GIẢI PHÁP MỞ RỘNG CHO VAY TIÊU DÙNG CỦA NHNO VÀ PTNT
HÀ NỘI.
3.1 Xu thế phát triển cho vay tiêu trong thời gian tới.
Nếu như các năm trước đây, các Ngân hàng thương mại tập trung chủ yếu cho vay
sản xuất kinh doanh và làm dịch vụ mà không quan tâm đến lĩnh vực cho vay tiêu dùng.
Họ đánh giá rằng quy mô các khoản vay tiêu dùng nhỏ trong khi chi phí cho nó cao mà
hiệu quả không lớn nên từ chối cấp những khoản tín dụng này, do đó quy mô và doanh số
cho vay tiêu dùng không đáng kể. Tuy nhiên, gần đây các Ngân hàng rất chú trọng cạnh
tranh mở rộng cho vay tiêu dùng. Các đối tượng khách hàng được cạnh tranh mở rộng cho
vay tiêu dùng chủ yếu là giáo viên, cán bộ nhân viên, công an, chủ doanh nghiệp, hộ gia
đình, người về hưu… Đây là đối tượng cho vay có nguồn thu nhập ổn định, đảm bảo an
toàn cho tín dụng tiêu dùng của Ngân hàng.
Thị trường tiêu dùng Việt Nam được đánh giá là rộng lớn và đầy tiềm năng. Với một
thị trường gồm 83 triệu dân, thu nhập của người dân ngày càng gia tăng cũng như đời sống
của họ luôn được cải thiện đang tạo nên xu hướng tiêu dùng gia tăng. Ngoài nhu cầu thiết
yếu như ăn, mặc, ở thì thu nhập của người dân là điều kiện để tăng nhu cầu về chất lượng
cuộc sống. Chắc chắn nhu cầu về xe máy, ô tô và mua sắm trang thiết bị gia đình cũng sẽ
tăng lên. Thêm vào đó, theo xu hướng của thời đại, nhu cầu xây nhà đẹp, sữa chữa nhà cho
khang trang đẹp đẽ và tiện nghi cũng sẽ cao hơn. Trên thực tế nhu cầu về nhà ở đô thị ngày
càng tăng. Nếu tính theo diện tích nhà ở bình quân ở đô thị là 11m2/người thì nhu cầu nhà
ở đô thị hàng năm đòi hỏi tăng thêm trên 21 triệu m2. Hơn nữa, một số chính sách cởi mở
của nhà nước như người dân được mua nhà ở tại các đô thị mà không cần hộ khẩu, dự kiến
mở rộng đối tượng Việt Kiều được mua nhà và cho phép thực hiện thí điểm người nước
ngoài mua nhà ở tại Việt Nam… cũng làm tăng nhu cầu về nhà ở tại một số đô thị lớn. Các
khoản chi phí lớn thông thường cần đến sự hỗ trợ tín dụng. Hiện tại, các nhà cung cấp hàng
hóa, dịch vụ chưa sẵn sàng cung cấp cho người mua hàng, do vậy nguồn tín dụng ngân
hàng là sự lựa chọn đầu tiên. Mặt khác, trên thực tế người tiêu dùng Việt Nam đã quen với
việc vay vốn Ngân hàng để phục vụ cho các nhu cầu chi tiêu của mình. Với một thị trường
rộng lớn và đầy tiềm năng như vậy các ngân hàng hiện nay đều vào cuộc với các chương
trình khá phong phú như cho vay mua xe, mua đất dự an, mua nhà trả góp, xây dựng và sửa
chữa nhà ở… Về phía người đi vay, các khoản tín dụng cá nhân mang nhiều thuận lợi.
