Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ HOẠT ĐÔNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (217.12 KB, 23 trang )

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ HOẠT
ĐÔNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
I.SỰ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
Ngân hàng ra đời bắt nguồn từ những người thợ kim hoàn khoảng thế kỷ
XV.Những người giàu có, có một lượng lớn tiền; các thương gia hàng hoá buôn
bán hàng hoá giữa các địa phương với nhau thu đươc nhiều loại tiền khác nhau (vì
mỗi địa phương dùng một loai tền riêng) nên dể đổi tiền thì phải mua hàng ở
những nơi có tiền đó. Vì vậy họ gửi tiền cho những người thợ kim hoàn và nhận
dược một giấy chứng nhận gửi tiền. Thương gia tiền tệ ra đời với nhiệm vụ giữ hộ
tiền và thu phí, trong két của họ luôn có lượng tiền dư nên họ nảy sinh ý kiến cho
vay để nhận lãi và ngày càng muốn thu được nhiều lợi nhuận hơn đã khuyến khích
họ cần có nhiều tiền hơn, dẫn đến thu hút lượng tiền gửi bằng cách giảm phí gữi
tiền rồi không thu phí, cuối cùng là trả lãi cho người gửi. Những người thợ kim
hoàn trở thành người kinh doanh tiền tệ. Thương gia hàng hoá lợi dụng vai trò gữi
hộ tiền để thanh toán hộ mình qua giấy tờ họ phát hành, đây chính là hoạt động
thanh toán hộ.
Khi có một tổ chức thực hiện cả 3 nghiệp vụ: huy động vốn, cho vay và
trung gian thanh toán thì được gọi là Ngân hàng.
Trong thế kỷ XV-XVII, hệ thống ngân hàng gồm các Ngân hàng tư nhân tồn tại
độc lập với nhau, đăc thù các Ngân hàng thời kì này là ngoài 3 nghiệp vụ trên còn
có thể phát hành tiền trên cơ sở số vàng dự trữ.
Giai đoạn từ cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XX, xảy ra hiên tượng do sự phát
triển mạnh mẽ về kinh tế đã kích thích các Ngân hàng tư nhân chạy theo lợi nhuận
mà phát hành ồ ạt tiền giấy không căn cứ vào lượng vàng dự trữ hoặc cho vay gần
hết số vốn huy động được làm cho khả năng thanh toán của Ngân hàng thường
xuyên bị đe doạ. Khi nền kinh tế rơi vào suy thoái, một loạt các Ngân hàng sụp đổ
gây hậu quả nghiêm trọng cho nền kinh tế. Chính phủ các quốc gia quyết định can
thiệp, hạn chế số ngân hàng đuợc phép phát hành tiền. Từ đây hệ thống Ngân hàng
phân ra làm 2 loại:
+Các ngân hàng phát hành: là các Ngân hàng đựơc phép phát hành tiền. Về
sau thì chỉ có duy nhất 1 ngân hàng phát hành và được giao thêm nhiệm vụ quản lý


