THỰC TRẠNG CÁN CÂN THANH TOÁN QUỐC TẾ VÀ VIỆC
ĐIỀU CHỈNH TẠI VIỆT NAM
2.1. Cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam
2.1.1. Cơ sở pháp lý của việc thiết lập cán cân thanh toán quốc tế ở Việt Nam
Vấn đề thiết lập cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam mới được chính
thức đưa ra vào năm 1990 kể từ khi có Pháp lệnh Ngân hàng. Ngày 16/11/1999,
chính phủ đã ban hành Nghị định số 164/1999/NĐ-CP về quản lý cán cân thanh
toán quốc tế của Việt Nam nhằm nâng cao chất lượng của bảng cán cân thanh toán.
Nghị định này qui định về việc lập, theo dõi và phân tích cán cân thanh toán quốc
tế của Việt Nam. Nó cũng chính là cơ sở pháp lý trong việc phối hợp chặt chẽ giữa
các Bộ, Ngành liên quan đến việc cung cấp số liệu. Trên cơ sở Nghị định
164/1999/NĐ-CP, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã ra Thông tư
05/2000/TT-NHNN ngày 28/3/2000 hướng dẫn thi hành một số điểm về lập cán
cân thanh toán quốc tế. Đồng thời, NHNN cũng ban hành các mẫu biểu báo cáo
cho các Bộ, các Ngành có liên quan nhằm thu thập được các thông tin theo đúng
yêu cầu của lập cán cân thanh toán.
2.1.2. Cơ cấu cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam
Theo Nghị định 164, cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam hiện hành
được biên lập theo mẫu của IMF nhưng có điều chỉnh một số mục cho phù hợp với
thực tiễn Việt Nam. Cụ thể, cán cân thanh toán của Việt Nam bao gồm các hạng
mục chính sau:
Cán cân vãng lai:
Cán cân vãng lai là tổng hợp toàn bộ các chỉ tiêu về giao dịch kinh tế giữa
người cư trú và người không cư trú về hàng hóa, dịch vụ, thu nhập của người
lao động, thu nhập từ đầu tư trực tiếp nước ngoài, thu nhập từ đầu tư vào giấy tờ
có giá, lãi vay và lãi tiền gửi nước ngoài, chuyển giao vãng lai một chiều và các
giao dịch khác theo quy định của pháp luật.
Cán cân vốn và tài chính:
Cán cân vốn và tài chính là tổng hợp toàn bộ các chỉ tiêu về giao dịch kinh tế
giữa người cư trú với người không cư trú về vốn từ nước ngoài vào Việt Nam và
chuyển vốn từ Việt Nam ra nước ngoài thuộc lĩnh vực đầu tư trực tiếp, đầu tư vào
giấy tờ có giá, vay và trả nợ nước ngoài, cho vay và thu hồi nợ nước ngoài, chuyển
giao vốn một chiều, các hình thức đầu tư khác và các giao dịch khác theo quy định
của pháp luật Việt Nam làm tăng hoặc làm giảm tài sản có hoặc tài sản nợ.
Lỗi và sai sót: do chênh lệch thống kê
Cán cân tổng thể : là tổng hợp của cán cân vãng lai và cán cân vốn tài chính.
Nguồn bù đắp :
Phần này được tổng hợp trên cơ sở những thay đổi trong tài sản có ngoại tệ
ròng, thay đổi về nợ quá hạn và các nguồn tài trợ khác.
Nhưng về các hạng mục chi tiết, do trình độ phát triển kinh tế còn thấp và do
khó khăn trong thu thập số liệu thống kê nên nội dung của cán cân thanh toán quốc
tế của Việt Nam đơn giản hơn rất nhiều so với các nước phát triển (xem phụ lục 2).
2.1.3. Nguyên tắc thiết lập cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam
Cán cân thanh toán của Việt Nam được biên lập dựa trên những nguyên tắc
sau đây:
+ Cán cân thanh toán được lập trên cơ sở các chỉ tiêu phản ánh toàn bộ các giao
dịch kinh tế giữa người cư trú và người không cư trú.
+ Đơn vị tiền tệ sử dụng trong cán cân thanh toán do Thống đốc NHNN Việt Nam
quyết định. Hiện tại, cán cân thanh toán quốc tế được lập theo đơn vị tiền tệ là đô
la Mỹ (USD).
+ Số liệu về các giao dịch kinh tế dược thống kê tại thời điểm hạch toán vào sổ
sách kế toán khi có sự thay đổi hợp pháp về quyền sở hữu.
