Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

CÁC PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH TRONG CÁC DOANH NGHIỆP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (154.46 KB, 28 trang )

CÁC PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH TRONG
CÁC DOANH NGHIỆP
I-TẦM QUAN TRỌNG CỦA PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH
1-Tổng quan về tài chính doanh nghiệp
Hoạt động tài chính doanh nghiệp là một trong những nội dung cơ bản của
hoạt động sản xuất kinh doanh .Hoạt động này nhằm thực hiện mục tiêu của doanh
nghiệp: tối đa hoá giá trị tài sản sở hữu của doanh nghiệp cụ thể thành những mục
tiêu khác như: tối đa hoá lợi nhuận, tăng trưởng ổn định,...
Tài chính doanh nghiệp được hiểu là những quan hệ giá trị giữa doanh nghiệp
và các chủ thể trong nền kinh tế. Các quan hệ tài chính doanh nghiệp chủ yếu bao
gồm:
-Quan hệ giữa doanh nghiệp với Nhà nước: Đây là mối quan hệ phát sinh khi
doanh nghiệp thực hiện nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước, khi Nhà nước góp vốn
vào doanh nghiệp.
-Quan hệ doanh nghiệp với thị trường tài chính: Quan hệ này được thể hiện
thông qua việc doanh nghiệp tìm kiếm các nguồn tài trợ. Trên thị trường tài chính,
doanh nghiệp có thể vay ngắn hạn để đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn, có thể phát
hành cổ phiếu và trái phiếu để đáp ứng nhu cầu vốn dài hạn. Ngược lại, doanh
nghiệp phải trả lãi vay và vốn vay, trả lãi cổ phần cho các nhà tài trợ. Doanh
nghiệp cũng có thể gửi tiền vào ngân hàng, đâu ftư chứng khoán bằng số tiền tạm
thời chưa sử dụng.
-Quan hệ giữa doanh nghiệp với các thị trường khác: Trong nền kinh tế, doanh
nghiệp có quan hệ chặt chẽ với nhiều doanh nghiệp khác trên thị trường hàng hoá,
dịch vụ, thị trường sức lao động . Đây là những thị trường mà tại đó doanh nghiệp
tiến hành mua sắm máy móc thiết bị, nhà xưởng, tìm kiếm lao động,... Điều quan
trọng là thông qua thị trường, doanh nghiệp có thể xác định nhu cầu hàng hoá và
dịch vụ cần thiết cung ứng. Trên cơ sở đó, doanh nghiệp hoạch định ngân sách đầu
tư, kế hoạch sản xuất, tiếp thị htoả mãn nhu ccầu của thị trường.
-Quan hệ trong nội bộ doanh nghiệp: Đây là quan hệ giữa các bộ phận sản
xuất kinh doanh, giữa cổ đông và người quản lý, giữa cổ đông và chủ nợ, giữa
quyền sở hữu vốn và quyền sử dụng vốn. Các mối quan hệ này được thẻ hiện thông


