Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

GIẢI PHÁP TẠO NGUỒN VÀ MUA HÀNG NÔNG SẢN XUẤT KHẨU Ở CÔNG TY SẢN XUẤT DỊCH VỤ VÀ XUẤT NHẬP KHẨU NAM HÀ NỘI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.94 KB, 23 trang )

GIẢI PHÁP TẠO NGUỒN VÀ MUA HÀNG NÔNG SẢN XUẤT KHẨU Ở CÔNG TY SẢN XUẤT DỊCH VỤ
VÀ XUẤT NHẬP KHẨU NAM HÀ NỘI
3.1Các nhân tố tác động đến hoạt động tạo nguồn và mua hàng nông sản xuất
khẩu của Công ty
3.1.1 Nhân tố bên ngoài Công ty
 Điều kiện tự nhiên:
• Khí hậu
Sản xuất nông nghiệp nước ta chịu ảnh hưởng của khí hậu nhiệt đới ẩm, có
chế độ gió mùa hàng năm chia làm hai mùa rõ rệt, đồng thời tuỳ theo vĩ tuyến và
độ cao của từng vùng mà một số nơi còn chịu khí hậu ôn đới hoặc á nhiệt đới
(Đông Bắc, Tây Bắc, Đà Lạt, Ngọc Linh...). Tài nguyên khí hậu ấy, một mặt tạo ra
điều kiện thuận lợi là: có thể phát triển nhiều chủng loại cây trồng, xây dựng, sử
dụng không gian nhiều tầng, có khả năng tăng vụ và rải vụ sản xuất quanh năm,
bốn mùa có thu hoạch.
Song tài nguyên khí hậu đó không diễn ra đồng nhất theo lãnh thổ nên doanh
nghiệp ở mỗi địa phương phải có chế độ canh tác, chế độ luân canh theo thời vụ
thích hợp. Mặt khác, khí hậu nước ta cũng gây ra những khó khăn phức tạp cho sản
xuất nông nghiệp như: bão, lụt, hạn hán, gió mùa đông bắc, gió tây, gió lào, sương
muối, v.v... Do đó, doanh nghiệp cần có những phương án đề phòng để có các
quyết định linh hoạt trong mỗi tình huống nhằm hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của
thiên tai, đảm bảo đạt năng suất, sản lượng cao và ổn định.
• Đất đai:
Diện tích cả nước ta vào khoảng 330.363 triệu km
2
, trong đó có tới 50% là
đất nông nghiệp và ngư nghiệp. Điều kiện khí hậu nhiệt đới, mưa nắng điều hoà đã
giúp đất đai trở nên màu mỡ và có độ ẩm lớn. Hàng năm, mưa giông có thể cung
cấp cho đất một lượng đạm vô cơ từ 10-16 kg/ha. Đây là một thuận lợi đáng kể cho
việc gieo trồng các loại cây, đặc biệt là cây ưa nhiệt và ẩm. Thêm vào đó, nước ta
có một mạng lưới sông ngòi dày đặc (trên 2860 sông ngòi) và phân bố tương đối
đồng đều trên lãnh thổ. Mạng lưới sông phân bố như vậy cộng thêm nước sông,


