Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

GIẢI PHÁP MỞ RỘNG VÀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TRUNG DÀI HẠN TẠI SỞ GIAO DỊCH NHNO VÀ PTNT VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (166.72 KB, 23 trang )

GIẢI PHÁP MỞ RỘNG VÀ NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG TÍN DỤNG TRUNG DÀI HẠN TẠI SỞ
GIAO DỊCH NHNO VÀ PTNT VIỆT NAM.
I. PHƯƠNG HƯỚNG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA SỞ NĂM 2001
Căn cứ vào mục tiêu và chiến lược kinh doanh năm 2001 của HĐQT, các
nhiệm vụ và 12 giải pháp điều hành kinh doanh của Tổng giám đốc, Sở giao dịch
NHNoVN đề ra mục tiêu kinh doanh năm 2000 như sau:
1. Tổ chức thực hiện tốt các nhiệm vụ do NHNo & PTNTVN giao như: Đầu
mối TTQT, mua bán ngoại tệ, tham gia giao dịch trên thị trường mở, quản lý tài
khoản nội, ngoại tê, hạch toán các loại quỹ…
2. Chỉ tiêu kế hoạch năm 2001:
Dư nợ tăng 25 – 30% so với đầu năm.
Tỷ trọng dư nợ trung và dài hạn từ 40% - 50% tổng dư nợ.
Nợ quá hạn dưới 3.5%.
Nguồn vốn tăng 20 –22%.
Tài chính phấn đấu vượt kế hoạch được giao từ 3 –5%.
3. Hướng hoạt động kinh doanh năm 2001.
Năm 2001 hoạt động kinh doanh của sở giao dịch tập trung vào các lĩnh vực
chủ yếu sau.
Tín dụng: Hướng đầu tư tín dụng tập trung vào các tổng công ty 90, 91, các
đơn vị thành viên của các Tổng công ty, các doanh nghiệp vừa và nhỏ có năng lực
sản xuất kinh doanh, năng lực tài chính.
Huy động vốn: Tập trung vào khai thác các nguồn vốn lãi suất thấp từ các
doanh nghiệp, tổ chức tài chính, tổ chức xã hội, trong đó quan tâm dến huy động
nguồn vốn từ các trường dân lập. Đa dạng hoá các hình thức huy động tiền gửi nội
tệ, ngoại tệ từ dân cư.
Kinh doanh ngoại tệ và vốn: Mở rộng kinh doanh trên thị trường liên Ngân
hàng trong nước và quốc tế, kinh doanh tiền gửi nội, ngoại tệ, mua bán ngoại tệ
đầu cơ.
Mở rộng các dịch vụ thanh toán, dịch vụ chuyển tiền kiều hối, thẻ thanh toán,
thẻ du lịch và các dịch vụ khác đáp ứng yêu cầu của khách hàng.


Đặc biệt trong năm 2001 Sở tập trung vào một số dự án dài hạn với tổng nguồn
vốn đầu tư khá cao. Như dự án đường ống dẫn khí Nam Côn Sơn, dải ngân cho
Tổng công ty mía đường, … với xu thế là Sở sẽ tập chung vào các dự án lớn hơn là
những dự án nhỏ trong điều kiện còn nhiều khó khăn này.
II. GIẢI PHÁP MỞ RỘNG VÀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG
TRUNG DÀI HẠN TẠI SỞ GIAO DỊCH NHNO VIỆT NAM.
Mặc dù Sở giao dịch đã nhận thấy điểm yếu của mình về cho vay trung và dài
hạn và đã có những biện pháp để cải thiện tình hình nhưng để có thể mở rộng và
nâng cao chất lượng tín dụng thì số những biện pháp đó là chưa đủ. Qua đề tài này,
em muốn góp một số ý kiến của mình vào việc mở rộng và nâng cao trong lĩnh vực
này.
1. Giải pháp mở rộng tín dụng trung dài hạn.
Vấn đề yêu cầu cấp thiết đối với Sở giao dịch hiện nay là làm thế nào để mở
rộng tín dụng trung dài hạn. Sau đây là một vài hướng theo em có thể giúp cho Sở
chủ động hơn trong hoạt động của mình.
1.1Các giải pháp về vốn.
Như phần thực trạng tín dụng trung dài hạn đã nêu thì chúng ta hiểu nguồn vốn
để cho vay trung dài hạn tại Sở giao dịch đã đáp ứng thoả mãn nhu cầu cho vay
hiện tại và trong một khoảng thời gian tới. Tuy nhiên, trong định hướng hoạt động
tín dụng của Sở đã nêu rõ những mục tiêu chiến lược, trong đó định hướng phát
triển quy mô tín dụng trung dài hạn là lớn. Thực tế hiện nay Sở giao dịch đã và
đang tiếp nhận, thẩm định và chuẩn bị giải ngân cho một số dự án đồng tài trợ có
quy mô vốn rất lớn như: Dự án xây dựng đường ống dẫn khí Nam Côn Sơn, dự án
khoản vay tài chính của nhà máy xi măng chinfon Hải Phòng, dự án xây dựng nhà
máyđiện Uông Bí và nhiều dự án đồng tài trợ khác.
Vì vậy, nhu cầu vốn trung dài hạn trong thời gian tới của Sở giao dịch nói riêng
và toàn hệ thống NHNo Việt Nam nói chung là rất lớn. Việc tăng trưởng nguồn
vốn này liên tục, vững chắc là vấn đề rất quan trọng mang ý nghĩa chiến lược, trực
tiếp hoặc gián tiếp quyết định đến sự tồn tại và phát triển của Sở giao dịch cũng
như toàn hệ thống NHNo Việt Nam. Các giải pháp có thể đưa ra sau:

- Về cơ bản ,thu nhập và tích luỹ của người dân ngày càng có xu hướng tăng lên.
Nên Sở giao dịch có những cơ chế huy động vốn linh hoạt vừa đảm bảo hiệu quả
kinh doanh của ngân hàng như: đưa ra nhiều kỳ hạn, áp dụng hình thức trả lãi
trước, gửi một nơi lĩnh nhiều nơi,..Sở giao dịch nên phát hành và sử dụng các loại
chứng chỉ tiền gửi tiết kiệm thay cho tiền gửi tiết kiệm truyền thống và cho phép
các chứng chỉ này được mua bán và chuyển nhượng để làm tăng tính hấp dẫn của
nó.
- Tiếp tục triển khai hoạt động phát hành trái phiếu ngân hàng loại trung dài hạn,
kỳ phiếu ngân hàng có mục đích bằng cả nội và ngoại tệ. Trái phiếu với lãi suất
huy động cao hơn các hình thức gửi tiền gửi cùng kỳ hạn thường được người dân
ưa thích. Nhưng đối với ngân hàng nguồn vốn từ phát hành trái phiếu luôn là
nguồn có giá cả cao nhất. Do đó, khi phát hành trái phiếu Sở giao dịch NHNo Việt
Nam cần chú ý tới các vấn đề sau.
+ Chỉ phát hành trái phiếu ngân hàng khi có nhu cầu bổ xung vốn cho vay đầu
tư vào các dự án lớn có tính khả thi cao. Mỗi đợt phát hành trái phiếu cần tính toán
cân đối giữa lãi suất đầu vào và lãi suất đầu ra. Giảm thiểu các chi phí phát hành
nhằm tạo ra mức lãi suất cho phù hợp vừa khuyến khích được doanh nghiệp vay
vốn vừa đảm bảo hiệu quả trong hoạt động kinh doanh.
+ Để làm tăng tính hấp dẫn của trái phiếu, nên thực hiện nghiệp vụ chiết khấu
các trái phiếu, chuyển quyền sở hữu giữa các cá nhân thông qua hoạt động mua
bán, biếu tặng các trái phiếu vô danh. Trái phiếu dài hạn có thể dùng làm vật cầm
cố thế chấp để vay vốn. Các tiện ích đó sẽ làm tăng tính hấp dẫn của trái phiếu và
sẽ thu hút được nhiều người mua.
- Đẩy mạnh hoạt động huy động vốn ngoại tệ từ dân cư và các tổ chức kinh tế.
Hiện nay nhu cầu xin vay vốn bằng ngoại tệ đang tăng lên, đặc biệt là nhiều dự
án có nhu cầu vay vốn ngoại tệ lớn, vì vậy Sở cần có những cơ chế thể hiện chiến
lược huy động vốn, khai thác và thu hút các nguồn vốn ngoại tệ nhàn rỗi trong dân
cư và nền kinh tế như:
+ Có cơ chế ưu đãi với các doanh nghiệp lớn có thu nhập thường xuyên hay
định kỳ bằng ngoại tệ từ xuất khẩu gửi vào ngân hàng theo khoản tiền gửi có kỳ

