Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

Giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho học sinh trường trung cấp y tế vĩnh long trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.18 MB, 100 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
----------

ĐÀO THỊ HỒNG XINH

GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP
CHO HỌC SINH TRƯỜNG TRUNG CẤP
Y TẾ VĨNH LONG
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

Nghệ An, 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
----------

ĐÀO THỊ HỒNG XINH

GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP
CHO HỌC SINH TRƯỜNG TRUNG CẤP
Y TẾ VĨNH LONG
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Chuyên ngành: Chính trị học
Mã số: 8.31.02.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ



Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. ĐINH THẾ ĐỊNH

Nghệ An, 2018


-1-

LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình học tập và thực hiện đề tài luận văn tốt nghiệp, em
đã nhận được sự quan tâm của nhiều đơn vị, thầy cô, đồng nghiệp và gia đình.
Em xin chân thành cảm ơn:
Ban Giám hiệu, Phòng Đào tạo Sau đại học, Ban Chủ nhiệm khoa Giáo
dục Chính trị Trường Đại học Vinh; Ban Giám hiệu, Trung tâm Đào tạo và Bồi
dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Vĩnh Long,
cùng quý Thầy, Cô đã tham gia giảng dạy lớp Cao học Chính Trị học khóa 24.
Ban Giám hiệu, các đơn vị phòng, khoa, đội ngũ cán bộ, viên chức của
Trường TCYT Vĩnh Long đã tạo điều kiện cho em trong suốt q trình học tập,
nghiên cứu và hồn thành luận văn này.
Đặc biệt, em xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS. Đinh
Thế Định, người hướng dẫn trực tiếp và tận tình giúp đỡ em hồn thành luận
văn.
Em xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp cùng các anh,
chị học viên lớp Cao học Chính Trị học khóa 24 đã dành nhiều tình cảm, giúp
đỡ, động viên em hồn thành khóa học.
Nghệ An, tháng 6 năm 2018
Tác giả

Đào Thị Hồng Xinh



-2-

MỤC LỤC
Trang
LỜI CẢM ƠN

1

MỤC LỤC
BẢNG KÝ HIỆU CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG

2
3
4
5
10
10

A. MỞ ĐẦU
B. NỘI DUNG
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC NGHỀ
NGHIỆP CHO HỌC SINH TRƯỜNG TRUNG CẤP Y TẾ
1.1. Đạo đức và giáo dục đạo đức nghề nghiệp
1.2. Nội dung và hình thức giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho học sinh,
sinh viên trường Y trong giai đoạn hiện nay
1.3. Sự cần thiết phải giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho học sinh, sinh
viên trường Y trong giai đoạn hiện nay


10
21
35

Chương 2. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC NGHỀ
NGHIỆP CHO HỌC SINH TRƯỜNG TRUNG CẤP Y TẾ VĨNH
LONG TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
2.1. Khái quát về Trường Trung cấp Y tế Vĩnh Long
2.2. Thực trạng nhận thức về đạo đức nghề nghiệp của học sinh Trường
Trung cấp Y tế Vĩnh Long
2.3. Thực trạng công tác giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho học sinh
Trường Trung cấp Y tế Vĩnh Long

41

Chương 3. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP CHO HỌC SINH TRƯỜNG
TRUNG CẤP Y TẾ VĨNH LONG HIỆN NAY
3.1. Quan điểm giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho học sinh Trường
Trung cấp Y tế Vĩnh Long
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho học
sinh Trường Trung cấp Y tế Vĩnh Long trong giai đoạn hiện nay

66

C. KẾT LUẬN
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

92
95


41
44
54

66
70


-3-

BẢNG KÝ HIỆU CÁC CHỮ VIẾT TẮT

TT Từ đầy đủ

Từ viết tắt

1

Cán bộ y tế

CBYT

2

Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa

3

Kinh tế thị trường


KTTT

4

Học sinh, sinh viên

HS, SV

5

Học sinh

6

Trung cấp Y tế

TCYT

7

Văn hóa văn nghệ

VHVN

8

Xã hội chủ nghĩa

XHCN


CNH, HĐH

HS


-4-

DANH MỤC BẢNG

Tên bảng
Bảng 2.1.