ngòi, lạch hầu hết đều thuộc loại trung tính nên tạo điều kiện hết sức thuận lợi cho
ngành vận tải đường thuỷ và lấy nước tưới tiêu phục vụ cho các hoạt động nông
nghiệp. Ngoài ra, nước ta còn có hai con sông lớn chảy qua mang nhiều phù sa
màu mỡ là sông Hồng ở Miền Bắc và sông Mêkông ở Miền Nam. Đây chính là lợi
thế lớn để hai nơi này trở thành vựa lúa của cả nước.
 Sản xuất nông nghiệp mang tính thời vụ:
Do đặc điểm này, việc nghiên cứu nắm bắt rõ thời điểm gieo trồng và thu
hoạch của các loại nông sản là hết sức cần thiết, từ đó giúp đưa ra được những dự
báo phục vụ cho quá trình mua hàng, dự trữ để đáp ứng những đơn đặt hàng vào
lúc trái vụ. Mặt khác, đặc điểm này cũng đòi hỏi Công ty phải có sự bố trí tập
trung lực lượng mua hàng vào những lúc chính vụ để đạt hiệu quả mua hàng cao.
 Điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật:
Nước ta có một nền nông nghiệp lạc hậu, đang xây dựng nền nông nghiệp
sản xuất hàng hoá theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa không qua giai đoạn phát
triển Tư bản Chủ nghĩa. Với xuất phát điểm còn rất thấp, cơ sở vật chất nghèo nàn,
kết cấu hạ tầng nông thôn còn yếu kém, lao động thuần nông còn chiếm tỷ trọng
lớn trong tổng lao động xã hội, năng suất lao động còn thấp... đến nay mặc dù đã
có những bước phát triển nhất định song cơ sở vật chất kỹ thuật cho nông nghiệp
và hệ thống kết cấu hạ tầng ở nông thôn vẫn còn yếu kém. Công nghệ sau thu
hoạch và chế biến đã được quan tâm nhưng nhìn chung còn lạc hậu và kém phát
triển.Với yêu cầu cao về chất lượng và sự biến đổi nhanh về thị hiếu tiêu dùng cả
về phẩm chất và hình thức, trong thời gian qua, công nghệ và chất lượng chế biến
nông sản đã được cải thiện đáng kể, hình thành nhiều nhà máy chế biến hiện đại
công suất lớn (ngành xay xát đạt 18- 20 triệu tấn/năm) nhưng nhìn chung thì hàng
nông sản xuất khẩu của Việt Nam phần lớn vẫn ở dạng thô và sơ chế là chính, tỷ
trọng chế biến sâu mới đạt 23%. Các xí nghiệp, kho tàng, bến bãi, máy móc còn
lạc hậu, trắp vá. Hệ số sử dụng công suất các nhà máy chế biến thấp, bình quân 50-
60% lãng phí và hao tốn nguyên vật liệu nhiều,tỷ lệ tổn thất sau thu hoạch nhiều,
dẫn đến chi phí sản xuất tăng. Vì vậy, để công tác tạo nguồn và mua hàng nông sản
xuất khẩu của Công ty đạt hiệu quả cao, Công ty cần có những chính sách đầu tư

cho cơ sở vật chất kỹ thuật một cách thích hợp.
 Tình hình cung, cầu hàng nông sản trên thế giới:
Diễn biến cung, cầu và giá cả các mặt hàng nông sản trên thị trường thế giới
diễn biến rất phức tạp, thường xuyên biến động mạnh. Do đó đã gây ảnh hưởng
đến hoạt động tạo nguồn và mua hàng nông sản xuất khẩu của Công ty.
Mặt khác, mặt hàng nông sản của Công ty xuất sang rất nhiều nước trên thế
giới ở Châu Á, Châu Âu, Châu Mỹ, Châu Phi... Đối với mỗi loại thị trường lại đòi
hỏi những yêu cầu về hàng hoá không giống nhau. Các quốc gia phát triển như Mỹ,
EU, Nhật.... tiêu dùng các mặt hàng nông sản có phẩm chất, chất lượng cao, đặc
biệt khắt khe trong vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm, còn ở các nước đang phát
triển thì hàng hoá yêu cầu ở mức thấp hơn nhưng giá trị thu lại cũng nhỏ, thậm chí
kém nhiều lần so với hàng hoá chế biến sâu.
Vì vậy, trong hoạt động tạo nguồn và mua hàng nông sản xuất khẩu, Công ty
cần có sự nghiên cứu kỹ lưỡng về nhu cầu của từng loại thị trường, từ đó có biện
pháp tạo nguồn, mua hàng phù hợp để đáp ứng tốt các nhu cầu đó. Đồng thời, cần
chú ý thoả mãn nhu cầu thị trường thế giới về hàng hoá chất lượng cao, hàng tinh
chế, chế biến sâu để định hướng xuất khẩu.
 Những diễn biến bất lợi trên thế giới:
Những diễn biến trên thị trường thế giới gần đây cũng tạo ra một số khó
khăn nhất định trong hoạt động tạo nguồn và mua hàng nông sản xuất khẩu của
Công ty, cụ thể:
Sau cuộc khủng hoảng kinh tế Châu Á 1997 đến nay, một số trung tâm kinh
tế lớn của thế giới như Mỹ, EU, Nhật Bản vẫn chưa thoát khỏi suy thoái. Đồng
USD, Yên Nhật và EURO không ổn định, lên xuống thất thường.
Tình hình chính trị thế giới tiếp tục bất ổn: xung đột quân sự, nạn khủng bố
gia tăng và nhất là nguy cơ chiến tranh giữa Mỹ cùng một số đồng minh với một số
nước ngày càng cao, điển hình là việc Liên minh Mỹ, Anh và một số nước tiến
hành chiến tranh xâm lược IRAQ.
Thêm vào đó, nạn dịch viêm đường hô hấp cấp SARS lan rộng ra nhiều
nước đã tác động mạnh đến tình hình chính trị, kinh tế và thương mại toàn cầu. Giá