hạn với mức lãi xuất hấp dẫn hay vào tài khoản tiền gửi thanh toán và được đảm
bảo thanh toán nhanh gọn với chi phí thanh toán thấp hơn hoặc có chế độ cho vay
ưu đãi tài trợ xuất khẩu, thưởng để khuyến khích người gửi.
+ Sở giao dịch có thể khuyến khích các cá nhân không cư trú , người nước
ngoài học tập và công tác tại Việt Nam mở tài khoản tiền gửi ngoại tệ để hưởng lãi
theo tài khoản tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn.
+ Đồi với các món tiền gửi bằng ngoại tệ có kỳ hạn dài dưới các chứng chỉ tiền
gửi, chi nhánh có thể thực hiện nghiệp vụ chiết khấu ngắn hạn khi khách hàng có
nhu cầu.
- Tiếp tục nâng cao vị thế và uy tín của Sở giao dịch.
1.2Đa dạng hoá các hình thức cho vay trung dài hạn.
Để mở rộng tín dụng trung dài hạn, bên cạnh hình thức cho vay trực tiếp đang
được sử dụng chủ yếu, việc mở rộng loại hình cho vay trung dài hạn khác, chẳng
hạn như đồng tài trợ, cho vay xây dựng nhà ở hay tín dụng thuê mua …cũng là một
trong những hình thức cần thiết cho Sở.
* Đồng tài trợ
Nền kinh tế nhiều thành phần mở ra đòi hỏi kết hợp giữa các chủ thể kinh tế
ngày càng chặt chẽ. Hơn bất cứ ngành nào khác, các thành viên trong hệ thống
ngân hàng cần phải dựa vào nhau để tồn tại và phát triển.
Việc đồng tài trợ của các tổ chức tín dụng( TCTD) là quá trình cho vay( bảo
lãnh) của một nhóm tổ chức tín dụng ( từ 2 trở lên ) cho một dự án, do một tổ chức
tín dụng làm đầu mối phối hợp với các bên tài trợ để thực hiện, nhằm nâng cao
năng lực và hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và
TCTD.
Nghiệp vụ đồng tài trợ được áp dụng trong các trường hợp: Nhu cầu vay vốn
để thực hiện dự án vượt giới hạn tối đa được phép cho vay hoặc bảo lãnh của một
tổ chức tín dụng, cũng có thể là nhu cầu phân tán rủi ro của các tổ chức tín dụng
hay do khả năng nguồn vốn của một TCTD không đáp ứng được nhu cầu vốn của
dự án.
Như vậy, hình thức cho vay đồng tài trợ này không chỉ sẽ phát huy được thế

mạnh của Ngân hàng , cho phép Ngân hàng tham gia vào các món cho vay lớn,
giúp Ngân hàng phân tán rủi ro mà còn giúp Ngân hàng có thể học được kinh
nghiệm từ các Ngân hàng khác.
Mặc dù chủ trương khuyến khích của các TCTD, nhất là các NHTM tham gia
hợp đồng tài trợ cho vay, đã được Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã có quyết
định số 154/QĐ-NHNN14, ngày 29/04/98 về việc ban hành qui chế đồng tài trợ
của các tổ chức tín dụng. Theo đó Tổng giám đốc NHNo Việt Nam đã có văn bản
1127/NHNo-05 ngày 01/06/98 về việc hướng dẫn quy chế đồng tài trợ của các tổ
chức tín dụng.
* Cho vay xây dựng nhà ở
Cho vay xây dựng nhà ở là một hình thức tín dụng trung dài hạn nhằm mục
đích cho vay tiền xây nhà đối với những cá nhân, những cặp vợ chồng trẻ có công
ăn việc làm và thu nhập ổn định có nhu cầu về nhà ở nhưng chưa đủ tiền để xây
dựng hay mua nhà.
 Hình thức này tuy còn mởi mẻ ở ta song lại rất là phổ biến ở các nước
phương tây. Hiện nay do sự phát triển nhanh chóng của dân số, nhu cầu về nhà ở
của dân cư, đặc biệt là các cặp vợ chồng trẻ trên địa bàn Hà nội là rất lớn. Thế
nhưng để có đủ tiền để mua một căn hộ, mặc dù họ có thu nhập ổn định thì cũng
phải tích cóp trong thời gian rất dài có thể là Cho vay xây dựng nhà ở
Có hai hình thức để thực hiện món cho vay xây nhà.
Thứ nhất, Ngân hàng đầu tư bằng cách tự mua đất xây nhà rồi bán cho những
người có nhu cầu với phương thức trả thoả thuận. Nếu trả góp thì ban đầu trả
khoảng 30% - 40 % giá trị ngôi nhà, sau đó trả theo niên kim cố định hoặc theo %
thu nhập của người mua. Ngân hàng sẽ nắm quyền sở hữu nhà cho đến khi người
mua trả hết tiền cho Ngân hàng.
Thứ hai, Ngân hàng cho những người có nhu cầu vay tiền để tự họ mua hoặc
xây nhà. Để giảm rủi ro, Ngân hàng có thể chỉ cho những người có đất sẵn và coi
quyền sở hữu miếng đất đó là tài sản thế chấp cuả người vay. Người vay cũng sẽ
thực hiện trả dần theo định kỳ hàng tháng hoặc hàng năm.
Hiện nay hình thức cho vay xây dựng nhà ở đang được tiến hành rất rộng rãi ở

