơ cấu kinh doanh, mặt khác làm tăng đáng kể rủi ro
hoạt động của các NHTM, đây là vấn đề rất khó khăn của cả người vay và người
cho vay, chưa có giải pháp khắc phục hửu hiệu.
1.5 CÁC CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG VỐN TÍN DỤNG TRONG PHÁT
TRIỂN KINH TẾ.

1.5.1 Các chỉ tiêu định tính
Hiệu quả của nguồn vốn tín dụng ngân hàng thể hiện qua khả năng mở rộng
tín dụng của ngân hàng gắn liền với việc đáp ứng tốt nhu cầu của khách hàng vay
vốn, đảm bảo sự tồn tại và phát triển của ngân hàng, đóng góp vào sự tăng trưởng
và phát triển nền kinh tế đất nước. Về mặt định tính các tiêu chí này có thể được
đánh giá qua một số khía cạnh sau:
Trước hết, khả năng mở rộng tín dụng của ngân hàng phụ thuộc vào uy tín
của ngân hàng đó. Nếu một ngân hàng có uy tín nó sẽ có khả năng thu hút nhiều
khách hàng hơn. Ngược lại, nếu một ngân hàng có đội ngũ khách hàng đơng đảo và
là những hộ gia đình sử dụng nguồn vốn có hiệu quả, làm ăn có uy tín thì đó là một
trong những dấu hiệu cho thấy hiệu quả nguồn nguồn vốn tín dụng cho phát triển
kinh tế của ngân hàng là khả quan. Hiệu quả nguồn vốn tín dụng cịn thể hiện ở khả
năng đáp ứng tốt nhu cầu của khách hàng. Đối với khách hàng thì điều này thể hiện


trước hết ổ thủ tục đơn giản, thuận tiện (tuy nhiên vẫn phải đảm bảo những nguyên
tắc an toàn tối thiểu cần thiết), cung cấp vốn nhanh chóng, kịp thời, an tồn. Nhờ
đó khách hàng sẽ tiết kiệm được chi phí giao dịch, tiết kiệm thời gian và nhất là
khơng bị bỏ lỡ những cơ hội kinh doanh tốt. Để đạt được điều đó thì ngồi việc đáp
ứng nhanh chóng, kịp thời nhu cầu vốn ngân hàng phải thực sự trở thành người bạn
của nông dân, doanh nghiệp… sẵn sàng giúp đỡ, chia sẻ khó khăn với khách hàng.
Làm được như vậy thì nguồn vốn tín dụng ngân hàng sẽ thực sự phát huy được vai

trò đòn bẩy thúc đẩy phát triển kinh tế. Và góp phần thực hiện thành cơng sự
nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố nơng nghiệp nông thôn của nước ta. Một khi
hộ khách hàng sử dụng nguồn vốn có hiệu quả thì ngân hàng cũng sẽ tránh được
những rủi ro, bảo đảm hiệu quả trong kinh doanh của chính mình.
Để có hiệu quả tín dụng tốt là phải đảm bảo sự tồn tại và phát triển của ngân
hàng. Nói cách khác hoạt động tín dụng phải mang lại cho ngân hàng thu nhập để
trang trại chi phí liên quan và có lãi, hạn chế thấp nhất nguy cơ rủi ro. Điều này
không chỉ phụ thuộc ngân hàng mà còn phụ thuộc rất lớn đến khách hàng vay vốn.
Khoản tín dụng được coi là hiệu quả khi các nguyên tắc cho vay được tuân thủ triệt
để, sự dụng vốn vay đúng mục đích, có hiệu quả kinh tế cao, hoàn trả nợ gốc và lãi
đúng hạn. Vì vậy, sự dụng vay vốn đúng mục đích là một trong những điều kiện
đảm bảo đạt được mục tiêu ban đầu đã đề ra.
Một yêu cầu nữa đối với hoạt động tín dụng ngân hàng là phải đóng góp vào
sự tăng trưởng và phát triển kinh tế-xã hội của vùng của địa phương và của cả
nước. Điều này tất yếu sẽ đạt được khi cả ngân hàng và khách hàng đều hoạt động
hiệu quả. Nó được biểu hiện sự ổn định của nền tài chính tiền tệ quốc gia giúp nâng
cao năng lực hoạt động, năng lực công nghệ doanh nghiệp, giải quyết công ăn việc
làm, tăng thu nhập nâng cao mức sống dân cư.
Tóm lại



×