qua hàng loạt các chính sách của doanh nghiệp như: chính sách phân phối thu
nhập, chính sách đầu tư chính sách về cơ cấu vốn và chi phí vốn,...
Một doanh nghiệp muốn tiến hành hoạt động sản xuất-kinh doanh, cần phải có
một lượng tài sản phản ánh bên tài sản của Bảng cân đối kế toán. Nếu như toàn bộ
tài sản do doanh nghiệp nắm giữa được đánh giá tại một thời điểm nhất định thì sự
vận động của chúng - kết quả của quá trình trao đổi - chỉ có thể xác định tại một
thời điểm nhất định và được phản ánh trên báo cáo kết quả kinh doanh. Quá trình
hoạt động của doanh nghiệp có sự khác biệt đáng kể về quy trình công nghệ và tính
chất hoạt động. Sự khác biệt này phần lớn do đặc điểm kinh tế, kỹ thuật của từng
doanh nghiệp quyết định. Cho dù vậy, người ta vẫn có thể khái quát những nét
chung nhất của các doanh nghiệp bằng hàng hoá dịch vụ đầu ra và hàng hoá dịch
vụ đầu vào.
Một hàng hoá dịch vụ dầu vào hay một yếu tố sản xuất là hàng hoá hay dịch
vụ mà các nhà doanh nghiệp mua sắm để sử dụng trong quá trình sản xuất-kinh
doanh. Các hàng hoá dịch vụ đầu vào kết hợp với nhau tạo ra hàng hoá dịch vụ đầu
ra - đó là hàng loạt các hàng hoá dịch vụ có ích được tiêu dùng hoặc được sử dụng
trong quá trình sản xuất-kinh doanh khá. Như vậy trong một thời kỳ nhất định, các
doanh nghiệp đã chuyển hoà hàng hoá dịch vụ đầu vào thành hàng hoá dịch vụ đầu
ra để trao đổi. Mối quan hệ giữa tài sản hiện có và hàng hoá dịch vụ đầu vào, hàng
hoá dịch vụ đầu ra (tức quan hệ giữa bảng cân đối kế toán và báo cáo kết quả kinh
doanh) có thể mô tả như sau:
Hàng hoá dịch vụ sản xuất-chuyển hoá Hàng hoá dịch vụ
(mua vào) (bán ra)
Trong số các tài sản mà doanh nghiệp nắm giữ có một loại tài sản đặc biệt - đó
là tiền. Chính dự trữ tiền cho phép các doanh nghiệp mua các hàng hoá dịch vụ cần
thiết để tạo ra những hàng hoá dịch vụ để phục vụ cho mục đích trao đổi. Mọi quá
trình trao đổi đều được thực hện qua trung gian là tiền và khái niệm dòng vật chất
và dóng tiền phất sinh từ đó, tức sự dịch hcuyển hàng hoá, dịch vụ và sự dịch
chuyển tiền giữa các đơn vị và tổ chức kinh tế.
Như vậy ứng với dòng vật chất đi vào (hàng hoá, dịch vụ đầu vào) là dòng

tiền đi ra; ngược lại, tương ứng với dòng vật chất đi ra (hàng hoá, dịch vụ đầu ra)
là dòng tiền đi vào. Quy trình này được mô tả theo sơ đồ sau:
Dòng vật chất đi vào Dòng tiền đi ra (xuất quỹ)


Dòng vật chất đi ra Dòng tiền đi vào (xuất quỹ)
Sản xuất, chuyển hoá là một quá trình công nghệ. Một mặt, nó được đặc
trưng bởi thời gian chuyển hoá hàng hoá và dịch vụ, mặt khác nó đặc trung bởi yếu
tố cần thiết cho sự vận hành - đó là tư liệu lao động và sức lao động. Quá trình
công nghệ này có tác dụng quyết định đến cơ cấu vốn và hoạt động trao đổi của
doanh nghiệp.
Sản xuất
chuyển hoá
Doanh nghiệp thực hiện trao đổi hoặc với thị trường cung cấp hàng hoá dịch
vụ đầu vào hoặc với thị trường phân phối, tiêu thụ hàng hoá dịch vụ đầu ra và tuỳ
thuộc vào tính chất hoạt động sản xuất-kinh doanh của doanh nghiệp. Các quan hệ
tài chính của doanh nghiệp được phát sinh từ chính quá trình trao đổi đó. Quá trình
này quyết định đến sự vận hành của sản xuất làm thay đổi cơ cấu vốn của doanh
nghiệp. Phân tích các quan hệ tài chính của doanh nghiệp cần dựa trên hai khái
niệm căn bản là dòng và dự trữ. Dòng chỉ xuất hiện trên cơ sở tích luỹ ban đầu mỗi
hàng hoá, dịch vụ hoặc tiền trong mỗi doanh nghiệp và nó sẽ làm thay đổi khối
lượng tài sản tích luỹ của doanh nghiệp. Một khối lượng tài sản, hàng hoá, hoặc
tiền được đo tại một thời điểm là một khoản dự trữ. Quan hệ giữa dòng và dự trữ là
cơ sở nền tảngcủa tài chính doanh nghiệp. Tuỳ thuộc vào bản chất khác nhau của
các dòng dự trữ mà người ta phân biệt dòng tiền đối trọng và dòng tiền độc lập.
Hoạt động tài chính doanh nghiệp trả lời các câu hỏi chính sau đây:
- Đầu tư vào đâu như thế nào cho phù hợp với hình thức kinh doanh đã chọn,
nhằm đạt tới mục tiêu của doanh nghiệp? Từ đó đưa ra tổng tiền cần đầu tư.
- Nguồn vốn tài trợ được huy động ở đâu, vào thời điểm nào để đạt được cơ
cấu vốn tối ưu và chi phí vốn thấp nhất?