Đồng bằng sông Cửu Long. Đây là một hình thức có rất nhiều ưu điểm, vừa giải
quyết được nhu cầu nhà ở, ổn định đời sống cho người dân lại giải quyết được tình
trạng ứ đọng vốn tại Ngân hàng.
* Tín dụng thuê mua
Thuê mua là hình thức cho thuê tài sản dài hạn mà trong thời gian đó người cho
thuê chuyển giao tài sản thuộc sở hữu của mình cho người đi thuê sử dụng. Người
thuê có trách nhiệm thanh toán tiền thuê trong suốt thời gian thuê và sẽ được quyền
thuê tiếp theo hoặc mua lại tài sản theo điều kiện do hai bên thoả thuận.
Ở đây, Ngân hàng với vai trò là người hiểu biết, có quan hệ rộng rãi và có uy
tín sẽ đứng ra mua tài sản, rồi cho thuê đối với khách hàng có nhu cầu. Xác suất
xẩy ra rủi ro đối với loại hình này khá nhỏ vì doanh nghiệp có thể dự đoán chính
xác chất lượng và sức tiêu thụ nhờ sử dụng máy móc thiết bị theo đúng yêu cầu của
mình.
Ưu điểm nổi bật nhất của tín dụng thuê mua là các doanh nghiệp có thể đổi mới
trang thiết bị máy móc hiện đại mà không cần đến tài sản thế chấp và một số vốn
tự có như trong cho vay trung dài hạn thông thường. Chính ưu điểm lớn này khiến
cho tín dụng thuê mua thực sự là một giải pháp cho các doanh nghiệp Việt Nam.
Bởi vì, nhu cầu vốn trung dài hạn của các doanh nghiệp để mua sắm máy móc hiện
đại là rất cần thiết, nhưng để vay được tiền của Ngân hàng thì ngoài việc có
phương án sản xuất hiệu quả thì phải có ít nhất 30% vốn tự có/ tổng nguồn vốn cần
và phải có tài sản thế chấp, trong khi đó hình thức này chỉ cần có phương án sản
xuất kinh doanh hiệu quả, vì bản chất của phương thức tín dụng thuê mua đã bao
hàm tài sản thế chấp trong hợp đồng thuê mua.
Mặc dù có những ưu điểm như vậy song để thực hiện được phương thức này
thì cần phải có thời gian và là điều khó khăn đối với Sở.
1.3Mở rộng tín dụng ngoài quốc doanh.
Qua nghiên cứu công tác tín dụng của Sở giao dịch NHNo Việt Nam, ta thấy
khối lượng kinh tế ngoài quốc doanh chiếm một phần rất nhỏ trong cơ cấu cho vay
trung daì hạn của Sở. Sự thu hẹp trong quan hệ tín dụng với khối này ngoài những
nguyên nhân khách quan, nguyên nhân từ phía doanh nghiệp còn có nguyên nhân

