Tải bản đầy đủ (.docx) (39 trang)

THANH TOÁN QUỐC TẾ THEO PHƯƠNG THỨC TÍN DỤNG CHỨNG TỪ VÀ VẤN ĐỀ TRANH CHẤP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (209.94 KB, 39 trang )

THANH TOÁN QUỐC TẾ THEO PHƯƠNG THỨC TÍN DỤNG CHỨNG
TỪ VÀ VẤN ĐỀ TRANH CHẤP.
1. THANH TOÁN QUỐC TẾ VÀ HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN QUỐC TẾ CỦA
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
1.1. Thanh toán quốc tế.
1.1.1. Khái niệm, đặc trưng của thanh toán quốc tế .
Cùng với sự đi lên của xã hội loài người theo xu hướng tiến bộ, bất kỳ một
nước nào trên thế giới muốn phát triển đều không thể gói gọn nền kinh tế của
mình trong phạm vi quốc gia mà cần phải tham gia vào quá trình giao dịch quan hệ
với các nước khác. Sở dĩ như vậy là do có sự khác biệt về điều kiện tự nhiên như
tài nguyên, khí hậu v.v... nếu chỉ phụ thuộc vào sản xuất trong nước thì không thể
cung cấp đủ hàng hoá, dịch vụ đáp ứng nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của nền kinh
tế mà phải nhập những mặt hàng cần thiết trong nước không sản xuất được hoặc
sản xuất nhưng với giá cả cao hơn. Ngược lại, trên cơ sở khai thác tiềm năng và
những lợi thế kinh tế vốn có, nền kinh tế ngoài việc phục vụ nhu cầu nội bộ còn có
thể tạo nên những thặng dư xuất khẩu sang các nước khác, góp phần tăng ngoại tệ
cho đất nước để bù đắp nhập khẩu và trả nợ.
Vậy là do yêu cầu phát triển kinh tế mà phát sinh nhu cầu trao đổi giao dịch
hàng hoá giữa các nước với nhau. Hoạt động này ngày càng mở rộng và phát triển
đòi hỏi phải có sự tham gia của thanh toán quốc tế. Nhưng điều đó không có nghĩa
là thanh toán quốc tế chỉ bao hàm trong hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu mà
rộng hơn, đó là việc thanh toán các nghĩa vụ tiền tệ phát sinh có liên quan tới các
quan hệ kinh tế, thương mại và các mối quan hệ khác nhau giữa các tổ chức, các
công ty và các chủ thể khác nhau của các nước.
Chính điều đó đã tạo ra những đặc trưng riêng của thanh toán quốc tế có
thể nói là khác hoàn toàn so với thanh toán trong nước. Nếu phạm vi thanh toán
trong nước chỉ là trong nội bộ quốc gia đó thì trong thanh toán quốc tế đã có sự
tham gia của các yếu tố nước ngoài. Một nước có thể giao dịch với tất cả các nước
còn lại trên thế giới. Đồng tiền trong thanh toán không còn chỉ là đồng bản tệ mà là
sự có mặt của rất nhiều đồng tiền của các quốc gia khác nhau. Vì thế rủi ro hối đoái
là không thể tránh khỏi. Thêm vào đó có sự khác biệt về khoảng cách địa lý, về


ngôn ngữ giao dịch cũng như các yếu tố chính trị, pháp luật và hệ thống thuế quan.
Tất cả làm cho những điểm chung của các bên tham gia trong thanh toán quốc tế
trở nên ít hơn, dễ gặp rủi ro, bất trắc hơn và tranh chấp cũng dễ xảy ra hơn. Bởi
vậy trong thanh toán quốc tế thường có thêm một bên thứ ba tham gia vào quá
trình này nhằm bảo vệ quyền lợi cho các nhà xuất nhập khẩu và nâng cao hiệu quả
của thương mại quốc tế - đó là các Ngân hàng.
Tóm lại, thanh toán quốc tế thực sự là phức tạp, nhất là trong điều kiện hiện
nay, khi có sự tác động mạnh mẽ của thành tựu khoa học kỹ thuật, thị trường quốc
tế ngày càng mở rộng đòi hỏi nội dung hoạt động thanh toán quốc tế cũng phải đổi
mới cho phù hợp với xu hướng của thời đại.
1.1.2. Nội dung hoạt động thanh toán quốc tế.
Mỗi một quốc gia độc lập đều phải thực hiện nhiều mối quan hệ quốc tế
trên các lĩnh vực kinh tế chính trị, ngoại giao, văn hoá, hợp tác khoa học... trong đó
quan hệ kinh tế chiếm vị trí quan trọng, là cơ sở cho các quan hệ quốc tế khác.
Trong quá trình hoạt động, các quan hệ nêu trên đều liên quan tới tài chính, tức là
liên quan mật thiết đến công tác thanh toán.
Trên cơ sở các mối quan hệ ngoại thương, hoạt động thanh toán quốc tế
được chia thành hai loại bao gồm thanh toán mậu dịch và thanh toán phi mậu dịch.
Thanh toán phi mậu dịch là quan hệ thanh toán phát sinh không liên quan
đến hàng hoá cũng như cung ứng lao vụ, nó không mang tính thương mại. Đó là
những chi phí về vận chuyển và đi lại của các đoàn khách Nhà nước, các tổ chức
của từng cá nhân...
Khác hoàn toàn với thanh toán phi mậu dịch, thanh toán mậu dịch phát sinh
trên cơ sở trao đổi hàng hoá và các dịch vụ thương mại theo giá cả quốc tế (ví dụ
như hoạt động thanh toán hàng xuất, thanh toán hàng nhập...). Thông thường trong
nghiệp vụ thanh toán mậu dịch phải có chứng từ hàng hoá kèm theo. Các bên mua
bán bị ràng buộc với nhau bởi hợp đồng thương mại hoặc bởi một hình thức cam
kết khác (thư, điện giao dịch). Mỗi hợp đồng chỉ ra một mối quan hệ nhất định, nội
dung hợp đồng phải quy định rõ cách thức thanh toán dịch vụ thương mại phát
sinh.