các ngân hàng khác, ngày nay được gọi là NHTW (Việt Nam: NHNN)
+ Ngân hàng thương mại: không dược phép phát hành tiền, chỉ được kinh
doanh trong lĩnh vực tiền tệ.
NHTM ra đời và phát triển qua một quá trình lâu dài của lịch sử xã hội loài
người. Nó tồn tại và phát triển trên cơ sở sản xuất và lưu thông hàng hoá. Với chức
năng làm trung gian tín dụng, trung gian thanh toán và chức năng tạo tiền đề để
phục vụ cho nền kinh tế quốc dân.
NHTM hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng
với trách nhiệm hoàn trả. Ngân hàng sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện
nhiệm vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán. NHTM hoạt động kinh doanh
vừa với danh nghĩa là một doanh nghiệp tổ chức hạch toán kinh tế – kinh doanh,
vừa với vai trò trung gian tài chính, trung gian thanh toán trong nền kinh tế. Với
vai trò trung gian tài chính, NHTM tập trung mọi nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi
trong nền kinh tế và phân phối chúng cho các nhu cầu hoạt động sản xuất kinh
doanh của các doanh nghiệp theo nguyên tắc tín dụng (hoàn trả và thu lợi nhuận
góp phần đẩy nhanh tốc độ luân chuyển hàng hoá - tiền tệ trong nền kinh tế. Với
chức năng làm trung gian thanh toán, NHTM thực hiện mọi khoản thanh toán chi
trả về hàng hoá và dịch vụ đáp ứng nhu cầu thị trường tăng nhanh thông qua mở tài
khoản cho khách hàng thanh toán bằng các phương thức khác nhau (séc, uỷ nhiệm
chi, uỷ nhiệm thu, L/C …). Nó tạo điều kiện thuận lợi cho quan hệ thanh toán giữa
các tổ chức kinh tế trong nước và các tổ chức trong xã hội, giảm được khối lượng
tiền mặt trong lưu thông và giảm được chi phí thanh toán, chi phí lưu thông tiền
mặt. Do đó, hoạt động của NHTM gắn bó mật thiết với hệ thống lưu thông tiền tệ
và hệ thống thanh toán trong nước, đồng thời có mối quan hệ quốc tế.
Chức năng tạo tiền: là khả năng mở rộng tiền gửi làm nhiều lần của hệ thống
NHTM. Quá trình tạo tiền là quá trình liên kết chặt chẽ giữa hoạt động tín dụng và
hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt của hệ thống NHTM. Nhờ đó mà từ một
khoản tiền gửi ban đầu sẽ đựơc nhân lên rất nhiều lần (phụ thuộc vào hệ số gia
tăng tiền gửi) mặc dù một NHTM chỉ có thể cho vay vốn trong phạm vi tiền gửi
mình có. Chức năng tạo tiền làm tăng thêm nguồn vốn để phục vụ sản xuất lưu

thông hàng hoá, đồng thời tiết kiệm được tiền mặt trong lưu thông.
II.CÁC HOẠT ĐỘNG CHỦ YẾU CỦA NHTM.
1. Hoạt động huy động vốn.
Hoạt động huy động vốn là hoạt động quan trọng, là cơ sở cho các hoạt động
khác của ngân hàng. Thông qua hoạt động này, Ngân hàng tập hợp được những
khoản tiền nhỏ lẻ, phân tán tạm thời chưa sử dụng với những thời hạn hết sức khác
nhau thành một khoản tiền lớn nhằm tài trợ lại cho nền kinh tế, cho những cá nhân
có nhu cầu sử dụng tiền khi chưa có thu nhập.
Nguồn vốn của NHTM gồm:
 Vốn tự có: (còn gọi là vốn chủ sở hữu) được tạo lập bằng cách phát hành cổ
phiếu hoặc do NSNN cấp, bằng các quỹ như: Quỹ dự trữ, phần lợi nhuận chưa chia
hoặc các qũy đặc biệt khác chưa sử dụng như Quỹ phát triển kỹ thuật nghiệp vụ;
Quỹ khen thưởng; Quỹ phúc lợi; Quỹ khấu hao tài sản cố định; Quỹ khác… Vốn tự
có của ngân hàng nhỏ, nhưng lại có ý nghĩa quan trọng nó thể hiện thế lực tài chính
của mình, là cơ sở để mở rộng quá trình tập trung huy động vốn, cho vay, mở rộng
phạm vi hoạt động. Vốn tự có còn được coi là “cái đệm” để chống đỡ các tổn thất,
các khoản giảm giá bên tài sản có, tránh cho Ngân hàng bị phá sản.
 Vốn huy động: là nguồn vốn do ngân hàng thu hút được qua nghiệp vụ nhận
tiền gửi và các ngiệp vụ khác để tạo vốn kinh doanh. Các khoản tiền gửi này không
thuộc quyền sở hữu của Ngân hàng, nhưng Ngân hàng được quyền sử dụng đối với
những khoản tiền tạm thời nhàn rỗi. Đây là nguồn vốn chủ yếu, chiếm tỷ trọng lớn
nhất trong tổng nguồn vốn hoạt động của Ngân hàng. Tuy nhiên, trong đó có một
bộ phận đáng kể luôn luôn biến động, do vậy khi sử dụng, Ngân hàng phải luôn dự
trự để đảm bảo khả năng thanh toán chi trả. Ngoài ra, các NHTM còn huy động
vốn từ việc vay NHNN, vay trên thị trường liên ngân hàng, vay từ thị trường vốn
thế giới hoặc vốn do được tài trợ, nhận uỷ thác đầu tư…
2.Hoạt động sử dụng vốn.
Hoạt động sử dụng vốn được tiến hành thông qua hoạt động ngân quỹ, hoạt
động tín dụng và hoạt động đầu tư.
Một NHTM, để tồn tại và phát triển, trước tiên phải đảm bảo khả năng thanh