Khách hàng sẽ có một khoản tiền lớn ngay lúc cần thiết để chi tiêu và hoàn trả dần thu
nhập trong tương lai. Trong những trường hợp cần gấp thì lãi suất vay ngân hàng hợp lý
hơn so với khách hàng phải vay “nóng” bên ngoài. Thời hạn cho vay và phương thực trả
nợ linh hoạt căn cứ vào khả năng trả nợ của khách hàng. Phương án xấu nhất đối với khách
hàng chỉ xảy ra khi họ không trả được nợ cho ngân hàng nên phải “chia tay” với tài sản của
mình. Tuy nhiên, nếu khách hàng thực hiện đúng với những yêu cầu của ngân hàng và mua
bảo hiểm theo khuyến nghị của Ngân hàng thì rủi ro sẽ được hạn chế. Mặt khác, điều kiện
và thủ tục để có được khoản vay tiêu dùng cũng không quá phức tạp cho khách hàng. Họ
chỉ cần xác minh có hộ khẩu thường trú hoặc tạm trú dài hạn trên cũng địa bàn tỉnh, thành
phố, nơi có chi nhánh của ngân hàng mà họ định vay tiền hoạt động. Người vay chỉ cần
xác nhận mức thu nhập hàng tháng ổn định và đảm bảo được khả năng trả nợ và mục đích
sử dụng vốn vay hợp lý.
Dù có nhiều tiềm năng, các Ngân hàng thừa nhận, cho vay tiêu dùng cũng tiềm ẩn
những rủi ro nhất định. Trước hết là các ngân hàng vẫn chưa có một cơ chế kiểm soát chặt
chẽ thu nhập của khách hàng cũng như nắm được chuyện thay đổi công ăn việc làm hay
chỗ ở của người đi vay. Thêm vào đó tình trạng bong bóng của thị trường bất động sản
cũng là một nguyên nhân gây nhiều rủi ro cho ngân hàng khi cho vay mua nhà, đổi nhà.
Vào thời điểm quý II năm 2007, báo cáo của các tổ chức nước ngoài như Merrill Lynch và
HSBC được xem như gáo nước lạnh làm cho thị trường chứng khoán đang suy giảm lại
càng suy giảm thêm. Chỉ thị 03 có hiệu lực khống chế cho vay đầu tư chứng khoán nhưng
lại không hạn chế cho vay bất động sản, các ngân hàng thương mại thực hiện tăng cường
cho vay đầu tư bất động sản và cho vay thương mại vì điều này rất có lợi cho họ bởi vì vừa
làm giảm tỷ lệ cho vay 3% đầu tư chứng khoán theo quy định của Ngân hàng nhà nước,
vừa tăng thu lãi. Ngay trong năm 2008, nhiều chương trình tín dụng bất động sản hấp dẫn
được giới thiệu tại Eximbank, AB Bank, Techcombank, Habubank… Các chương trình tín
dụng bất động sản nhà ở này có chung một số đặc điểm đáng chú ý: Bất động sản hình
thành từ nguồn tín dụng đi vay được sử dụng làm tài sản thế chấp, thời hạn cho vay 10-15
năm, cá biệt có khoản vay tới 30 năm, lãi suất được điều chỉnh theo từng kỳ ngắn hạn,
thường là 3 tháng, mức lãi suất được áp dụng thống nhất cho các khách hàng theo quy định
của mỗi ngân hàng. Phân loại tín dụng chỉ duy nhất cấp hoặc không cấp tín dụng. tuy nhiên
giá bất động sản bị đẩy lên quá cao so với giá trị thực tế của nó. Có từ 50-60% người mua
bất động sản để thực hiện đầu cơ. Cho vay bất động sản chứa đựng nguy cơ rủi ro cao.
Nhiều ngân hàng ngừng cho vay, thu hồi nợ từ các khoản cho vay bất động sản.