Những nội dung đó đã phần nào phản ánh tính chất phức tạp và khẳng định
sự tồn tại của hoạt động thanh toán quốc tế như là một yếu tố khách quan của nền
kinh tế.
1.1.3. Vai trò của thanh toán quốc tế trong nền kinh tế.
Buôn bán, trao đổi hàng hoá giữa các thành viên trong xã hội đã bắt đầu từ
rất lâu trong lịch sử phát triển của con người. Khi việc trao đổi không chỉ diễn ra
giữa các cá nhân, các tổ chức kinh tế trong giới hạn của một quốc gia mà trở thành
hoạt động kinh doanh buôn bán trên phạm vi quốc tế thì nó không còn là hành vi
mua bán riêng lẻ mà là cả một hệ thống các quan hệ phức tạp có tổ chức cả bên
trong và bên ngoài nhằm mục tiêu lợi nhuận, thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển,
chuyển đổi cơ cấu kinh tế, ổn định và từng bước nâng cao mức sống của nhân dân.
Một trong những khâu quan trọng để thúc đẩy hoạt động đó là công tác thanh toán
quốc tế.
Về cơ bản, thanh toán quốc tế phát sinh dựa trên cơ sở hoạt động ngoại
thương. Thanh toán là bước cuối cùng của một quá trình sản xuất và lưu thông
hàng hoá. Vì thế, nếu công tác thanh toán quốc tế được tổ chức tốt thì giá trị của
hàng hoá xuất khẩu mới được thực hiện, góp phần thúc đẩy hoạt động ngoại
thương. Thanh toán quốc tế trở thành một yếu tố quan trọng để đánh giá hiệu quả
hoạt động kinh tế đối ngoại. Đó là sự đảm bảo cho người xuất khẩu thu được tiền
về và người nhập khẩu nhận được hàng hoá.
Chính bởi vì thanh toán có liên quan chặt chẽ tới quyền lợi của các bên nên
trong một hợp đồng mua bán hàng hoá, dịch vụ, điều khoản này bao giờ cũng được
quy định rất rõ ràng và tỉ mỉ. Mặc dù vậy vẫn luôn có những mâu thuẫn phát sinh
do người mua muốn có hàng hoá trước khi trả tiền còn người bán muốn nhận được
tiền rồi mới giao hàng hoá. Để giải quyết tình trạng này, người ta thường thông qua
một bên thứ ba độc lập được cả người mua và người bán tin tưởng. Các Ngân hàng
trở thành một đầu mối trong quá trình thanh toán quốc tế.
1.2. Hoạt động thanh toán quốc tế của Ngân hàng thương mại.
Thanh toán quốc tế là chức năng Ngân hàng quốc tế của Ngân hàng thương
mại. Nó được hình thành và phát triển trên cơ sở phát triển ngoại thương của một