+ Giá trị của các giao dịch kinh tế được tính theo giá thị trường. Tức là các giao
dịch kinh tế được tính theo giá thực tế đã được thoả thuận giữa người cư trú và
người không cư trú.
+ Giá trị các giao dịch kinh tế phát sinh bằng đồng Việt Nam được qui định đổi ra
đô la Mỹ theo tỷ giá như quy định hiện hành của Bộ Tài chính về hướng dẫn quy
đổi ngoại tệ ra đồng Việt Nam sử dụng trong hạch toán kế toán của doanh nghiệp.
Giá trị các giao dịch kinh tế phát sinh bằng ngoại tệ không phải là đô la Mỹ được
quy đổi ra đồng Việt Nam, sau đó quy đổi ra đô la Mỹ theo tỷ giá như quy định
hiện hành của Bộ Tài chính.
2.1.4. Trách nhiệm của các Bộ, Ngành trong việc biên lập cán cân thanh toán
Ở Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước là người chủ trì, là người lập cán cân
thanh toán quốc tế vì nó là cơ quan quản lý các Ngân hàng Thương mại, đóng vai
trò quan trọng trong việc thực thi chính sách ngoại hối nên có thể tiếp cận tốt nhất
các nguồn số liệu liên quan đến cán cân thanh toán. Điều này đã được ghi rõ trong
Pháp lệnh Ngân hàng và Nghị định 164/1999/NĐ-CP. Ngoài ra, trong Nghị định
164 đã qui định rất rõ trách nhiệm của các Bộ và các Ngành trong việc cung cấp
các thông tin, số liệu dự báo và số liệu thực tế về các giao dịch kinh tế giữa người
cư trú và người không cư trú và những số liệu có liên quan khác cho NHNN.Trách
nhiệm của các Bộ, các Ngành liên quan đã được NHNN cụ thể hoá thông qua trách
nhiệm cung cấp thông tin, số liệu theo các mẫu biểu quy định trong Thông tư
hướng dẫn 05/2000/TT-NHNN.
Cán cân thanh toán quốc tế có liên quan đến hoạt động kinh tế - tài chính của
toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Nếu thiếu sự quan tâm hoặc phân tích không chuẩn
xác sẽ có ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển kinh tế của đất nước. Do vậy,
theo dõi và phân tích cán cân thanh toán để từ đó đề xuất các chính sách, biện pháp
điều chỉnh là công việc thường xuyên, cần thiết và rất quan trọng. Theo Nghị định
164, việc lập, theo dõi và phân tích cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam được
giao cho NHNN Việt Nam chủ trì phối hợp cùng với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ
Tài chính, Bộ Thương mại, Tổng cục Thống kê, Tổng cục Hải quan.
2.1.5. Tình hình thu thập số liệu cán cân thanh toán quốc tế ở Việt Nam
Năm 1990, Việt Nam chính thức bắt đầu thiết lập cán cân thanh toán quốc tế.
Tuy nhiên, Việt Nam đã gặp phải một số khó khăn do sự chuyển đổi nền kinh tế từ
kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường. Hầu hết các số liệu thu thập
trong thời kỳ kế hoạch hoá không phù hợp với mục đích của lập cán cân thanh
toán. Thực tế yêu cầu các nguồn số liệu phải theo tiêu chuẩn quốc tế như Thống kê
thương mại quốc tế (ITS), Hệ thống báo cáo giao dịch quốc tế, Bản điều tra doanh
nghiệp, thu nhập từ các hộ gia đình. Chính vì vậy, Việt Nam đã gặp không ít khó
khăn trong việc thu thập số liệu một cách đầy đủ.