Trong giai đoạn hiện nay, do giá cả leo thang quá cao, để kiềm chế lạm phát, ngân
hàng nhà nước đã đưa ra nhiều chính sách thắt chặt tiền tệ và tín dụng như tăng tỷ lệ dự
trữ bắt buộc, tăng lãi suất cơ bản, bắt buộc các ngân hàng phải mua 20400 tỷ đồng tín
phiếu kho bạc… Để đảm bảo tỷ lệ dự trữ bắt buộc và đủ tiền mua tín phiếu, các ngân hàng
thương mại đẩy lãi suất huy động làm cho gia tăng lãi suất cho vay. Cuộc chạy đua gia
tăng lãi suất huy động và các hình thức khuyến mãi đối với người gửi tiền đang diễn ra
ngày càng mạnh mẽ giữa các ngân hàng, ngay cả với những ngân hàng có uy tín cao cũng
không tránh khỏi bởi nếu vẫn giữ nguyên mức lãi suất khách hàng sẽ ồ ạt rút tiền gửi vào
các ngân hàng khác có lãi suất cao hơn. Lãi suất huy động tăng kéo theo lãi suất cho vay
cũng gia tăng. Theo quy định của ngân hàng nhà nước, các ngân hàng thương mại chỉ được
cho vay không quá 150% so với lãi suất cơ bản tức là 18%. Bản thân các ngân hàng có sự
tính toán rất kỹ giữa nguồn huy động và cho vay vừa nhằm đảm bảo mang lại lợi nhuận và
quan trọng là đem lại sự an toàn cho ngân hàng. Hơn nữa không phải khách hàng nào cũng
được cho vay, ngân hàng chỉ thực hiện cho vay đối với khách hàng có quan hệ lâu năm, có
tài chính minh bạch. Đây cũng là điều đương nhiên trong giai đoạn thắt chặt tín dụng và có
nhiều rủi ro trong giai đoạn hiện nay.
Trong khi nền kinh tế suy giảm, việc làm, thu nhập bị ảnh hưởng tâm lý tự nhiên xã
hội cũng tự co lại về nhu cầu. Vậy việc tăng tín dụng tiêu dùng này thực chất bao nhiêu là
để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng?
Tín dụng tiêu dùng lại có chiều hướng nghiêng về mua nhà - đất, nếu vay khoảng
300-500 triệu, thời hạn trả từ 3-15 năm thì cũng là một khoản chi phí khá lớn trong tổng
chi tiêu của một gia đình trong tháng (ở Mỹ mức trả góp không vượt quá 31% thu nhập của
hộ gia đình mới đảm bảo khả năng trả nợ).
Phần lớn (có thể nói gần như 100%) cho vay tiêu dùng được cấp tín dụng trung - dài
hạn. Điều này nếu bị lạm dụng thái quá sẽ tăng thêm rủi ro kỳ hạn cho NHTM. Trong bối
cảnh kinh tế năm 2009, yêu cầu quản lý nguồn vốn và sử dụng vốn phù hợp để tránh rủi ro
kỳ hạn.
Nguồn vốn của NH chủ yếu là kỳ hạn từ 9 tháng trở xuống, cho vay tiêu dùng lại từ 3
đến 15 năm, rủi ro kỳ hạn rất lớn. Trong quý I&II/2008, các NH bị thiếu thanh khoản là
những NH có tỉ lệ cho vay trung và dài hạn, đặc biệt là cho vay lĩnh vực BĐS ở mức cao so
cơ cấu tài sản có hợp lý.
Đến thời điểm hiện tại, tỉ lệ dư nợ cho vay tiêu dùng/tổng dư nợ của các NH còn khá
thấp. Tỉ trọng này ở nhóm NHTM nhà nước vào khoảng trên - dưới 4%, ở các NHTM cổ
phần từ 6%-10%. Có thể vì vậy mà NHNN chưa có động thái kiểm tra, giám sát cho vay
tiêu dùng.
Tuy nhiên, hậu quả gây ra cho hệ thống NH và cả nền kinh tế do tăng trưởng tín dụng
quá mức năm 2007, đặc biệt cho vay kinh doanh CK và cho vay BĐS (trong đó có cho vay
tiêu dùng mua BĐS) vẫn còn nguyên tính thời sự. Không thể khẳng định một phần vốn vay
tiêu dùng có thể đổ vào các kênh đầu tư trên khi cơ hội đến.