nước và Ngân hàng thương mại được Nhà nước giao cho độc quyền làm công tác
thanh toán này. Do vậy, các giao dịch thanh toán trong ngoại thương đều phải
thông qua Ngân hàng. Bằng các nghiệp vụ của mình, Ngân hàng trở thành gạch nối
giữa hai bên mua bán cách nhau bởi các châu lục.
Thực ra hoạt động thanh toán quốc tế của Ngân hàng thương mại đã được
đánh dấu từ thế kỷ 17 trong các hội chợ diễn ra thường kỳ tại các địa điểm khác
nhau. Khi đó, các Ngân hàng đầu tiên thường giữ vai trò tổ chức trung gian trao
đổi cần thiết, cho phép thực hiện các giao dịch giữa những người buôn bán với
nhau từ khắp các khu vực Châu Âu và bằng các đồng tiền khác nhau. Dần dần, các
hội chợ không chỉ là trung tâm trao đổi hàng hoá mà còn là nơi thanh toán cho các
giao dịch bên trong và bên ngoài hội chợ.
Ngày nay các Ngân hàng thương mại trong nước đóng vai trò quan trọng.
Chúng thực hiện về mặt kỹ thuật những hoạt động chu chuyển với nước ngoài,
giúp cho quá trình thanh toán theo yêu cầu khách hàng được tiến hành an toàn,
nhanh chóng, tiện lợi và giảm bớt chi phí thay vì thanh toán bằng tiền mặt. Ngân
hàng bảo vệ quyền lợi khách hàng trong giao dịch thanh toán đồng thời tư vấn cho
khách hàng nhằm giảm rủi ro, tạo sự an tâm, tin tưởng trong quan hệ giao dịch với
nước ngoài. Ở đây, sự tín nhiệm là yếu tố hàng đầu. Các Ngân hàng với khả năng
tài chính dồi dào, uy tín cao được yêu cầu tham gia với tư cách bên thứ ba, sẽ cam
kết có điều kiện với người bán là sẽ trả tiền khi xuất chứng từ và đưa ra những quy
định yêu cầu người mua tuân thủ. Với cách thức này, Ngân hàng đảm bảo một cách
hợp lý quyền lợi chính đáng của hai bên mua bán, tạo điều kiện thuận lợi cho cả
những người mới tham gia vào buôn bán quốc tế. Mặt khác, trong quá trình thực
hiện thanh toán quốc tế, khách hàng không đủ khả năng tài chính cần đến sự tài trợ
của Ngân hàng, Ngân hàng cho vay để thanh toán hàng nhập khẩu, bảo lãnh thanh
toán mở L/C, chiết khấu chứng từ xuất khẩu... đáp ứng nhu cầu về vốn cho các
doanh nghiệp xuất nhập khẩu.
Thực hiện thanh toán quốc tế, Ngân hàng có thể giám sát được tình hình
kinh doanh của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, tạo điều kiện thực hiện quản lý
có hiệu quả hoạt động xuất nhập khẩu trong nước theo đúng chính sách kinh tế đối

ngoại đề ra.
Như vậy, Ngân hàng, người đảm bảo thanh toán, đã trở thành cầu nối đáng
tin cậy của nền mậu dịch thế giới. Ngân hàng chính là chất xúc tác, là người đứng
ra để cân đối quyền lợi giữa người mua và người bán thông qua việc cung cấp
những phương thức thanh toán đa dạng và phù hợp, hỗ trợ các bên tham gia vào
quá trình thanh toán quốc tế.
2. PHƯƠNG THỨC THANH TOÁN BẰNG TÍN DỤNG CHỨNG TỪ.
Trong thương mại quốc tế có rất nhiều phương thức thanh toán khác nhau
như phương thức chuyển tiền (remittance), phương thức ghi sổ (open account),
phương thức nhờ thu (collection) và phương thức tín dụng chứng từ (documentary
credit). Mỗi phương thức là một cách đảm bảo để người mua trả tiền cho người
bán.
Với phương thức chuyển tiền, khách hàng (người trả tiền) yêu cầu Ngân
hàng của mình chuyển một số tiền nhất định cho người khác (người hưởng lợi) ở
một địa điểm nhất định do khách hàng yêu cầu. Ở phương thức này, người bán sau
khi xuất hàng đã không còn khả năng kiểm soát hoạt động trả tiền của người mua
nên có thể gặp nhiều rủi ro trong trường hợp người mua không thanh toán.
Trong phương thức ghi sổ, người bán mở một tài khoản ghi nợ người mua
sau khi đã hoàn thành nhiệm vụ giao hàng hay dịch vụ và sau đó việc trả tiền được
thực hiện định kỳ.
Còn phương thức nhờ thu là phương thức mà người bán sau khi hoàn thành
nghĩa vụ giao hàng hay cung ứng một loại dịch vụ thì uỷ thác cho Ngân hàng của
mình thu hộ số tiền ở người mua trên cơ sở hối phiếu mà người bán đặt ra.
Như vậy, khi các giao dịch ngoại thương diễn ra giữa những đối tác không
quen biết, người mua và người bán chưa có sự hiểu biết về nhau thì cả ba phương
thức thanh toán trên đều có thể gây bất lợi cho nhà xuất khẩu vì không có một sự
đảm bảo nào rằng nhà nhập khẩu sẽ thực hiện nghĩa vụ của mình sau khi nhận
được hàng hoá.
Làm thế nào để sau một quá trình vận động sản xuất và lưu thông, hàng hoá
được thực hiện giá trị của mình ở khâu thanh toán để cả đôi bên nhà nhập khẩu