- Quản lý dòng tiền vào, dòng tiền ra sao cho đảm bảo mức ngân quỹ tối ưu
thông qua việc trả lời câu hỏi: lợi nhuận doanh nghiệp được sử dụng như thế nào?,
Phân tích đánh giá kiểm tra các hoạt động tài chính như thế nào, để thường xuyên
đảm bảo trạng thái cân bằng tài chính?, và quản lý các hoạt động tài chính ngắn
hạn như thế nào để đưa ra quyết định thu, chi phù hợp?
Nghiên cứu tài chính doanh nghiệp thực chất trả lời ba câu hỏi trên.
2-Khái niệm, ý nghĩa của phân tích tài chính doanh nghiệp
Phân tích tài chính doanh nghiệp là một khâu cơ bản trong tài chính doanh
nghiệp, có quan hệ chặt chẽ với các hoạt động khác của doanh nghiệp. Phân tích
tài chính là sử dụng tập hợp các khái niệm, phương pháp và các công cụ cho phép
xử lý các thông tin kế toán và các thông tin khác về quản lý nhằm đánh giá tình
hình tài chính của một doanh nghiệp, đánh giá rủi ro, mức độ và chất lượng hiệu
quả hoạt động của doanh nghiệp.
Trong hoạt động kinh doanh theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước, các doanh nghiệp thuộc các loại hình sở hữu khác nhau, đều bình đẳng trước
nhau trước pháp luật trong việc lựa chọn ngành nghề và các lĩnh vực kinh doanh.
Do vậy sẽ có nhiều đối tượng quan tâm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp
như: chủ doanh nghiệp, nhà tài trợ, nhà cung cấp khách hàng,... kể cả các cơ quan
nhà nước và người làm công, mỗi đối tượng quan tâm đế tình hình tài chính trên
một góc độ khác nhau. Đối với chủ doanh nghiệp và các nhà quản trị doanh
nghiệp, mối quan tâm hàng đầu của họ là khả năng phát triển, tối đa hoá lợi nhuận,
tối đa hoá giá trị sở hữu tài sản doanh nghiệp, do đó họ quan tâm trước hết tới lĩnh
vực đầu tư và tài trợ.đối với người cho vay mối quan tâm chủ yếu của họ là khả
năng trả nợ hiện tại và tương laicủa doanh nghiệp. Đối với các nhà đầu tư khác mối
quan tâm của yếu của họ là các yếu tố rủi ro, lãi suất, khả năng thanh toán...
Phân tích hoạt động tài chính doanh nghiệp mà trọng tâm là phân tích các báo
cáo tài chính và các chỉ tiêu đặc trưng tài chính thông qua một hệ thống các
phương pháp, công cụ, kỹ thuật phân tích giúp người sử dụng từ các góc độ khác
nhau, vừa đánh giá toàn diện, tổng hơpự khái quát, vừa xem xét mọôt cách chi tiết
hoạt động tài chính doanh nghiệp, để nhận biết, phán đoán, dự báo, đưa ra quyết

định tài chính, quyết định tài trợ và đầu tư phù hợp.
II-MỤC TIÊU PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH
Phân tích tài chính là sử dụng tập hợp các khái niệm, phương pháp và các
công cụ cho phép xử lý các thông tin kế toán và các thông tin khác về quản lý
nhằm đánh giá tình hình tài chính của một doanh nghiệp, đánh giá rủi ro, mức độ
và chất lượng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.
Quy trình phân tích tài chính hiện nay ngày càng được áp dụng rộng rãi ở các
đơn vị tự chủ nhất định về tài chính, các tổ chức xã hội, tập thể, các cơ quan quản
lý, tổ chức công cộng. Đặc biệt, sự phát triển của các doanh nghiệp,của ngân hàng
và của thị trường vốn đã tạo nhiều cơ hội để chứng tỏ phân tích tài chính thực sự
có ích và cần thiết.
Những người phân tích tài chính ở những cương vị khác nhau thì nhằm những
mục tiêu khác nhau
1-Đối với nhà quản trị
Nhà quản trị phân tích tài chính nhằm đánh giá hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp, xác định điểm mạnh, điểm yếu của doanh nghiệp. Đó là cơ sở để
định hướng ra quyết định của ban tổng giám đốc, giám đốc tài chính như quyết
định đầu tư, tài trợ, phân chia cổ tức,..., dự thảo tài chính: kế hoạch đầu tư, ngân
quỹ, kiểm soát các hoạt động quản lý. Mặt khác, tạo thành các chu kỳ đánh giá đều
đặn hoạt động kinh doanh tronh quá khứ, tiến hành cân đối tài chính, khả năng sinh
lời, khả năng thanh toán trả nợ, rủi ro tài chính của doanh nghiệp.
2-Đối với nhà đầu tư
Các cổ đông là các cá nhân hoặc doanh nghiệp, quan tâm trực tiếp đến tính
toán các giá trị của doanh nghiệp vì họ bỏ vốn cho doanh nghiệp thực hiện hoạt
động kinh doanh sản xuất và họ có thể chịu rủi ro từ khoản vốn đó. Do vậy, các cổ
đông cần biết tình hình thu nhập của mình có tương xứng với mức rủi ro của
khoản đầu tư mà họ chịu. Nhà đầu tư phân tích tài chính để nhận biết khả năng
sinh lãi của doanh nghiệp , đây là một trong những căn cứ giúp nhà đầu tư ra quyết
có bỏ vốn vào doanh nghiệp hay không?
Thu nhập của các cổ đông tiền chia lợi tức cổ phần và giá trị tăng thêm của