Nội dung
Nhận thức của HS về tiêu chuẩn, phẩm chất của người thầy
thuốc

Trang
45

Bảng 2.2.

Động cơ lựa chọn nghề Y

47

Bảng 2.3.

Thái độ của HS đối với ngành nghề đang đào tạo


48

Bảng 2.4.

Bảng 2.5.

Bảng 2.6.

Bảng 2.7.
Bảng 2.8.

Nhận thức của HS về tầm quan trọng của giáo dục đạo đức
nghề nghiệp
Kết quả học tập, rèn luyện của sinh viên năm học 20162017
Nhận thức của nhà trường về công tác giáo dục đạo đức
nghề nghiệp
Vai trò của các lực lượng giáo dục trong công tác giáo dục
đạo đức nghề nghiệp cho HS
Nội dung giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho HS

50

52

54

56
58



-5-

A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đạo đức nghề nghiệp là một nhánh trong hệ thống đạo đức xã hội, là một
loại đạo đức đã được thực tiễn hoá. Ở thời đại nào và ở bất cứ quốc gia nào cũng
vậy, việc giáo dục đạo đức nói chung và giáo dục đạo đức nghề nghiệp nói riêng
là trung tâm chú ý của các cơ sở giáo dục, các tổ chức xã hội – nghề nghiệp và
của toàn xã hội.
Trong quá trình xây dựng đạo đức mới XHCN ở nước ta hiện nay đạo đức
nghề nghiệp có vai trị xã hội to lớn, mỗi thành viên cần xác định rằng sự yêu
nghề, chân thành giữ chữ tín, làm việc hợp đạo lý, có hiệu quả, năng suất cao
nhằm phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc ngày càng tốt hơn, nhiều hơn. Trong
đó, linh hồn của đạo đức nghề nghiệp là tinh thần tận tụy phục vụ nhân dân, sự
trung thành với Tổ quốc XHCN được quán triệt, cụ thể hoá và biểu hiện bằng
thực tiễn ở tất cả các mặt của đạo đức nghề nghiệp. Tuy nhiên, bên cạnh những
con người gương mẫu, say mê trong lao động, có tinh thần trách nhiệm, có
lương tâm trong nghề nghiệp, ý thức được nghĩa vụ của mình đối với xã hội, có
quan niệm cho rằng: “tiền khơng phải là tất cả, cái quý hơn tiền đó là niềm tin
nơi con người và lòng tự trọng” đã trở thành lẽ sống trong hoạt động nghề
nghiệp của khơng ít người. Đó thực sự là một giá trị đáng trân trọng trong đời
sống đạo đức của xã hội nói chung và đạo đức nghề nghiệp nói riêng. Tuy nhiên,
cịn một số bộ phận có những hành vi trái với lương tâm nghề nghiệp, bị sự cám
dỗ vật chất nhỏ nhen, ích kỷ và những lợi ích tầm thường, bn bán gian lận,
bán hàng giả hoặc cậy chức, cậy quyền đẩy người khác vào đường cùng gây hậu
quả đáng tiếc không nên xảy ra.
Trước những thực trạng đó vấn đề đạo đức và đạo đức nghề nghiệp luôn
được Đảng, Nhà nước, các cấp, các ngành và toàn xã hội quan tâm. Đặt biệt đối
với thế hệ trẻ ngày nay thế hệ nối bước cha anh trong thời kỳ xây dựng phát