cũng như nhà xuất khẩu thu hồi được lãi, vốn và tiếp tục một chu kỳ tái sản xuất
mới là một vấn đề mà những người liên quan tới hoạt động đối ngoại đều quan tâm
đến. Trong trường hợp này cần có một phương thức thanh toán giao dịch thương
mại đem lại hiệu quả, đáp ứng yêu cầu cả hai bên mua bán - đó chính là phương
thức tín dụng chứng từ.
2.1. Khái niệm và các bên tham gia trong phương thức tín dụng chứng từ.
Tuỳ theo thói quen và thông lệ của từng nước mà TDCT được gọi với nhiều
tên khác nhau: Letter of credit, Credit, Document of credit. Tương tự, ở Việt Nam,
ngoài tên là TDCT còn được gọi là tín dụng thư, thư tín dụng, L/C... Trước đây, nó
được gọi là tín dụng thương mại (Commercial letter of credit) nhưng nay thì từ này
không được dùng nữa mà thông dụng nhất là "Tín dụng chứng từ " (Documentary
credit) vì nó thể hiện đúng nhất ý nghĩa tín dụng kèm chứng từ .
Phương thức tín dụng chứng từ là một sự thoả thuận trong đó một Ngân
hàng (Ngân hàng mở thư tín dụng) đáp ứng những yêu cầu của khách hàng (người
xin mở thư tín dụng) cam kết sẽ trả một số tiền nhất định cho người thứ ba (người
hưởng lợi số tiền của thư tín dụng) hoặc chấp nhận hối phiếu do người này ký phát
trong phạm vi số tiền đó khi người này xuất trình cho Ngân hàng một bộ chứng từ
thanh toán phù hợp với những quy định đề ra trong thư tín dụng.
Trong phương thức này, Ngân hàng không chỉ là trung gian thu hộ, chi hộ
mà còn là người đại diện bên nhập khẩu thanh toán tiền hàng cho bên xuất khẩu,
đảm bảo cho bên xuất khẩu nhận được khoản tiền tương ứng với hàng hoá mà họ
đã cung ứng đồng thời bên nhập khẩu nhận được số lượng hàng hoá có chất lượng
tương ứng với số tiền mình phải thanh toán. Người bán sẽ được thanh toán cho dù
người mua không thể trả tiền. Đối với Ngân hàng, đây được coi là một khoản tín
dụng cấp cho người mua vì nếu người mua không trả được tiền thì Ngân hàng phải
trả thay. Còn trong trường hợp nhà xuất khẩu phải ký quỹ 100% số tiền của thư tín
dụng thì thực chất Ngân hàng không cấp một khoản tín dụng nào mà là cho người
mua vay sự tín nhiệm của mình. TDCT cũng bảo vệ người mua ở chỗ họ bảo đảm
không bị đòi tiền cho đến khi đủ chứng từ về việc giao hàng. TDCT trở thành
phương thức thanh toán đem lại cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu một sự an