vốn đầu tư. Hai yếu tố này ảnh hưởng đén lợi nhuận kỳ vọng của doanh nghiệp.
Các nhà đầu tư thường tiến hành đánh giá khả năng sinh lợi của doanh nghiệp với
câu hỏi trọng tâm: lợi nhuận bình quân cổ phiếu của công ty sẽ là bao nhiêu? Dự
kiến lợi nhuận sẽ được nghiên cứu đầy đủ trong chính sách phân chia lợi tức cổ
phần và trong nghiên cứu rủi ro hướng các lựa chọn vào những cổ phiếu phù hợp
nhất.
3-Đối với người cho vay
Người cho vay phân tích tài chính để nhận biết khả năng vay và trả nợ của
khách hàng phân tích. Để đưa ra quyết định cho vay, thì một trong những vấn đề
mà người cho vay cần phải xem xét là doanh nghiệp thật sự có nhu cầu vay hay
không? Khả năng trả nợ của doanh nghiệp như thế nào?Bởi nhiều khi một quyết
định cho vay có ảnh hưởng nặng nề đến tình hình tài chính của người cho vay, có
thể dẫn đến tình trạng phá sản của người cho vay, hay đơn vị cho vay. Phân tích tài
chính đối với những khoản nợ dài hạn hay khoản nợ ngắn hạn cũng có sự khác
nhau.
Nếu là những khoản nợ ngắn hạn, người cho vay đặc biệt quan tâm đến khả
năng thanh toán nhanh của doanh nghiệp. Nghĩa là khả năng ứng phó của doanh
nghiệp khi khoản nợ tới hạn trả nợ.
Nếu là những khoản cho vay dài hạn, ngưòi cho vay phải tin chắc khả năng
hoàn trả và khả năng sinh lời của doanh nghiệp vì việc hoàn trả vốn và lãi phụ
thuộc vào khả năng sinh lời này
Kỹ thuật phân tích thay đổi theo bản chất và theo thời hạn của khoản vay,
nhưng cho đó là khoản vay dài hạn hay nhắn hạn thì người cho vay đều quan tâm
đến cơ cấu tài chính biểu hiện mức độ mạo hiểm của doanh nghiệp đi vay.
Ngoài ra, phân tích tài chính cũng rất cần thiết đối với người hưởng lương
trong doanh nghiệp, đối với cán bộ thuế, thanh tra, cảnh sát kinh tế, luật sư,...Dù họ
công tác ở các lĩnh vực khác nhau nhưng đều muốn hiểu biết về doanh nghiệp để
thực hiện tốt hơn công việc của họ.
III-THÔNG TIN SỬ DỤNG TRONG PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH
Trong phân tích tài chính, nhà phân tích phải thu thập, sử dụng mọi nguồn