toán. Nếu Ngân hàng không thanh toán được cho khách hàng sẽ dẫn đến sự ồ ạt rút
tiền trong dân chúng và sự sụp đổ là điều khó có thể tránh. Để tránh rủi ro này,
Ngân hàng luôn có hoạt động về ngân quỹ nhằm đảm bảo khả năng thanh toán. Vì
vậy, hoạt động ngân quỹ là sự bảo hiểm cho Ngân hàng trước những chi phí khi có
luồng tiền mặt lớn rút ra.
Xét trên góc độ kinh doanh, thì hoạt động tín dụng là hoạt động quan trọng nhất,
quyết định sự tồn tại của Ngân hàng. Nếu không cho vay được, sẽ không có thu
nhập thì Ngân hàng sẽ bị phá sản. Hoạt động tín dụng bao gồm: hoạt động cho vay,
hoạt động chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá khác, bảo lãnh, cho thuê tài
chính và các hình thức khác theo quy định của NHNN. Phần lớn nguồn vốn của
NHTM được sử dụng để cho vay (chiếm khoảng 70%). Có nhiều loại cho vay khác
nhau tuỳ theo phương thức phân lọai: theo thời hạn cho vay, theo mục đích sử dụng
vốn vay, theo đối tượng vay, theo hình thức bảo đảm vốn vay… Vì đây là nguồn
mang lại lợi nhuận chủ yếu nhưng có độ rủi ro cao nên các Ngân hàng cần phải
quan tâm nâng cao chất lượng của hoạt động này.
Hoạt động đầu tư: chủ yếu tập trung vào thị trường chứng khoán, thông thường
Ngân hàng mua bán chứng khoán có chất lượng cao và tương đối dài hạn trên thị
trường như tín phiếu kho bạc, các giấy tờ có giá khác và thu lãi thông qua chênh
lệch giá bán và giá mua. Mặt khác, NHTM cũng đầu tư thông qua mua bán các
chứng khoán có tính lỏng cao nhằm thu lợi nhuận và hỗ trợ cho dự trữ Ngân hàng.
3.Hoạt động trung gian thanh toán.
Ngân hàng thực hiện các dịch vụ theo yêu cầu của khách hàng, thông qua đó
nhận được thu nhập dưới dạng phí dịch vụ hay hoa hồng. Qua sự uỷ thác của khách
hàng, Ngân hàng chuyển tiền, thu- chi hộ các khoản tiền căn cứ vào chứng từ mà
khách hàng giao cho. Các dịch vụ chủ yếu như: dịch vụ thanh toán hộ, dịch vụ
chuyển tiền, đại lý phát hành và bán chứng khoán cho các công ty, dịch vụ tư vấn,
dịch vụ bảo quản hiện vật quý, giấy tờ có giá,cho thuê tủ két, cầm đồ và các dịch
vụ khác theo quy định của pháp luật.
Các họat động này có độ rủi ro thấp hơn hoạt động tín dụng trong khi vẫn
đem lại nguồn thu nhập lớn cho Ngân hàng.