từ sự chủ động của chính Sở. Vì vậy để có thể mở rộng tín dụng trung dài hạn đối
với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, trước tiên Sở phải tự mình tháo gỡ
những rào cản do chính mình dựng nên.
Trong những năm qua, do đặt mục tiêu an toàn vốn quá cao, Sở đã quá thận
trọng khi cho khối này vay, thực hiện một cách nguyên tắc và máy móc, không linh
động như đối với khu vực kinh tế quốc doanh. Mặt khác đây là một Sở mới thành
lập nhiều vấn đề còn mới mẻ chưa có kinh nghiệm nhiều mà thị trường cạnh tranh
trên địa bàn Hà nội ngày càng gay gắt.
Vì vậy trong những giải pháp để nâng cao mức dư nợ trung dài hạn là Ngân
hàng nên mở rộng cho vay trung dài hạn đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh.
Đối với thành phần kinh tế này, mắc mớ lớn nhất là nằm ở tài sản thế chấp.
Nên chăng, đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh là khách hàng quen thuộc
của Ngân hàng, có tổ chức chặt chẽ, duy trì hoạt động kinh doanh có hiệu quả và
ổn định, Ngân hàng có thể cho vay tín chấp một tỷ lệ % nào đó. Tài sản thế chấp
tuy quan trọng song không nên tuyệt đối hoá vai trò của nó mà chỉ nên coi như một
hỗ trợ mà thôi. Hơn nữa, phải nói rằng Ngân hàng cũng không bao giờ muốn thu
nợ khách hàng qua tài sản thế chấp, vậy cũng không nên quá câu nệ vào nó mà từ
chối cho vay đối với các doanh nghiệp mà Ngân hàng tin tưởng. Qua đây cần thấy
rằng các cấp chính quyền cũng phải có các biện pháp hỗ trợ để khi phải thế chấp
thì được thuận lợi hơn.
1.4Tăng cường thực hiện Marketing.
Thuật ngữ Marketing mặc dù đã được đề cập tới từ những năm đầu của thế kỷ
XX nhưng trong lĩnh vực Ngân hàng thì mới chỉ được áp dụng và tiếp cận vào đầu
những năm đầu 60. Ở Việt Nam việc làm quen với Marketing còn diến ra muộn
hơn và cho đến nay việc áp dụng Marketing vào Ngân hàng vẫn còn hạn chế. Nhìn
chung ở đại đa số các Ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay thường tập chung
vào các hoạt động bề nổi như quảng cáo, khuyếch trương, còn các chức năng chủ
lực có ý nghĩa quyết định sự thành công trong thực hành Marketing như nghiên
cứu khách hàng, xác định thị trường mục tiêu, định vị hình ảnh, nâng cao về chất
lượng dịch vụ Ngân hàng hầu như còn rất mờ nhạt.

Do vậy, để đưa Marketing thực sự thâm nhập vào Ngân hàng và phát huy tác
dụng của nó, Sở cần thực hiện các biên pháp sau.
Các nhà quản lý Ngân hàng cần phải chuyển sang tư duy mới, lấy quan điểm
Marketing làm chủ đạo, có tầm nhìn chiến lược, có khả năng phân tích, …
Triết lý Marketing cần được thâm nhập vào các bộ phận của Ngân hàng, tất cả
các nhân viên, với mục tiêu phục vụ tối đa những gì khách hàng cần….
Thành lập phòng chức năng Marketing trong cơ cấu tổ chức quản trị để đề ra
và định hướng hoạt động Marketing một cách bài bản, với một đội ngũ nhân viên
nhậy bén, am hiểu….
Ngân hàng phải tích cực trong quan hệ với khách hàng.
Đó là những đường hướng cơ bản, sơ lược nhất để Sở có thể thực hiện. Song đi
vào thực tế thì cần phải có thời gian và nỗ lực nhiều hơn nữa.
1.5Thực hiện dịch vụ tư vấn cho khách hàng.
Thực hiện tư vấn cho khách hàng sẽ là cơ sở, tiền đề quan trọng cho ngân hàng
mở rộng tín dụng trung dài hạn. Trên thực tế nhiều doanh nghiệp, nhất là các
doanh nghiệp vừa và nhỏ, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có ý đồ đầu tư tốt
nhưng không có khả năng lập dự án khả thi rõ ràng, cụ thể hay những doanh
nghiệp khi lập dự án vì thiếu thông tin nên đã không tình được hết các yêú tố
khách quan như cung cầu thị trường, xu thế phát triển của ngành, lĩnh vực mà
doanh nghiệp hoạt động, không nắm bắt được hết các quy định của chính phủ…tất
cả các thứ đó đều dẫn tới dự án thiếu khả thi.
2. Giải pháp nâng cao chât lượng tín dụng trung dài hạn.
Song song với việc mở rộng tín dụng thì nâng cao chất lượng luôn luôn được
chú trọng. Sẽ là vô nghĩa nếu một ngân hàng nào đó chỉ quan tâm đến mở rộng tín
dụng mà không để ý tới chất lượng của các khoản này. Để có thể làm được việc
này mang lại nhiều hiệu quả thì ta cần làm một số công việc sau.
2.1Phân tích, xếp loại doanh nghiệp.

×