thông tin: từ những thông tin nội bộ doanh nghiệp dến những thông tin bên ngoài
doanh nghiệp, từ thông tin số lượng đến thông tin giá trị. Những thông tin đó đều
giúp nhà phân tích có thể dưa ra được những nhận xét kết luận tinh tế và thích
đáng.
Những thông tin bên ngoài, cần lưu ý thu thập thông tin chung như các thông
tin liên quan đến cơ hội kinh doanh nghĩa là tình hình chung về kinh tế tại một thời
điểm cho trước. Trạng thái kinh tế: sự suy thoái hay tăng trưởng có tác động mạnh
mẽ đến kết quả kinh doanh. Khi cơ hội thuận lợi, các hoạt động của doanh nghiệp
được mở rộng, lợi nhuận của công ty, giá trị của công ty cũng tăng lên, và ngược
lại. Khi phân tích tài chính doanh nghiệp, điều quan trọng phải nhận thấy sự xuất
hiện mang tính chu kỳ:qua thời kỳ tăng trưởng thì sẽ đến thời kỳ suy thoái và
ngược lại. Đồng thời thu thập thông tin về chính sách thuế, lãi suất, các thông tin
về ngành kinh doanh như thông tin liên quan đến vị trí của ngành trong nền kinh tế,
cơ cấu ngành, và các sản phẩm của ngành, tình trạng công nghệ, thị phần...và các
thông tin về pháp lý, kinh tế đối với doanh nghiệp: các thông tin mà các doanh
nghiệp phải báo cáo cho các cơ quan quản lý như: tình hình quản lý, kiểm toán, kế
hoạch sử dụng kết quả kinh doanh của doanh nghiệp...
Tuy nhiên để đánh giá một cách cơ bản tình hình tài chính của doanh nghiệp,
có thể sử dụng thông tin kế toán trong nội bộ doanh nghiệp như là một nguồn
thông tin quan trọng bậc nhất. Với những đặc trưng hệ thống, đồng nhất và phong
phú, kế toán hoạt động như một nhà cung cấp quan trọng nhưng thông tin đánh giá
cho phân tích tài chính.Vả lại các doanh nghiệp có nghĩa vụ cung cấp các thông tin
kế toán cho đối tác bên trong và bên ngoài doanh nghiệp.thông tin kế toán được
phản ánh khá đầy đủ trong các báo cáo kế toán. Phân tích tài chính được thực hiện
trên cơ sở các báo cáo tài chính được hình thành thông qua việc xử lý các báo cáo
kế toán chủ yếu: đó là bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả kinh doanh, ngân quỹ
(báo cáo lưu chuyển tiền tệ).
1-Bảng cân đối kế toán
Bảng cân đối kế toán là báo cáo tài chính mô tả tìng trạng tài chính của một
doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định nào đó. Đây là báo cáo tài chính có ý

nghĩa quan trọng đối với mọi đối tượng có quan hệ sở hữu, quan hệ kinh doanh và
quan hệ quản lý với doanh nghiệp. Thông thường bảng cân đối kế toán dược trình
bày dưới dạng bảng cân đối các số dư tài khoản kế toán: một bên phản ánh tài sản,
một bên phản ánh nguồn vốn của doanh nghiệp.
Bên tài sản của bảng cân đối kế toán phản ánh giá trị của toàn bộ tài sản hiện
có đến thời điểm lập báo cáo thuộc quyền quản lý và sử dụng của doanh nghiệp: đó
là tài sản lưu động, tài sản cố định. Bên nguồn vốn phản ánh số vốn để hình thành
các loại tài sản của doanh nghiệp đến thời điểm lập báo cáo: đó là vốn chủ và các
khoản nợ.
Các khoản mục trên bảng cân đối kế toán dược sắp xếp theo khả năng chuyển
hoá thành tiền giảm dần từ trên xuống.
Bên tài sản
Tài sản lưu động: tiền chứng khoán ngắn hạn dễ bán, khoản phải thu, dự trữ
.Tài sản cố định hữu hình và tài sản cố định vô hình.
Bên nguồn vốn
Nợ ngắn hạn bao gồm nợ pahỉ trả nhà cung cấp, các khoản phải nộp,phải trả
khác nợ ngắn hạn ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác. Nợ dài hạn
bao gồm nợ dài hạn vay ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác, vay
bằng cách phát hành trái phiếu. Vốn chủ sở hữu bao gồm vốn góp ban đầu, lợi
nhuận không chia, phát hành cổ phiếu mới.
Về mặt kinh tế, bên tài sản phản ánh quy mô và kết cấu các loại tài sản; bên
nguồn vốn phản ánh cơ cấu tài trợ,cơ cấu vốn cũng có khả năng độc lập về tài
chính của doanh nghiệp.
Bên tài sản và bên nguồn vốn của bảng cân đối kế toán đều có các cột chỉ tiêu:
số đầu kỳ, số cuối kỳ. Ngoài các khoản mục có trong tài khoản nội bảng còn có
một số khoản mục ngoài bảng cân đối kế toán như: một số tài khoản thuê ngoài,
vật tư, hàng hoá nhận giữ hộ, nhận gia công, hàng hoá nhận bán hộ, ngoại tệ các
loại...
Dựa vào bảng cân đối kế toán, nhà phân tích có thể nhận biết được loại hình
doanh nghiệp, quy mô, mức độ tự chủ tài chính của doanh nghiệp.Bảng cân đối kế