Vừa qua, NHNN mới yêu cầu các tổ chức tín dụng báo cáo dư nợ và mức lãi suất cho
vay thoả thuận. Trước tình trạng cho vay tiêu dùng ồ ạt như hiện nay, rất cần kiểm tra tình
hình, đánh giá thực trạng tín dụng tiêu dùng của các NH để đưa ra các cảnh báo và quy định
điều chỉnh (nếu cần thiết) nhằm đảm bảo lợi ích của toàn xã hội, lợi ích của hệ thống NH
cũng như lợi ích của cá nhân vay vốn tín dụng tiêu dùng.
3.2 Mục tiêu mở rộng hoạt động cho vay TD tại NHNo&PTNT Hà Nội.
3.2.1 Mục tiêu hoạt động chung năm 2009.
Nguồn vốn tăng tối thiểu từ 15 đến 20% so vwosi năm 2008. Tập trung huy động
nguồn vốn chú trọng huy động nguồn vốn nội, ngoại tệ trung và dài hạn.
Đầu tư tín dụng tăng từ 16% đến 18% so với năm 2008, tập trung đầu tư các dự án
của các thành phần kinh tế sản xuất kinh doanh, chế biến hàng nông sản xuất khẩu, hàng
tiêu dùng và các mặt hàng thay thế nhập khẩu. Chú trọng đầu tư đối với các doanh nghiệp
ngoài quốc doanh, tư nhân cá thể. Tiếp tục đầu tư cho vay các doanh nghiệp nhà nước, các
công ty cổ phần kinh doanh có hiệu quả. Từng bước lành mạnh hóa chất lượng tín dụng, nợ
xấu nhóm 3 đến nhóm 5 dưới 2%.
Tiếp tục mở rộng, nâng cao chất lượng các sản phẩm dịch vụ ngân hàng hiện đại,
nhằm đưa các loại hình dịch vụ tiện ích đến mọi đối tượng, mọi thành phần kinh tế. Phấn
đấu thu ngoài tín dụng tăng 25 – 30% so với năm 2008.
Lợi nhuận tăng trưởng từ 10 – 15% so với năm 2008.
3.2.2 Mục tiêu của hoạt động cho vay TD tại NHNo&PTNT Hà Nội .
Theo báo cáo tổng kết của NHNo&PTNT Hà Nội. Mục tiêu định hướng hoạt động tín
dụng năm 2009. Dư nợ tín dụng tăng trưởng từ 15-17% so với năm 2008, trong đó dư nợ
cho vay trung và dài hạn chiếm tối đa 40% tổng dư nợ. Tỷ lệ nớ xấu trên tổng dư nợ dưới
0,7%.
Từ những mực tiếu trên hoạt động tín dụng của HSX & CN (cho vay tiêu dùng) cần
bám sát định hướng sau:
Doanh số cho vay đạt trên 4000 tỷ đồng, doanh số thu nợ đạt trên 3800 tỷ đồng, tỷ
trọng cho vay tiêu dùng từ 12-15% trong tổng doanh thu toàn chi nhánh. Nợ xấu cho vay
tiêu dùng dưới 3% tổng dư nợ.