Từ năm 1993 đến nay, NHNN Việt Nam đã có rất nhiều cố gắng trong việc
cải tiến phương pháp thu thập số liệu để thực hiện tốt nhiệm vụ lập và theo dõi tình
hình thực hiện cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam. NHNN đã đưa ra một hệ
thống mẫu biểu để các tổ chức tín dụng báo cáo về các giao dịch đối ngoại của các
khác hàng mở tài khoản tại hệ thống ngân hàng như báo cáo về thanh toán xuất
nhập khẩu hàng hoá, thanh toán phi mậu dịch và chuyển tiền, báo cáo tình hình vay
và trả nợ nước ngoài...Qua các mẫu biểu báo cáo này, NHNN yêu cầu các tổ chức
tín dụng được phép kinh doanh ngoại hối trên toàn quốc báo cáo định kỳ hàng
tháng, hàng quý cho NHNN qua mạng vi tính của hệ thống ngân hàng hay bằng
văn bản. Bên cạnh đó, NHNN còn thu thập các số liệu liên quan đến cán cân thanh
toán quốc tế từ các Bộ, các Ngành khác theo các mẫu biểu đã quy định. Do có sự
phối hợp giữa NHNN với các Bộ, các Ngành cùng với sự biến đổi về chất trong
nguồn số liệu thu thập nên bảng cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam ngày
càng được nâng cao về mặt chất lượng. Tuy nhiên trong thực tế vẫn còn tồn tại
nhiều khó khăn, bất cập làm ảnh hưởng tới độ chính xác, kịp thời trong thống kê
cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam.
2.2. Thực trạng cán cân thanh toán quốc tế và việc điều chỉnh của
Việt Nam
Theo bảng số liệu thống kê cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam do IMF
công bố (phụ lục 1), chúng ta nhận thấy trong giai đoạn từ năm 1990-1998, cán cân
vãng lai của Việt Nam luôn bị thiếu hụt. Cán cân vốn và tài chính đã không đủ để
bù đắp cho thiếu hụt cán cân vãng lai. Kết quả là cán cân thanh toán quốc tế của
Việt Nam đã rơi vào tình trạng thâm hụt kéo dài. Trong giai đoạn này, Việt Nam đã
phải sử dụng đến những biện pháp tài trợ như xin giãn nợ và giảm nợ. Chính điều
này đã làm giảm uy tín của Việt Nam trên thị trường tài chính quốc tế. Tuy nhiên
trong giai đoạn từ năm 1999 đến nay, mặc dù trong điều kiện nước ta luôn thiếu
vốn, tiết kiệm trong nước không đủ đáp ứng nhu cầu đầu tư nhưng đã kiểm soát và
làm giảm được thâm hụt cán cân vãng lai, đẩy mạnh hoạt động thu hút vốn đầu tư
nước ngoài, tăng cường dự trữ ngoại tệ. Kết quả là cán cân vãng lai tuy còn thâm
hụt nhưng cán cân thanh toán tổng thể của Việt Nam đã thặng dư. Theo đó, vị thế
tài chính đối ngoại của nước ta trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao.
2.2.1. Cán cân vãng lai
Từ năm 1990 trở lại đây, Việt Nam đã thực hiện chuyển đổi từ nền kinh tế kế
hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
Chính vì vậy, hoạt động kinh tế đối ngoại của Việt Nam ngày càng mở rộng và các
giao dịch kinh tế quốc tế đã tăng lên một cách nhanh chóng. Tuy cán cân vãng lai
của Việt Nam luôn bị thiếu hụt trong nhiều năm liền nhưng hiện nay mức thâm hụt
của nó có thể tài trợ được và đang có xu hướng được cải thiện.
Bảng 3: Tài khoản vãng lai của Việt Nam tính theo % GDP
(% GDP)
1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001
-3,17 -1,49 -0,08 -10,6 -7,34 -8,99 -9,92 -5,93 -3,84 4,53 2,96 1,56
Nguồn: rút ra từ phụ lục 1
Bảng 3 cho thấy rằng, từ năm 1990 thiếu hụt cán cân vãng lai của Việt Nam
(tính theo % GDP) giảm mạnh và đến năm 1992 thì gần như là cân bằng. Điều đó
là do nguồn tài trợ truyền thống từ Hội đồng hỗ trợ kinh tế chung (CMEA), đặc
biệt là từ Liên Xô cũ đã cạn kiệt. Từ năm 1993, Việt Nam nhận được các nguồn tài
trợ từ nhiều nước khác, kết quả là thiếu hụt cán cân vãng lai tăng vọt lên chiếm tới
10,6 % GDP. Ba năm tiếp theo thiếu hụt cán cân vãng lai dao động trong khoảng từ
7- 10 % GDP. Sở dĩ giai đoạn này có sự thâm hụt cán cân vãng lai lớn như vậy là
do đây là thời kỳ luồng vốn đầu tư trực tiếp (FDI) vào Việt Nam tăng trưởng rất
nhanh, các chi tiêu của FDI vào nhập khẩu máy móc thiết bị cũng không ngừng
tăng lên. Trong những năm 1997-1998, thâm hụt cán cân vãng lai thu hẹp và trở
nên thặng dư vào năm 1999. Lý do là chính phủ đã nỗ lực kiểm soát hàng nhập
khẩu. Thêm nữa, khủng hoảng khu vực (và sự yếu kém về cơ cấu của nền kinh tế
Việt Nam) đã ảnh hưởng tiêu cực lên nguồn thu FDI của Việt Nam, cả số dự án
mới lẫn số chi tiêu của những dự án được cấp phép hoạt động đã giảm mạnh sau
năm 1998. Do đó, thiết bị và máy móc nhập khẩu có liên quan tới FDI cũng giảm.