toán là một tư liệu quan trọngbậc nhất giúp các nhà phân tích đánh giá được khả
năng cân bằng tài chính, kảh năng thanh toán, khả năng cânđối vốn của doanh
nghiệp.
2-Báo cáo kết quả kinh doanh
Một thông tin không kém phần quan trọng được sử dụng trong phân tích tài
chính là thông tin phản ánh trong báo cáo kết quả kinh doanh. Khác với bảng cân
đối kế toán, báo cáo kết quả kinh doanh cho biết sự dịch chuyển tiền trong quá
trình sản xuất-kinh doanh của doanh nghiệp và cho phép dự tính khả năng hoạt
động của doanh nghiệp trong tương lai. Báo cáo kết quả kinh doanh giúp nhà phân
tích so sánh doanh thu với số tiền thực nhập quỹ để vận hành doanh nghiệp. Trên
cơ sở doanh thu và chi phí, có thể xác định được kết quả sản xuất-kinh doanh: lãi
hay lỗ trong năm. Như vậy báo cáo kết quả kinh doanh phản ánh kết quả hoạt động
sản xuất-kinh doanh, phản ánh tình hình tài chính của một doanh nghiệp trong một
thời kỳ nhất định. Nó cung cấp những thông tin tổng hợp về tình hình và kết quả sử
dụng tiềm năng về vốn, lao động, kĩ thuật và trình độ quản lý sản xuất-kinh doanh
của doanh nghiệp.
Những khoản mục chủ yếu được phản ánh trên báo cáo kết quả kinh doanh:
doanh thu từ hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh thu từ hoạt động tài chính,
doanh thu từ hoạt động bất thường và chi phí tương ứng từ các hoạt động đó.
Những loại thuế như: VAT, thuế tiêu thụ đặc biệt, về bản chất không phải là
doanh thu cũng không phải là chi phí của doanh nghiệp nên không phản ánh trên
báo cáo kết quả kinh doanh. Toàn bộ các khoản thuế đối với doanh nghiệp và các
khoản phải nộp khác được phản ánh trong phần: Tình hình thực hiện nghĩa vụ với
Nhà nước.
3-Ngân quỹ (báo cáo lưu chuyển tiền tệ)
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ là một báo cáo tài chính. Nếu bảng cân đối kế toán
những nguồn lực của cải (tài sản) và nguồn gốc của những tài sản đó; và báo cáo
kết quả kinh doanh cho ta biết chi phí và thu nhậpphát sinh dể tính được kết quả
lãi, lỗ trong một kỳ kinh doanh, thì báo cáo lưu chuyển tiền tệ được lập để trả lời
những vấn đề liên quan đéen luồng tiền vào, ra trong doanh nghiệp, tình hình tài

trợ, đầu tư bằng tiền của doanh nghiệp trong từng thời kỳ.
Để đánh giá một doanh nghiệp có đảm bảo được khả năng chi trả hay không
cần tìm hiểu tình hình ngân quỹ của doanh nghiệp. Ngân quỹ thường được xác
định trong thời gian ngắn hạn (thường là từng tháng).
Xác định hoặc dự báo dòng tiền thực nhập (thu ngân quỹ), bao gồm: dòng tiền
nhập quỹ từ hoạt động kinh doanh (từ bán hàng hoá hoặc dịch vụ); dòng tiền nhập
quỹ từ hoạt động đầu tư tài chính; dòng tiền nhập quỹ từ hoạt động bất thường.
Xác định hoặc dự báo dòng tiền thực xuất quỹ (chi ngân quỹ), bao gồm: dòng
tiền xuất thực hiện sản xuất kinh doanh, dòng tiền xuất quỹ thực hiện hoạt động
đầu tư tài chính; dòng tiền xuất thực hiện hoạt động bất thường.

×