dầu mỏ trên thị trường quốc tế tăng cao làm tăng giá hàng loạt các sản phẩm và
dịch vụ trong đó có cước vận tải, dẫn đến giá thành các mặt hàng xuất khẩu tăng.
Tất cả những điều đó đã gây ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động xuất khẩu
nói chung và tạo nguồn và mua hàng xuất khẩu của Công ty nói riêng.
 Hội nhập kinh tế quốc tế:
Xu hướng tự do hoá - toàn cầu hoá kinh tế đang diễn ra rất nhanh, khiến cho
việc thành lập các quan hệ kinh tế giữa các quốc gia dễ dàng hơn và cũng là một
yếu tố thuận lợi đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất
khẩu.Trong thời gian qua, Việt Nam đã và đang đẩy mạnh quá trình hội nhập kinh
tế quốc tế, mở rộng quan hệ song phương và đa phương, nối lại quan hệ với nhiều
tổ chức quốc tế như : Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới (WB), Ngân
hàng phát triển Châu Á (ADB)... Những tổ chức này đã cam kết và thực hiện giải
ngân cho quá trình cải cách kinh tế ở Việt Nam với con số hàng tỷ đô la. Song song
với việc đó, Việt Nam cũng gia nhập Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN) và
khu vực mậu dịch tự do AFTA, tham gia sáng lập diễn đàn Á Châu (ASEM), gia
nhập Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á Thái Bình Dương (APEC), trở thành quan
sát viên của tổ chức Thương mại thế giới (WTO) và đang đàm phán với các nước
thành viên để gia nhập tổ chức này. Ngoài ra, nước ta cũng ký hiệp định khung về
hợp tác kinh tế với Liên minh Châu Âu (EU), Hiệp định thương mại Việt- Mỹ và
nhiều hiệp định song phương khác.
Quá trình hội nhập đã đem lại những lợi ích không thể phủ nhận, mở ra một
thị trường xuất khẩu vô cùng rộng lớn với nhu cầu về các mặt hàng phong phú và
khối lượng lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam như thị trường các nước ASEAN,
thị trường Mỹ... và sắp tới là thị trường khổng lồ sau khi tham gia WTO.
Cùng với việc mở rộng thị trường, quá trình hội nhập còn tạo điều kiện cho
Việt Nam thu hút được một số lượng đáng kể vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài
(FDI), viện trợ phát triển chính thức (ODA), tiếp thu được nhiều thành tựu mới về
khoa học, công nghệ cũng như kỹ năng quản lý.
Với chính sách ưu đãi thuế quan khi gia nhập AFTA, hàng hoá của Việt Nam
ngày càng có những thuận lợi: dễ dàng xâm nhập vào thị trường các nước trong

khu vực vì thủ tục đơn giản hơn, hàng hoá phải chịu thuế suất thấp nên sức cạnh
tranh của hàng hoá tăng lên. Điều này tạo thuận lợi cho việc xuất khẩu các ngành
hàng, trong đó có ngành hàng nông sản . Ngoài ra, việc hội nhập sẽ mở ra cơ hội
xuất khẩu các mặt hàng của Việt Nam nói chung và các mặt hàng nông sản nói
riêng vào những thị trường bị bảo hộ cao của các nước phát triển khi ta có hiệp
định song phương, đặc biệt là khi gia nhập WTO.
Những yếu tố này sẽ giúp cho hoạt động kinh doanh xuất khẩu nông sản của
Công ty được tiến hành thuận lợi, hoạt động tạo nguồn và mua hàng nông sản xuất
khẩu của Công ty nhờ đó cũng phát triển.
 Hàng rào bảo hộ của các nước nhập khẩu nông sản:
Các nước phát triển như Mỹ, EU, Nhật Bản…mặc dù luôn hô hào tự do hoá
thương mại, toàn cầu hoá kinh tế song đến nay vẫn thực hiện bảo hộ cho nông sản
trong nước dưới các hình thức: trợ giá cho nông sản, áp dụng các biện pháp kỹ
thuật như vệ sinh an toàn thực phẩm, nguồn gốc xuất xứ, điều kiện lao động…tạo
ra rào cản đối với hàng nông sản nước ngoài, gây khó khăn cho Công ty trong việc
thâm nhập vào thị trường các nước này.
 Khả năng cạnh tranh của các đối thủ cùng loại:
Trong những năm gần đây, việc Nhà nước khuyến khích và tạo mọi điều
kiện thuận lợi cho kinh doanh xuất nhập khẩu, đặc biệt là xuất khẩu nông sản đã
thu hút nhiều thành phần kinh tế tham gia trực tiếp vào hoạt động xuất nhập khẩu,
hình thành nên nhiều đối thủ cạnh tranh của Công ty. Bên cạnh các đối thủ lâu đời,
có tiềm lực mạnh như: Haprosimex Hà Nội, Công ty xuất nhập khẩu tổng hợp I,
Công ty xuất nhập khẩu Intimex, Tổng công ty Chè…đã xuất hiện thêm nhiều đối
thủ cạnh tranh mới, có ảnh hưởng lớn: Công ty chè Thế hệ mới, Công ty TNHH
Bách Thuận, Công ty TNHH Vạn Xuân, Công ty TNHH Quang Minh…Điều đó
chẳng những gây khó khăn cho hoạt động xuất khẩu nông sản của Công ty trên thị
trường nước ngoài mà còn gây bất lợi trong hoạt động tạo nguồn và mua hàng
nông sản trong nước phục vụ xuất khẩu của Công ty.
 Hệ thống chính sách pháp luật:
Trong chiến lược phát triển kinh tế- xã hội 2001-2010 tại Đại hội Đảng IX,