Trong năm 1999, việc khôi phục các nền kinh tế khu vực dẫn đến việc tăng nhu
cầu hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam. Cũng trong năm 1999, lần đầu tiên, với tỷ lệ
tăng trưởng của hàng nhập khẩu thấp, cán cân vãng lai đã chuyển sang trạng thái
thặng dư. Trong những năm tiếp theo, tốc độ tăng nhập khẩu cao hơn tốc độ tăng
xuất khẩu và kết quả là thặng dư cán cân vãng lai dần dần bị thu hẹp. Đến năm
2003, thâm hụt cán cân vãng lai của Việt Nam chiếm khoảng 3% GDP so với việc
đã thặng dư trong năm 2001 do sự tăng trưởng khá mạnh của nhập khẩu lớn hơn so
với xuất khẩu và luồng vốn FDI vào Việt Nam đang dần được phục hồi.
2.2.1.1. Cán cân thương mại
Bảng 4: Cán cân thương mại của Việt Nam 1990-2001
(Triệu USD)
1990 1991 1992 1993 1994 1995
Cán cân thương mại
Xuất khẩu
Nhập khẩu
Cán cân thương mại/GDP (%)
Tốc độ tăng xuất khẩu (%)
Tốc độ tăng nhập khẩu (%)
-41
1731
1772
-0,5
31,1
6,1
-63
2042
2105
-0,76
18,0
18,8
-60
2475
2535
-0,61
21,2
20,4
-1177
2985
4162
-8,94
20,6
64,2
-1190
4054
5244
-7,3
35,8
26,0
-2345
5198
7543
-11,24
28,2
43,8
1996 1997 1998 1999 2000 2001
Cán cân thương mại
Xuất khẩu
Nhập khẩu
Cán cân thương mại/GDP (%)
Tốc độ tăng xuất khẩu (%)
Tốc độ tăng nhập khẩu (%)
-3143
7337
10480
-12,82
41,1
38,9
-1315
9145
10460
-4,69
24,6
-0,2
-981
9365
10346
-3,52
2,4
-1,1
1080
11540
10460
3,81
23,2
1,1
628
14308
13680
2,08
24
30,8
373
15292
14919
1,14
6,9
9,1
Nguồn: rút ra từ phụ lục 1
Nhìn vào bảng 4, ta thấy rằng trong suốt những năm 1990-1992 thâm hụt
cán cân thương mại khá khiêm tốn, trung bình ở mức 50 triệu USD mỗi năm. Hàng
xuất khẩu thích ứng một cách nhanh chóng và tích cực theo những cải cách cơ chế
thị trường dẫn đến tốc độ tăng trưởng xuất khẩu tăng trung bình 23,4% mỗi năm.
Con số này cao hơn rất nhiều mức tăng trưởng nhập khẩu hàng năm là 15,1% (do
giảm ở một số hàng hoá nhập khẩu chính như xi măng và phân bón từ Liên Xô cũ).
Kể từ năm 1993, thâm hụt thương mại đã tăng lên nhanh chóng do tốc độ
tăng hàng nhập khẩu tăng đột ngột lên tới 64,2% gấp hơn ba lần so với tốc độ tăng
xuất khẩu (20,6%). Thâm hụt thương mại đã lên tới mức báo động vào năm 1996
(chiếm 12,82% GDP). Tuy nhiên mức thâm hụt thương mại thấp hơn rất nhiều
trong hai năm 1997-1998 do chính phủ đã thực hiện một số biện pháp để làm giảm
nhịp độ tăng trưởng nhập khẩu vào cuối năm 1996. Các biện pháp chính được áp
dụng bao gồm: nâng cao tiền đặt cọc khi mở L/C đối với nhập khẩu hàng tiêu
dùng; cấm tạm thời đối với nhập khẩu một số hàng hoá; yêu cầu giấy phép nhập
khẩu của các xí nghiệp liên doanh; thực hiện thay thế nhập khẩu đối với một số sản
phẩm như xi măng và giấy bằng cách đánh thuế cao đối với các sản phẩm nhập
khẩu cùng loại (sử dụng hàng rào thuế quan). Như vậy là trong giai đoạn 1997-
1998, mặc dù thiếu hụt thương mại giảm nhưng nó không phải kết quả của tăng
xuất khẩu mà là giảm nhập khẩu.