toàn lớn hơn đồng thời nâng cao vai trò của Ngân hàng trong hoạt động thanh toán
và khắc phục những mâu thuẫn của các phương thức thanh toán khác.
Tham gia vào phương thức thanh toán này có các bên liên quan sau:
• Người xin mở thư tín dụng (Applicant): là người mua, người nhập khẩu.
• Ngân hàng mở thư tín dụng (Issuing bank): là Ngân hàng đại diện cho
người nhập khẩu, cấp tín dụng cho người nhập khẩu.
• Ngân hàng thông báo (Advising bank): là Ngân hàng ở nước người
hưởng lợi, thông báo về thư tín dụng cho người hưởng lợi.
• Người hưởng lợi (Beneficiary): là người bán, người xuất khẩu hay bất cứ
người nào khác mà người hưởng lợi chỉ định.
Ngoài ra, để tăng sự an toàn cho các bên trong phương thức TDCT còn có
thể có sự tham gia của các Ngân hàng khác như:
• Ngân hàng xác nhận (Confirrming bank): trong trường hợp người bán
không tín nhiệm Ngân hàng phát hành, họ yêu cầu thư tín dụng phải được xác nhận
bởi một Ngân hàng khác gọi là Ngân hàng xác nhận. Đây thường là Ngân hàng có
uy tín cao trong thanh toán quốc tế, có trách nhiệm cùng với Ngân hàng mở trong
việc thanh toán thư tín dụng. Ngân hàng xác nhận thường là Ngân hàng thông báo
nhưng cũng có thể là Ngân hàng khác theo yêu cầu của người nhập khẩu.
• Ngân hàng chiết khấu (Negotiating bank): là Ngân hàng thanh toán, chấp
nhận chiết khấu hối phiếu do người bán ký phát và nhà xuất khẩu phải xuất trình
bộ chứng từ cho Ngân hàng này. Tuỳ theo quy định của L/C, Ngân hàng chiết khấu
thường là Ngân hàng thông báo hoặc là một Ngân hàng thứ ba nào đó do Ngân
hàng mở chỉ định.
• Ngân hàng chuyển chứng từ (Remitting bank): một Ngân hàng thay vì
phải gửi nhiều bộ chứng từ thanh toán tới các Ngân hàng mở khác, họ gửi tất cả
các chứng từ này tới một Ngân hàng gọi là Ngân hàng chuyển chứng từ. Ngân
hàng này có trách nhiệm gửi tiếp các bộ chứng từ đến Ngân hàng mở để thanh
toán.
• Ngân hàng chuyển nhượng (Transfering bank): nếu L/C cho phép chuyển
nhượng, Ngân hàng sẽ đứng ra chuyển nhượng L/C từ người hưởng lợi này sang

người khác theo yêu cầu của người hưởng lợi đầu tiên.
Và cùng với các chủ thể để góp phần tạo nên phương thức thanh toán bằng
TDCT một cách hoàn chỉnh thì thư tín dụng chính là cốt lõi, là phương tiện chủ
yếu.
2.2. Thư tín dụng (Letter of credit).
2.2.1. Khái niệm.
Thư tín dụng chứng từ là một văn bản cam kết của Ngân hàng (Ngân hàng
mở L/C) cho người thụ hưởng (người xuất khẩu) theo lệnh của người trả tiền
(người nhập khẩu) để trả ngay hoặc trả vào một thời điểm xác định trong tương lai
một số tiền xác định trên cơ sở bộ chứng từ hoàn hảo theo các điều khoản, điều
kiện quy định trong L/C.
Đây là một văn bản pháp lý quan trọng. Nó là căn cứ để Ngân hàng mở
quyết định việc trả tiền, chấp nhận hay chiết khấu hối phiếu, là cơ sở để người mua
quyết định trả tiền cho Ngân hàng mở hay không. Ngoài ra, L/C còn là một công
cụ để cụ thể hoá, chi tiết hoá hoặc bổ sung một cách đầy đủ hơn vào điều khoản
của hợp đồng mua bán cũng như để khắc phục những sai sót, những điều khoản
không có lợi trong hợp đồng hay để huỷ hợp đồng.
Mặc dù L/C được soạn thảo trên cơ sở hợp đồng mua bán ngoại thương
giữa người nhập khẩu và người xuất khẩu để chi trả số hàng người xuất khẩu đã
giao cho người nhập khẩu như đã ký kết nhưng vì L/C do Ngân hàng mở cam kết
nên nó hoàn toàn độc lập với hợp đồng. Tính chất độc lập của L/C thể hiện ở chỗ
Ngân hàng mở L/C không cần biết đến việc thực hiện hợp đồng mua bán như thế
nào mà chỉ quan tâm tới việc bộ chứng từ hoàn toàn phù hợp với những điều khoản
trong L/C là sẽ thanh toán. L/C ràng buộc các bên hữu quan tham gia vào phương
thức này và tất cả những điều kiện, điều khoản quy định trong nội dung của L/C.
Chính vì lẽ đó, L/C đã góp phần làm cho TDCT trở thành phương thức
thanh toán thương mại an toàn và đáng tin cậy được chấp nhận ở mọi nơi đối với
cả người mua và người bán.
2.2.2. Nội dung thư tín dụng.
Thông thường một thư tín dụng phải đảm bảo những nội dung cơ bản sau:

• Số hiệu của L/C.
Mỗi L/C đều được đánh số nhằm tạo điều kiện thuận tiện trong việc trao
đổi thông tin giữa các bên có liên quan trong quá trình thực hiện và để ghi vào các
chứng từ trong bộ chứng từ thanh toán.
• Địa điểm và ngày mở L/C.
Địa điểm mở L/C là nơi Ngân hàng mở L/C viết cam kết trả tiền cho người
hưởng lợi.
Ngày mở L/C là ngày bắt đầu phát sinh và có hiệu lực về sự cam kết của
Ngân hàng mở L/C đối với người hưởng lợi, tức là ngày có hiệu lực của L/C. Nó là
cơ sở để người bán kiểm tra xem người mua có thực hiện việc mở L/C đúng thời
hạn quy định hay không.
• Loại L/C.
Đây là nội dung quan trọng vì mỗi loại L/C đều có tính chất và nội dung
khác nhau, quy định quyền lợi và nghĩa vụ của các bên tham gia khác nhau.
• Tên, địa chỉ của các bên tham gia.
L/C phải ghi rõ tên của Ngân hàng mở, người xin mở L/C, người thụ
hưởng, Ngân hàng thông báo, Ngân hàng chiết khấu, Ngân hàng trả tiền, Ngân
hàng xác nhận...(nếu có).
• Số tiền của L/C.
Số tiền phải được ghi bằng số và bằng chữ, phải thống nhất với nhau; tên
đơn vị tiền tệ phải ghi cụ thể, rõ ràng. Số tiền không nên ghi rõ dưới dạng một số
tuyệt đối.
• Thời gian hiệu lực của L/C.
Đó là thời gian mà Ngân hàng mở L/C cam kết trả tiền cho người bán nếu
người này xuất trình được bộ chứng từ phù hợp với quy định của L/C trong thời
hạn đó. Nó được tính từ ngày mở L/C tới ngày hết hiệu lực của L/C.
• Thời hạn trả tiền của L/C.
L/C được trả ngay hay trả chậm. Nếu là trả chậm thì phải quy định rõ là trả
sau bao nhiêu ngày kể từ ngày nhận được bộ chứng từ hoàn chỉnh.
• Thời hạn giao hàng.

Là thời hạn bên bán phải chuyển giao hàng cho bên mua.
• Các quy định về L/C có thể chiết khấu, thanh toán hay chấp nhận (trong
trường hợp L/C trả chậm) tại đâu (tại một Ngân hàng cụ thể hay bất kỳ Ngân hàng
nào).
• Những nội dung có liên quan đến hàng hoá.
Đây là miêu tả chi tiết hàng hoá như tên hàng, số lượng, giá cả, trọng
lượng, quy cách phẩm chất, bao bì, ký mã hiệu...
• Những nội dung về vận chuyển, giao nhận hàng hoá.
Là những quy định về điều kiện giao hàng, nơi giữ hàng, giao hàng, cách
vận chuyển, nơi hàng đến.
• Các chứng từ người xuất khẩu phải xuất trình. Đây là nội dung quan
trọng của L/C.
Bộ chứng từ này là căn cứ để Ngân hàng kiểm tra mức độ hoàn thành nghĩa
vụ chuyển giao hàng hoá của người bán để từ đó có quyết định trả tiền cho người
bán hay không. L/C phải quy định rõ:
Các loại chứng từ: Thông thường một bộ chứng từ bao gồm:
Hối phiếu (Bill of exchange)
Hoá đơn thương mại (Commercial invoice)
Vận đơn (Bill of lading)
Chứng nhận bảo hiểm (Insurance policy)
Chứng nhận xuất xứ (Certificate of origin).
Danh sách đóng gói hàng (Packing list).
Chứng nhận kiểm nghiệm (Inspection certificate).
Số lượng bản của mỗi chứng từ.
Yêu cầu về việc ký phát và nội dung cụ thể của từng loại chứng từ.
• Cam kết của Ngân hàng mở L/C: Quy định trách nhiệm của Ngân hàng
mở L/C đối với L/C mà mình đã mở.
Trên đây là những nội dung cơ bản nhất của một thư tín dụng. Ngoài ra,
một thư tín dụng còn có thể có thêm những điều khoản khác như các điều khoản
đặc biệt, văn bản pháp lý áp dụng... Điều đó phần nào còn tuỳ thuộc vào loại L/C