-6trạng đất nước. Hồ Chí Minh khẳng định: Non sơng Việt Nam có trở nên tươi
đẹp hay khơng, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các
cường quốc năm châu được hay khơng, chính là nhờ một phần lớn ở công học
tập của các em. Tư tưởng giáo dục ấy khơng chỉ bó hẹp trong việc giáo dục tri
thức, học vấn cho con người, mà có tính bao qt, sâu xa, nhưng vơ cùng sinh
động và thiết thực, nhằm đào tạo ra những con người tồn diện, vừa "hồng" vừa
"chun", có tri thức, lý tưởng, đạo đức, sức khoẻ và thẩm mỹ...
Từ đó, cho thấy từ việc kế thừa, tiếp thu tư tưởng Hồ Chí Minh, dưới sự
lãnh đạo của Đảng nước ta đã đạt những thành tựu đáng kể. Tuy nhiên, Bên
cạnh những thời cơ, thuận lợi, đất nước ta vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thế hệ trẻ tiếp tục là đối tượng,
mục tiêu mà các thế lực thù địch tập trung lơi kéo, kích động, chia rẽ hay những
biểu hiện mặt trái nền KTTT đang tác động mạnh mẽ tới nhân cách, đạo đức của
thế hệ trẻ. Một bộ phận HS, SV khơng những có tình trạng suy thối về đạo đức
mà cả ý thức về đạo đức nghề nghiệp cũng dần bị đánh mất, thiếu hoài bão lập
thân, lập nghiệp, giảm sút niềm tin, thiếu trung thực trong học tập, gian lận trong
thi cử, vi phạm nội quy quy chế, mờ nhạt về lý tưởng, xa rời truyền thống văn
hoá tốt đẹp của dân tộc ta, chạy theo lối sống thực dụng, thiếu ý thức chấp hành
pháp luật, một số ít thanh niên bị các thế lực thù địch lôi kéo, kích động chống
sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc ta, tình trạng tội phạm và tệ nạn xã
hội trong giới trẻ diễn biến phức tạp.
Tất cả những điều đó địi hỏi u cầu trước mắt đặt ra phải xây dựng và
hoàn thiện giá trị, nhân cách con người, bảo vệ và phát huy bản sắc văn hoá dân
tộc tăng cường giáo dục đạo đức và giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho HS trong
thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta hiện
nay, đòi hỏi chúng ta phải nhận thức đúng đắn vai trò của giáo dục và giáo dục
đạo đức nghề nghiệp cho HS.



-7Xuất phất từ những lý do trên, tôi lựa chọn đề tài: “Giáo dục đạo đức nghề
nghiệp cho học sinh Trường Trung cấp Y tế Vĩnh Long trong giai đoạn hiện
nay” làm đề tài luận văn Thạc sĩ.
Vấn đề đạo đức, giáo dục đạo đức và giáo dục đạo đức nghề nghiệp là
một vấn đề có ý nghĩa khoa học và thực tiễn sâu sắc. Do vậy, từ trước đến nay
đã có nhiều chỉ thị, nhiều văn bản của Đảng và Nhà nước về giáo dục đạo đức:
Bài nói của Bác Hồ đăng trên báo Nhân dân, số 1645 ngày 14/9/1958 về sau đưa
vào sách “Hồ Chí Minh, tuyển tập - tập II”, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1980. Bác căn
dặn: “ Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng
người”; Chỉ thị 06 - CT/TW của Bộ Chính trị Về tổ chức cuộc vận động học tập
và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh ngày 07 tháng 11 năm 2006; Chỉ
thị 03- CT/TW của Bộ Chính trị Về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh ngày 14 tháng 4 năm 2011; Chỉ thị 05-CT/TW
của Bộ Chính trị khóa XII về Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh ngày 15 tháng 5 năm 2016.
Vấn đề giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ hiện nay cũng được các nhà
nghiên cứu đề cập qua các bài viết trên một số báo, tạp chí như: Tư tưởng Hồ
Chí Minh về giáo dục thanh niên, Trần Thanh Quang về tăng cường giáo dục ý
thức chính trị cho sinh viên hiện nay- Tạp chí Triết học số 2 tháng 2 năm 2017,
Luyện Thị Hồng Hạnh về Vai trò giáo dục đạo đức cách mạng theo tư tưởng Hồ
Chí Minh cho sinh viên nước ta hiện nay -Tạp chí Triết học số 6 tháng 6 năm
2017; Tác giả Tống Thị Nhung trong luận văn thạc sĩ (2016) Giáo dục đạo đức
cách mạng cho HS Trường dự bị Đại học dân tộc Sầm Sơn trong giai đoạn hiện
nay; GS. TSKH Huỳnh Khái Vinh. Một số vấn đề về lối sống, đạo đức, chuẩn
mực xã hội, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ
của Đảng (2007), Hồ Chí Minh vể giáo dục, bồi dưỡng thanh, thiếu niên và nhi
đồng, Nxb Lao động – Xã hội, Hà Nội; Viện khoa học xã hội nhân văn quân sự