Nhà nước đã đề ra chủ trương hướng mạnh xuất khẩu, giảm mạnh xuất khẩu sản
phẩm thô và sơ chế, tăng nhanh tỷ trọng sản phẩm chế biến, nâng dần tỷ trọng sản
phẩm có hàm lượng trí tụê, hàm lượng công nghệ cao.
Để đẩy mạnh xuất khẩu, Nhà nước đã tạo mọi điều kiện thuận lợi như: đổi
mới một cách cơ bản cơ chế quản lý theo hướng mở rộng quyền kinh doanh xuất
nhập khẩu, giảm bớt các thủ tục hành chính, giảm bớt sự can thiệp của Nhà nước
vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, cung cấp các khoản tín dụng ưu đãi
dành cho các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu, thành lập các tổ chức xúc tiền
thương mại, thành lập văn phòng thương mại ở một số nước và khu vực.
Nhà nước đã có nhiều chính sách, cơ chế, nghị định, nghị quyết: Nghị định
57/1998/NĐ-CP, Nghị định 44/2001/NĐ-CP, Quyết định 46/2001/QĐ-TTg...nhằm
mở rộng các hoạt động thương mại và quy định chi tiết thi hành Luật Thương mại
về hoạt động xuất nhập khẩu, gia công và đại lý mua bán hàng hoá với nước ngoài.
Đặc biệt, đối với mặt hàng nông sản, Chính Phủ cũng có những thay đổi lớn trong
khuyến khích xuất khẩu như: Nghị quyết số 05/2000/NQ-CP, Nghị quyết số
09/2001/NQ-CP về chính sách tiêu thụ nông sản phẩm cho nông dân, Quyết định
số 80/2002/QĐ-TTg ngày 26/6/2002 về khuyến khích tiêu thụ nông sản theo hợp
đồng và gần đây là Thông tư số 04/2003/TT-BTC của Bộ Tài Chính hướng dẫn
một số vấn đề về tài chính thực hiện Quyết định 80/2002/QĐ-TTg.
Ngoài ra, Nhà nước cũng tiến hành thành lập các quỹ hỗ trợ xuất khẩu, quỹ
khen thưởng xuất khẩu và nhiều chính sách tín dụng khác để giúp đỡ cho các
doanh nghiệp. Trong số những ngành hàng đang được Nhà nước đặc biệt ưu tiên
khuyến khích xuất khẩu thì ngành hàng nông sản được đánh giá là ngành hàng có
tiềm năng lớn.
Trong 2 năm 2001 và 2002, do kinh tế và thương mại thế giới lâm vào tình
trạnh trì trệ, sức mua nhìn chung rất yếu, do vậy Nhà nước đã phải áp dụng biện
pháp hỗ trợ tài chính trực tiếp cho một số mặt hàng để thúc đẩy xuất khẩu trong đó
có mặt hàng nông sản bằng cách thưởng kim ngạch xuất khẩu để bù lỗ. Nhờ đó,
công ty đã được hưởng một khoản tiền thưởng kim ngạch xuất khẩu khá lớn, bù
đắp được phần nào những thiệt hại do giá một số mặt hàng nông sản giảm mạnh.

×