mà người trả tiền yêu cầu Ngân hàng mở L/C thực hiện.
2.2.3. Các loại thư tín dụng.
Các loại thư tín dụng thường được sử dụng trong thanh toán quốc tế bao
gồm:
• Thư tín dụng không thể huỷ ngang (Irrevocable L/C): là loại L/C mà sau
khi được mở ra, mọi việc liên quan tới sửa đổi, bổ sung hay huỷ bỏ nó, Ngân hàng
mở L/C chỉ có thể được tiến hành trên cơ sở sự thoả thuận của các bên liên quan.
Nếu không có sự nhất trí của bên bán, của Ngân hàng xác nhận thì Ngân hàng mở
không được phép thực hiện theo yêu cầu đơn phương của bên mua, do đó quyền lợi
của bên bán được bảo đảm. Đây là loại L/C được sử dụng phổ biến trong thanh
toán quốc tế. Theo quy định trong UCP 500, nếu không có ghi chú đặc biệt thì loại
L/C sẽ được hiểu là L/C không được huỷ ngang.
• Thư tín dụng không huỷ ngang có xác nhận (Confirmed irrevocable
L/C): đây là loại L/C không thể huỷ ngang, được một Ngân hàng có uy tín hơn
đứng ra bảo đảm thanh toán cho người hưởng lợi khi Ngân hàng mở gặp các rủi ro
không có khả năng thanh toán. Nó có tính an toàn cao vì có hai Ngân hàng đứng ra
cam kết trả tiền. Ngân hàng xác nhận có thể do người hưởng lợi chỉ định hay Ngân
hàng mở lựa chọn dưới sự đồng ý của người hưởng lợi.
• Thư tín dụng không huỷ ngang miễn truy đòi (Irrevocable without
recourse L/C): là loại L/C mà sau khi người xuất khẩu được trả tiền thì Ngân hàng
mở không có quyền truy đòi tiền trong bất kỳ trường hợp nào.
Bên cạnh các loại L/C cơ bản trên còn có các loại L/C đặc biệt như:
• Thư tín dụng chuyển nhượng (Transferable L/C): thường là loại L/C
không hủy ngang cho phép chuyển từ người hưởng lợi ban đầu sang một hay
nhiều bên khác theo lệnh của người hưởng lợi đầu tiên.
• Thư tín dụng tuần hoàn (Revolving L/C): là loại L/C mà sau khi sử dụng
xong hoặc đã hết thời gian hiệu lực lại có giá trị như cũ và được sử dụng tiếp sau
một thời gian nhất định cho đến khi hoàn tất giá trị hợp đồng.
• Thư tín dụng giáp lưng (Back to back L/C): là loại L/C mở ra căn cứ vào
một L/C khác đã được mở trước làm đảm bảo.

• Thư tín dụng đối ứng (Reciprocal L/C): là loại L/C không thể huỷ ngang,
chỉ có giá trị hiệu lực khi L/C của bên đối tác được mở ra. Trong L/C ban đầu
thường phải ghi: "L/C này chỉ có giá trị khi người hưởng lợi đã mở lại một L/C đối
ứng với nó để cho người mở L/C này hưởng" và trong L/C đối ứng ghi "L/C này
đối ứng với L/C số... mở ngày... qua Ngân hàng ..." .
• Thư tín dụng dự phòng (Stand by L/C): là loại L/C mà trong đó Ngân
hàng mở L/C cam kết với người nhập khẩu là sẽ thanh toán lãi cho họ trong trường
hợp người xuất khẩu không hoàn thành nghĩa vụ giao hàng theo L/C đã đề ra đồng
thời sẽ phải bồi thường các khoản thiệt hại do mình gây ra cho người nhập khẩu.
• Thư tín dụng thanh toán dần (Deferred payment L/C): là loại L/C không
thể huỷ ngang trong đó Ngân hàng mở L/C hay Ngân hàng xác nhận cam kết với
người hưởng lợi sẽ thanh toán làm nhiều lần toàn bộ số tiền thanh toán của L/C
trong những thời gian có hiệu lực quy định rõ trong L/C đó.
• Thư tín dụng ứng trước (Packing L/C /Anticipatorry L/C): là loại L/C mà
trong đó quy định một khoản tiền được ứng trước cho người xuất khẩu vào một
thời điểm xác định trước khi bộ chứng từ hàng hoá được xuất trình. Khoản ứng
trước này thường được quy định trong một điều khoản đặc biệt nhằm tạo điều kiện
thuận lợi cho các bên liên quan trong L/C.
2.3. Quy trình nghiệp vụ thanh toán.
Thông thường, một quy trình thanh toán bằng TDCT đơn giản chỉ có sự
tham gia của 4 bên liên quan là người hưởng lợi, người xin mở L/C, Ngân hàng mở
L/C, Ngân hàng thông báo và được cụ thể hoá bằng sơ đồ sau:
Sơ đồ 1: Quy trình thanh toán bằng TDCT thông thường.
NH mở L/C
Người xin mở L/C
Người hưởng lợi
NH thông báo
(6)
(5)
(3)