-8(2006), Chuẩn mực đạo đức con người Việt Nam hiện nay, Nxb Quân đội nhân

dân, Hà Nội.
Một số tác giả, trong các cơng trình nghiên cứu chun ngành dược,
ngành y tại Trường TCYT Vĩnh Long: Trần Thị Ngọc Mai (2016) Quản Lý
Dược, Trần Thị Hồng Diễm (2016) Đạo đức người điều dưỡng.
Các tác giả đã nghiên cứu về thực trạng đạo đức, thực trạng giáo dục đạo
đức, đạo đức nghề nghiệp, tư tưởng chính trị, lối sống của thanh niên HS, SV
trong thời kỳ CNH, HĐH, tìm ra nguyên nhân của thực trạng, từ đó đề ra giải
pháp để nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức nói chung và giáo dục đạo đức
nghề nghiệp nói riêng cho thanh niên HS.
Những tài liệu trên là nguồn tư liệu quý giúp tôi tiếp thu tham khảo, làm
định hướng cho đề tài nghiên cứu của mình. Ở Trường TCYT Vĩnh Long, việc
nghiên cứu nâng cao hiệu quả công tác giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho HS
hiện nay vẫn chưa tìm thấy tác giả nào đề cập một cách cơ bản và có hệ thống.
Vì vậy, tơi nghiên cứu vấn đề này với mong muốn luận giải những vấn đề lý
luận và thực tiễn đã và đang đặt ra.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu cơ sở lý luận và thực trạng, đề xuất giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho HS Trường TCYT Vĩnh
Long trong giai đoạn hiện nay.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ cơ sở lý luận của việc giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho HS.
- Phân tích, đánh giá thực trạng giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho HS
Trường TCYT Vĩnh Long.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức
nghề nghiệp cho HS Trường TCYT Vĩnh Long trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu


-9Công tác giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho HS Trường TCYT Vĩnh

Long.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn khảo sát thực trạng đạo đức và công tác giáo dục đạo đức nghề
nghiệp cho HS Trường TCYT Vĩnh Long và đề xuất các giải pháp nâng cao chất
lượng giáo dục đạo đức nghề nghiệp trong giai đoạn hiện nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước về
giáo dục đạo đức cho HS, SV.
Đề tài sử dụng những phương pháp cụ thể:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu.
- Phương pháp lịch sử và logic.
- Phương pháp khảo sát và điều tra xã hội học.
6. Đóng góp của luận văn
- Luận văn góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận của vấn đề giáo dục đạo
đức nghề nghiệp cho HS, SV trong giai đoạn hiện nay.
- Luận văn đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả về giáo dục
đạo đức nghề nghiệp cho HS Trường TCYT Vĩnh Long.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong công tác giáo dục đạo đức
nghề nghiệp cho HS, SV.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm
có 3 chương và 8 tiết.