Tóm lại, tất cả các hoạt động của NHTM đều rất quan trọng và liên quan
chặt chẽ với nhau. Hoạt động huy động vốn là tiền đề tạo vốn tích lũy cho các hoạt
động khác. Hoạt động tín dụng và đầu tư đem lại thu nhập cho Ngân hàng. Còn các
hoạt động dịch vụ thu hút thêm khách hàng, tạo điều kiện cho việc mở rộng hoạt
động huy động tiền gửi và kinh doanh của NHTM. Tuy nhiên, hoạt động tín dụng
vẫn là hoạt động quan trọng nhất quyết định đến kết quả kinh doanh của một
NHTM.
III. HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
1. Tín dụng ngân hàng.
Theo sách các nước thuộc kinh tế thị trường “ Tín dụng là một quan hệ giao
dịch giữa hai chủ thể, trong đó một bên chuyển giao tiền hoặc tài sản cho bên kia
sử dụng trong một thời gian nhất định đồng thời nhận tiền hoặc tài sản cam kết
hoàn trả theo thời hạn đã thảo thuận”.Định nghĩa này chỉ nói lên bề ngoài của tín
dụng.
Còn theo Mark, nói lên bản chất bên trong của tín dụng: “ Tín dụng là sự vận
động của tư bản cho vay”.
Trong lịch sử, tín dụng đã xuất hiện từ khi xã hội có phân công lao động, sản
xuất và trao đổi hàng hoá. Trong quá trình trao đổi hàng hoá đã hình thành những
sự kiện nợ nần lẫn nhau, phát sinh những quan hệ vay mượn để thanh toán. Đây
chính là quan hệ tín dụng giữa các nhà sản xuất kinh doanh thực hiện dưới hình
thức mua bán chịu hàng hoá hay còn đuợc gọi là tín dụng thương mại. Tuy nhiên,
hình thức tín dụng này có những mặt hạn chế mà chỉ có tín dụng ngân hàng mới
khắc phục được, nó thể hiện:
Tín dụng thương mại là tín dụng hàng hoá do vậy có những hạn chế về không
gian địa lý.
Tổng số tín dụng bị giới hạn bởi quy mô của vốn tín dụng tạm thời nhàn rỗi
trong các đơn vị có quan hệ mua bán hàng hoá với nhau.
Cán cân tín dụng thương mại bị giới hạn bởi sự luân chuyển đều đặn hay không
của vốn trong quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá. Do dó, tín dụng thương
mại mang tính chất thời điểm, khi nhu cầu sản xuất tăng thì họ đòi thanh toán ngay.

Tín dụng thương mại bị giới hạn về mục đích sử dụng. Nó chỉ diễn ra với các
đơn vị liên quan trực tiếp với nhau trong mua bán hàng hoá.
Như vậy tín dụng thương mại tồn tại trong nền kinh tế hàng hoá, thúc đẩy
sản xuất kinh doanh phát triển nhưng nó vẫn có giới hạn nhất định. Do dó, đòi hỏi
phải có sự ra đời của tín dụng ngân hàng.
Tín dụng ngân hàng là một giao dịch về tài sản giữa bên cho vay (ngân hàng)
và bên đi vay (cá nhân, doanh nghiệp và các chủ thể khác) , trong đó bên cho vay
chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời gian nhất định theo các
điều kiện đảm bảo thoả thuận giữa hai bên, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vốn
gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán.
Có thể hiểu là, tín dụng ngân hàng là hình thức tín dụng cao nhất của nền kinh
tế hàng hoá, nó biểu hiện mối quan hệ tín dụng bằng tiền tệ giữa một bên là ngân
hàng – tổ chức chuyên kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, với một bên là tất cả các tổ
chức cá nhân trong xã hội. Quan hệ này được thực hiện trên cơ sở tự nguyện, bình
đẳng và cùng có lợi.
Như vậy, tín dụng luôn là một quan hệ kinh tế của nền sản xuất hàng hoá- tiền
tệ. Mục đích và tính chất của tín dụng do mục đích và tính chất của nền sản xuất
hàng hoá trong xã hôi quyết định. Sự vận động của tín dụng luôn luôn chịu sự chi
phối của các quy luật kinh tế, phương thức sản xuất trong xã hội đó. Nền kinh tế
sản xuất hàng hoá càng phát triển thì tín dụng càng giữ vai trò quan trọng trong
việc thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng hoá. Do chuyên môn hoá trong kinh
doanh, tín dụng ngân hàng đã phát triển ngày càng mạnh, phạm vi hoạt động ngày
càng rộng và tập trung phần lớn hoạt động tín dụng trong xã hội.
Bản chất của tín dụng ngân hàng là sự vận động của vốn tiền tệ thông qua
ngân hàng. Ngân hàng bằng các nghiệp vụ với các hình thức huy động vốn khác
nhau, huy động lượng tiền nhàn rỗi trong lưu thông, tạo thành nguồn vốn lớn.
Đồng thời, ngân hàng sử dụng chính nguồn vốn này đem cho vay với lãi suất cao
hơn lãi suất huy động vào.
Quan hệ tín dụng ngân hàng cũng như các quan hệ tín dụng khác đều mang
3 đặc trưng cơ bản:

Chỉ thay đổi quyền sử dụng mà không thay đổi quyền sở hữu vốn tín dụng.
Có thời hạn tín dụng được xác định do thoả thuận giữa người cho vay và người
đi vay.
Người sở hữu vốn tín dụng được nhận một phần thu nhập dưới hình thức lợi
tức.
Là trung gian nên Ngân hàng là cầu nối giữa người có vốn và người cần vốn,
hay nói cách khác việc sử dụng nguồn vốn trong các doanh nghiệp nói riêng và
trong nền kinh tế nói chung được Ngân hàng điều hoà sao cho phù hợp và nhận
được phần thu nhập là chênh lệch giữa lãi cho vay và lãi trả tiền gửi.
2. Tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế thị trường là tất yếu khách
quan.
Trong nền kinh tế thị trường tiền tệ trở thành một phạm trù kinh tế chủ đạo,
mọi quan hệ kinh tế đều được tiền tệ hoá. Với các chức năng vốn có của mình, nó
tham gia vào quá trình tuần hoàn vốn và trong quá trình đó tại một thời điểm sẽ
phát sinh tình trạng nhàn rỗi tạm thời và tạm thời thiếu vốn ở từng doanh nghiệp
cũng như toàn bộ nền kinh tế.
Nguyên nhân dẫn tới tình trạng tạm thời thừa vốn.
- Do việc thu và chi Ngân sách không xảy ra đồng thời, thông thường các
khoản thu thì tập trung, theo định kỳ, còn các khoản chi thì lại tiến hành dần dần,
cho nên trong một thời gian nhất định có tiền tệ tạm thời nhàn rỗi. Mặt khác,
trong quá trình thực hiện việc tổ chức và quản lý nền kinh tế, quản lý xã hội...
Nhà nước hình thành quỹ dự trữ tiền tệ tập trung.
- Nguồn vốn bằng tiền trong các doanh nghiệp không ngừng vận động qua các
khâu của quá trình sản xuất kinh doanh. Trong quá trình luân chuyển này, trong
từng giai đoạn từng khâu sẽ xuất hiện các khoản tiền tạm thời nhàn rỗi như: lương
công nhân chưa đến kỳ phải trả, tiền chưa trả do mua chịu hàng hoá, lợi nhuận
của doanh nghiệp chưa chia....
- Vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi của các tầng lớp dân cư.
Trong quá trình tái sản xuất xã hội và phân phối thu nhập quốc dân đã tạo cho
các tầng lớp dân cư những khoản thu nhập bằng tiền. Các khoản thu nhập này, một

phần chi tiêu trong thời gian ngắn và một phần tích luỹ lại với thời gian lâu hơn
phục vụ cho nhu cầu chi tiêu lớn hoặc chi tiêu trong tương lai. Phần này hình thành
nên một lượng tiền tệ nhàn rỗi.
- Cuối cùng là vốn tiền tệ của các chủ thể nước ngoài tạm thời nhàn rỗi.
Một Chính phủ nước ngoài vì một lý do nào đấy muốn tham gia vào một tổ
chức quốc tế hay để đảm bảo an toàn cho nền kinh tế cũng như ổn định đồng tiền
nước họ thường dự trữ một khoản tiền tại một Ngân hàng ở nước khác hay một
định chế tài chính quốc tế. Một cá nhân, doanh nghiệp muốn tạo điều kiện thuận
lợi cho thanh toán quốc tế, thường gửi tiền của mình tại một Ngân hàng có uy tín ở
nước ngoài.
Các nguồn vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trên không thể để chúng nằm yên, bởi
vì không đem lại thu nhập cho người sở hữu chúng. Thực tế đòi hỏi chúng cần phải
được gửi vào các cơ quan tín dụng để đem lại thu nhập.
Ngược lại trong quá trình tuần hoàn vốn của xí nghiệp, tổ chức kinh tế người
sản xuất kinh doanh, cá nhân tiêu dùng cũng như trong toàn xã hội có lúc lại phát
sinh tình trạng thiếu vốn tiền tệ. Tình trạng này tồn tại do một số nguyên nhân.
- Đối với các doanh nghiệp:
+ Thiếu vốn cố định: Tài sản cố định đóng vai trò rất cần thiết đối với nền sản
xuất xã hội. Tăng cường tài sản cố định đối với một đơn vị kinh tế cũng như đối
với toàn bộ nền sản xuất quốc dân là điều kiện rất quan trọng để nâng cao năng
suất lao động, tăng cường tiềm lực kinh tế. Song không phải lúc nào trong quá
trình tái sản xuất số tiền trích khấu hao và các nguồn vốn khác thuộc vốn cố định
cũng đủ để chi cho các chi phí về sửa chữa và mua sắm tài sản cố định. Vì vậy dẫn
đến hiện tượng nhu cầu cần vay vốn của các doanh nghiệp.
+ Thiếu vốn lưu động: Vốn lưu động là số vốn ứng trước về tài sản lưu động sản
xuất và lưu thông. Trong doanh nghiệp và trong các tổ chức kinh doanh vốn lưu
động là nguồn không thể thiếu của quá trình sản xuất kinh doanh, nó được phân bổ
trên các giai đoạn khác nhau của quá trình sản xuất và được thể hiện dưới nhiều
hình thức khác nhau. Để đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được diễn ra
thông suốt, các doanh nghiệp phải duy trì lượng vốn lưu động ở một mức nhất