(2)
(1)
(8)
(4)
(7)
(6)
(5)
(1) Người nhập khẩu làm đơn xin mở L/C gửi đến Ngân hàng phục vụ
mình yêu cầu mở một L/C cho người xuất khẩu hưởng.
(2) Căn cứ vào yêu cầu và nội dung của đơn xin mở L/C và hợp đồng
thương mại, Ngân hàng sẽ mở L/C và thông qua Ngân hàng đại lý của mình ở nước
người xuất khẩu thông báo về việc mở L/C và chuyển L/C tới nhà xuất khẩu.
(3) Khi nhận được thông báo từ Ngân hàng mở, Ngân hàng thông báo sẽ
báo cho nhà xuất khẩu về việc mở L/C đó. Khi nhận được bản gốc L/C thì gửi
ngay cho nhà xuất khẩu.
(4) Người xuất khẩu nếu chấp nhận L/C thì tiến hành giao hàng, nếu không
thì đề nghị Ngân hàng mở sửa đổi, bổ sung L/C.
(5) Sau khi giao hàng, người xuất khẩu lập bộ chứng từ thanh toán theo yêu
cầu của L/C, xuất trình qua Ngân hàng thông báo cho Ngân hàng mở để xin thanh
toán.
(6) Ngân hàng mở kiểm tra bộ chứng từ thanh toán, nếu thấy phù hợp với
L/C thì tiến hành trả tiền cho người xuất khẩu, nếu không phù hợp thì từ chối thanh
toán.
(7) Nếu bộ chứng từ đã được thanh toán, Ngân hàng mở đòi tiền người
nhập khẩu và chuyển bộ chứng từ hàng hoá cho họ.
(8) Người nhập khẩu hoàn trả tiền cho Ngân hàng.
Ngoài ra, để tăng tính an toàn, quy trình thanh toán theo phương thức
TDCT đã được mở rộng thêm với sự tham gia của các Ngân hàng khác như Ngân
hàng xác nhận, Ngân hàng chiết khấu...
Sơ đồ 2: Quy trình thanh toán TDCT mở rộng.

Người xin mở L/C
(5a)
(2a)
(4)
(6)
(1)
(4)
(5b)
(2b)
(3) )
NH thông báo và xác nhận hàngâ
và xác nhận
Người hưởng lợi
NH chiết khấu
NH hoàn trả
NH mở L/C
(7)
(1) Người mua làm đơn xin mở L/C gửi tới Ngân hàng của mình và đề
nghị L/C phải được sự xác nhận của một Ngân hàng theo yêu cầu của người bán.
(2a) Ngân hàng căn cứ vào đơn xin mở L/C và hợp đồng mua bán để mở
L/C gởi tới Ngân hàng xác nhận mà người bán yêu cầu, đề nghị xác nhận và thông
báo cho người bán về việc mở và xác nhận L/C.
(2b) Ngân hàng mở uỷ quyền cho Ngân hàng hoàn trả số tiền của L/C và
thông báo cho người bán.
(3) Ngân hàng thông báo đồng thời là Ngân hàng xác nhận, xác nhận L/C
và thông báo cho người bán.
(4) Người bán nếu đồng ý các điều khoản và điều kiện của L/C sẽ tiến
hành giao hàng và tập hợp bộ chứng từ thanh toán theo yêu cầu của L/C.
Ngân hàng chiết khấu nếu thấy bộ chứng từ phù hợp thì chiết khấu bộ
chứng từ cho người bán.

(5a) Ngân hàng chiết khấu gửi bộ chứng từ tới Ngân hàng mở.
(5b) Đồng thời gửi điện hoặc thư (theo quy định của L/C) đòi tiền tới Ngân
hàng hoàn trả. Ngân hàng hoàn trả báo có ngay cho Ngân hàng chiết khấu.
(6) Ngân hàng mở kiểm tra bộ chứng từ, nếu thấy phù hợp thì đòi tiền
người mua.
(7) Người mua trả tiền cho Ngân hàng và nhận bộ chứng từ hàng hoá.
Cùng với sự phát triển của thương mại quốc tế, các hình thức giao dịch
ngoại thương ngày càng đa dạng đòi hỏi các phương thức thanh toán cũng phải
được mở rộng để đáp ứng yêu cầu chung. Lựa chọn phương thức thanh toán nào là
hoàn toàn tùy thuộc vào sự thoả thuận của hai bên mua bán trên cơ sở xác định
mức độ rủi ro, niềm tin và quan hệ giao dịch cũng như trách nhiệm của Ngân hàng
phục vụ. Khi tham gia vào phương thức thanh toán TDCT tức là cả người xuất
khẩu lẫn người nhập khẩu đã chấp nhận một phương thức thanh toán tương đối an
toàn và hiệu quả đồng thời cũng đem lại nhiều lợi ích cho Ngân hàng phục vụ. Tuy
nhiên, đây thực sự là một phương thức thanh toán phức tạp và còn nhiều hạn chế.
Xuất phát từ việc Ngân hàng chỉ làm việc với các chứng từ và khống chế về mặt
hình thức của các chứng từ nên các yêu cầu đặt ra với người mua và người bán về
mặt chứng từ thường rất khắt khe. Chính điều đó đã gây khó khăn và cản trở cho

×