Trong năm 1999, lần đầu tiên sau một thập kỷ luôn thâm hụt, cán cân thương
mại đã trở nên thặng dư do tăng trưởng xuất khẩu tăng liên tục (23,2%) trong khi
tỷ lệ tăng nhập khẩu vẫn giữ ở mức thấp (1,1%). Nhưng từ năm 2000 đến nay, mức
độ thặng dư thương mại đã giảm dần, cán cân thương mại có xu hướng xấu đi. Lý
do chủ yếu là hàng nhập khẩu được phục hồi rất mạnh mẽ, đó là nhờ một số nới
lỏng trong việc kiểm soát nhập khẩu (chẳng hạn như giảm thuế nhập khẩu một số
mặt hàng xuống 0%). Việc nới lỏng trong kiếm soát nhập khẩu là điều không thể
tránh khỏi trong bối cảnh Việt Nam đang tăng cường các quan hệ hợp tác kinh tế
quốc tế nhằm gắn kết thị trường nội địa với thị trường quốc tế. Hiện nay, Việt Nam
là thành viên của AFTA, ASEAN, APEC và đang đàm phán để gia nhập WTO.
Hơn nữa, khi Việt Nam có quan hệ kinh tế thương mại với gần 200 quốc gia và
vùng lãnh thổ, ký hơn 80 hiệp định thương mại song phương, đã ký hiệp định
thương mại với Hoa Kỳ, tự do thương mại đã cam kết thì việc sử dụng các hạn chế
thương mại không còn phù hợp với tình hình hiện nay.
Trên đây là những đánh giá thực trạng cán cân thanh toán của Việt Nam từ
năm 1990 đến nay theo số liệu thống kê của IMF. Như đã đề cập ở phần trên, do
cách xác định giá trị xuất nhập khẩu của IMF và của Việt Nam khác nhau nên dẫn
đến sự sai lệch trong số liệu thống kê về cán cân thương mại của Việt Nam. Để có
thể theo dõi tình trạng cán cân thương mại sát với thực tế ở Việt Nam hơn, chúng ta
có thể tham khảo nguồn số liệu của Tổng cục thống kê Việt Nam qua bảng dưới
đây:
Bảng 5: Tình hình xuất nhập khẩu háng hoá của Việt Nam 1990-2003
Năm Trị giá xuất khẩu Tốc độ tăng xuất
khẩu (%)
Trị giá nhập khẩu Tốc độ tăng nhập
khẩu (%)
Thâm hụt
thương mại
1990 2404,0 23,5 2752,4 7,3 -348,4
1991 2087,1 -13,2 2338,1 -15,1 -251,0
1992 2580,7 23,7 2540,7 8,7 40,0
1993 2985,2 15,7 3924,0 54,4 -938,8
1994 4054.3 35,8 5825,8 48,5 -1771,5
1994 5448,9 34,4 8155,4 40,0 -2706,5
1996 7255,9 33,2 11143,6 36,6 -3887,7
1997 9185,0 26,6 11592,3 4,0 -2407,3
1998 9360,3 1,9 11499,6 -0,8 -2139,3
1999 11541,4 23,3 11742,1 2,1 -200,7
2000 14483,0 25,5 15636,5 33,2 -1153,5
2001 15029,0 3,8 16218,0 3,7 -1189,0
2002 16530,0 10 19300,0 19 -2770,0
2003 19880,0 20,3 24990,0 29,5 -5110,0
Ghi chú: Số liệu 1990-1993: đơn vị là triệu Rup-USD
Số liệu 1994-2003: đơn vị là triệu USD
Nguồn: Số liệu 1990-2001 (Niên giám thống kê 2002 – Tổng cục thống kê)
Số liệu 2002-2003 (Các thông số kinh tế vĩ mô của Việt Nam 2002, 2003)
Mặc dù theo số liệu thống kê của Tổng cục thông kê thì từ năm 1999 chưa
có năm nào cán cân thương mại của Việt Nam thặng dư song xu hướng xấu đi hay
tốt lên của cán cân thương mại cũng tương đương như số liệu của IMF. Từ năm
1990-1992, thâm hụt thương mại là nhỏ nhưng đến năm 1993 thì tăng vọt lên và
tiếp tục tăng ở các năm tiếp theo. Thâm hụt thương mại đã tăng đến mức báo động
vào năm 1996. Từ năm 1997 thì thâm hụt thương mại bắt đầu giảm mạnh, đạt mức
thấp nhất vào năm 1999 với mức thâm hụt là 200,7 triệu USD. Từ năm 2000 đến
nay thì tình hình cán cân thương mại có xu hướng xấu đi, mức thâm hụt thương
mại ngày càng tăng lên do nhập khẩu không ngừng tăng lên.