3.3 Các giải pháp nhằm mở rộng hoạt động cho vay TD tại NHNo&PTNT Hà Nội
3.3.1 Mở rộng nguồn vốn huy động của ngân hàng
Để tránh sự mất cân đối về nguồn vốn của Ngân hàng, chi nhánh cần tăng cường
nguồn vốn trung, dài hạn. Đặc biệt là các nguồn vốn dài hạn thông qua các cách sau:
+ Sử dụng vốn của các quỹ bảo hiểm và hưu trí: Hiện nay với sự phát triển mạnh của
mạng lưới các công ty bảo hiểm, tiết kiệm bưu điện, các quỹ phát triển, đầu tư đã thu hút
được một lượng vốn lớn từ dân cư. Các Ngân hàng có thể tái sử dụng nguồn vốn này thông
qua các hình thức như phát hành trái phiếu…
+ Tạo các công cụ tiết kiệm mới với hạn mức tương đối dài: như việc phát hành các
chứng chỉ tiền gửi, phát triển các loại hình tiết kiệm gắn với cho vay như tiết kiệm tuổi già,
tiết kiệm mua sắm, tiết kiệm nhà ở. Hiện nay tỷ lệ nắm giữ tiền mặt, đặc biệt là đồng đôla
tương đối cao. Đây là nguồn mà ngân hàng có thể huy động bằng các công cụ tiết kiệm đa
dạng và linh hoạt cho phép kéo dài thời gian đáo hạn của các khoản tiền gửi ban đầu.
Khi đã có sự cân đối về nguồn vốn, chi nhánh có thể điều chỉnh mức lãi suất thấp hơn
và thời hạn tín dụng tiêu dùng dài hơn, phù hợp với khả năng trả nợ của khách hàng.
3.3.2 Thiết lập và hoàn thiện chính sách cho vay TD
Như đã phân tích, một chính sách tín dụng bao gồm các yếu tố về quy mô và giới hạn
cho vay, cơ cấu danh mục cho vay, ủy quyền, định giá cho vay, xác định địa bàn hoạt động,
các tiêu chuẩn chất lượng tín dụng, quá trình giám sát tín dụng.
Đối với chi nhánh, để đề ra chính sách cho vay tiêu dùng hiệu quả bao gồm việc mở
rộng và nâng cao hiệu quả cho vay, trước hết chi nhánh cần phải xác định mục tiêu và vị trí
(thị phần cho vay) trên thị trường này. Để xác định thị phần cần có sự thống kê so sánh dư
nợ, số lượng khách hàng của chi nhánh với các ngân hàng khác. Trên cơ sở biết được đối
tượng phục vụ và vị thế, chi nhánh mới đề ra được chính sách cho vay cụ thể. Chính sách
cho vay tiêu dùng có thể căn cứ một số điểm sau:
- Mở rộng đối tượng cho vay TD: Ngân hàng nên mở rộng đối tượng cho vay tiêu dùng với
những đối tượng có thu nhập ổn định, đặc biệt là nhóm khách hàng trẻ. Họ là những người
trẻ, năng động, có trình độ, có tiền và biết tiêu tiền đặc biệt là đối với những sản phẩm dịch
vụ có thể giúp họ tự khẳng định mình. Ngân hàng có thể lợi dụng mối quan hệ đối với các
công ty lớn để thiết lập mối quan hệ cho vay tiêu dùng đối với khách hàng là nhân viên của
các cơ quan này.
- Đa dạng hóa các sản phẩm cho vay TD: Các sản phẩm cho vay tiêu dùng không chỉ dừng
lại ở các sản phẩm như cho vay mua nhà, mua xe có đảm bảo, cho vay du học… mà nên
mở rộng với những hình thức cho vay khác nhau như cho vay bằng tài sản hình thành từ
tiền vay, cho vay qua thẻ tín dụng…
- Xây dựng chiến lược giá cả hợp lý: giá cả trong tín dụng được hiểu là lãi suất. Như phân
tích ở trên, khách hàng vay tiêu dùng ít quan tâm đến lãi suất vay, cái họ đặt lên hàng đầu
là mức độ thỏa mãn nhu cầu. Song trong giai đoạn hiện nay, trong môi trường cạnh tranh
gay gắt, lãi suất lại là một nhân tố cạnh tranh. Vì vậy việc xây dựng chính sách hợp lý về
lãi suất là điều kiện cần thiết đối với Ngân hàng.