định. Đặc điểm của vốn lưu động là luân chuyển không ngừng, luôn thay đổi hình
thái biểu hiện và hoàn thành 1 vòng tuần hoàn trong một chu kỳ sản xuất. Trong
quá trình luân chuyển của vốn lưu động, đôi khi chúng có thể thiếu và ngay lập tức
cần được bổ sung, do đó xuất hiện nhu cầu vay vốn.
- Để phát triển đất nước Chính phủ thường đầu tư vào các dự án lớn như cơ sở hạ
tầng, các công trình mang tính sống còn đối với lợi ích quốc gia mà tư nhân không
có đủ khả năng và điều kiện thực hiện. Nguồn vốn của Chính phủ được lấy từ
Ngân sách Nhà nước, nhưng đôi khi Ngân sách Nhà nước không đủ và chính phủ
phải đi vay.
- Với người tiêu dùng đôi khi có những khoản phải chi tiêu bất thường hoặc
những khoản chi tiêu nằm ngoài khả năng tài chính hiện thời của họ nhưng họ có
khả năng bù đắp những thiếu hụt đó trong tương lai. Điều này dẫn tới nhu cầu vay
tiêu dùng của các cá nhân.
Để cho cả những người thừa vốn và thiếu vốn cùng “giầu có” hơn, thì những
người thừa vốn cần phải tiến hành cho những người cần vốn vay vốn. Luồng vốn
từ những người thừa vốn chảy sang những người thiếu vốn theo hai con đường:
Trực tiếp và Gián tiếp.
Trực tiếp là việc những người cần vốn nhận được vốn từ những người thừa vốn
bằng cách vay trực tiếp hoặc bằng cách phát hành các công cụ nợ.
Gián tiếp là việc những người cần vốn nhận được khoản vốn mình cần từ những
người thừa vốn thông qua một tổ chức tài chính trung gian như các Ngân hàng
thương mại, các Công ty tài chính, Công ty bảo hiểm, các Quỹ tín dụng...
Trên thực tế những người cần vốn chủ yếu nhận được khoản vốn mình cần
thông qua con đường gián tiếp này, trong đó nổi bật nhất vai trò của các NHTM.
Sở dĩ các Ngân hàng thương mại làm được điều này là vì: Với đặc điểm và uy tín
của mình Ngân hàng có ưu thế hơn các định chế tài chính khác trong việc huy động
các nguồn vốn từ nhỏ tới lớn, từ tất cả các thành phần khác nhau trong xã hội và nó
cũng là tổ chức tích cực nhất trong việc tìm khách hàng cho mình từ phía những
người cần vốn. Trong nền kinh tế hiện đại thì các Ngân hàng thương mại là định
chế không thể thiếu được nếu không nói là quan trọng nhất.

Như vậy tín dụng ngân hàng xuất hiện là một tất yếu khách quan.

×