Để có thể đánh giá cụ thể hơn về tình hình xuất khẩu của Việt Nam chúng ta
sẽ phân tích sâu về thành phần xuất nhập khẩu chủ yếu và những thị trường xuất
nhập khẩu chính của Việt Nam trong những năm qua.
Thành phần xuất khẩu (xem bảng 6)
Thành phần của hàng xuất khẩu đã có những thay đổi khá ý nghĩa. Trong
những năm 1991-1993, những mặt hàng xuất khẩu chiếm tỷ trọng lớn trong tổng
giá trị xuất khẩu là dầu thô, thuỷ sản và nông sản. Từ năm 1994 đến nay, tuy dầu
thô và thuỷ sản vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhưng hai mặt hàng dệt may và giày dép đã
có những bước tiến ngoạn mục vượt mặt hàng gạo trở thành mặt hàng xuất khẩu
chủ lực.
Từ năm 1991 đến nay, dầu thô luôn là mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt
Nam. Trong suốt những năm 1991-1993, tỷ trọng dầu thô chiếm khoảng 30% tổng
giá trị xuất khẩu nhưng sau đó đã giảm xuống dưới 20%. Cho đến tận năm 2000, tỷ
trọng xuất khẩu dầu thô mới tăng lên chiếm 24,2% tổng giá trị xuất khẩu và cho
đến nay nó tiếp tục dao động trong khoảng 20%. Mặc dù tỷ trọng trong tổng xuất
khẩu giảm nhưng giá trị của nó vẫn tăng lên đạt 1,22 tỷ USD năm 1998 và 3,5 tỷ
USD năm 2000. Nguồn thu từ khoản này có thể bù đắp cho nhập khẩu xăng dầu,
khoản được coi là lớn nhất trong tổng nhập khẩu.
Việt Nam cũng có những thay đổi lớn trong sản xuất gạo. Từ một nước nhập
khẩu gạo (400.000 tấn năm 1987), Việt Nam đã trở thành một nước xuất khẩu gạo
hàng đầu thế giới (1,4 triệu tấn năm 1989). Trong suốt những năm 90, tỷ trọng xuất
khẩu gạo chiếm từ 10 - 12% tổng giá trị xuất khẩu, là mặt hàng xuất khẩu chủ lực
của Việt Nam. Xuất khẩu gạo của Việt Nam tăng cả về chất lượng và giá trị. Hiện
nay, Việt Nam đẫ trở thành 1 trong 3 nước xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới (Việt
Nam, Thái Lan, Ấn Độ). Tuy nhiên, từ năm 1999 trở lại đây, tỷ trọng xuất khẩu
gạo trong tổng giá trị xuất khẩu đã giảm xuống và đến năm 2003 chỉ chiếm 4% do
có sự tăng trưởng vượt bậc của các mặt hàng xuất khẩu khác như hàng dệt may,
giày dép, thuỷ sản (Việt Nam nằm trong tốp các nước dẫn đầu về xuất khẩu thuỷ
sản).
Xuất khẩu hàng dệt may đã có sự tăng trưởng mạnh, đuổi kịp và vượt hai
mặt hàng gạo và thuỷ sản. Từ năm 1995, dệt may đã trở thành mặt hàng xuất khẩu
lớn thứ hai sau dầu thô với doanh thu hơn tỷ USD. Tuy nhiên, đây là mặt hàng gia
công, sử dụng nhiều nguyên liệu đầu vào nhập khẩu nên kèm theo sự tăng trưởng
trong xuất khẩu thì nó cũng làm cho giá trị nhập khẩu tăng thêm. Nhưng ngành này
vẫn được Chính phủ quan tâm vì nó có khả năng thu hút một số lượng lao động lớn