- 10 -

B. NỘI DUNG
Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP CHO
HỌC SINH TRƯỜNG TRUNG CẤP Y TẾ
1.1. Đạo đức và giáo dục đạo đức nghề nghiệp
1.1.1. Đạo đức và vai trò của đạo đức trong đời sống xã hội
1.1.1.1. Đạo đức
Để đảm bảo sự tồn tại và phát triển của mình, lồi người đã sáng tạo ra
nhiều phương thức điều chỉnh hoạt động nhằm duy trì trật tự, kỷ cương, ổn định
xã hội. Theo đó, đạo đức xuất hiện với vai trị là một trong những phương thức
cơ bản để điều chỉnh các hành vi ứng xử của con người trong xã hội: giữa con
người với con người, giữa cá nhân với xã hội, giữa con người với tự nhiên…
Với tư cách là một bộ phận của tri thức triết học, những tư tưởng đạo đức
đã xuất hiện hơn 26 thế kỷ trước trong triết học Trung Quốc, Ấn Độ, Hi Lạp cổ
đại. Danh từ “đạo đức” bắt nguồn từ tiếng Latinh là mos (moris). Cịn “ln lí”
được xem như đồng nghĩa với “đạo đức” có nguồn gốc từ tiếng Hi Lạp là
Ethicos - lề thói, tập tục. Như vậy, khi nói đến đạo đức tức là nói đến lề thói và
tập tục biểu hiện những mối quan hệ nhất định giữa người với người trong quá
trình giao tiếp với nhau hàng ngày. Khái niệm “đạo đức” lần đầu tiên xuất hiện
trong Kim Văn đời nhà Chu và từ đó trở đi nó được người Trung Quốc cổ đại sử
dụng nhiều. “Đức” dùng để nói đến nhân đức, đức tính và nhìn chung, “đức” là
biểu hiện của đạo, là đạo nghĩa, là nguyên tắc, ln lí.
Trong lịch sử, đã có rất nhiều quan niệm khác nhau về đạo đức nhưng với
khuynh hướng tư tưởng chủ đạo thì đạo đức ln được xem xét trong mối quan
hệ chặt chẽ với đời sống xã hội, là những quy tắc, chuẩn mực chung được dùng
để điều chỉnh các mối quan hệ. Cùng với sự phát triển của xã hội, đạo đức cũng
không ngừng vận động và phát triển. Ban đầu, nó chỉ là những chuẩn mực có tác


- 11 dụng tối thiểu dùng để ngăn cấm mỗi thành viên không được vi phạm, tiếp đến
giai đoạn phát triển cao hơn, những chuẩn mực đạo đức mới được bổ sung có
thêm tác dụng khuyến khích con người tích cực phấn đấu, tự giác hành động vì

cái thiện để mang lại lợi ích cho cộng đồng, nhân đạo hóa đời sống xã hội.
Từ góc độ Triết học, đạo đức được hiểu là một hình thái ý thức xã hội
được tạo nên bởi tổng số các nguyên tắc, các chuẩn mực mà con người phải tuân
theo trong hành vi của mình. Hoặc, đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tập
hợp những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội nhằm điều chỉnh và đánh giá
hành vi của con người trong mối quan hệ với nhau, quan hệ với xã hội; chúng
được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của dư luận
xã hội.
Như vậy, đạo đức là sản phẩm của hoạt động xã hội của con người. Trong
hoạt động đó, con người là chủ thể của hoạt động có ý thức, nên tư tưởng và
hành vi đạo đức ln có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Bởi vậy, với quan niệm
chung nhất của nó, đạo đức cần được nhận thức là một hiện tượng xã hội thuộc
lĩnh vực đời sống xã hội để điều chỉnh hành vi ứng xử của con người (giữa
người với người, giữa cá nhân với cộng đồng, giữa con người với tự nhiên…)
được thực hiện bởi sức mạnh của phong tục, tập quán, dư luận xã hội và lương
tâm của mỗi người cho phù hợp với lợi ích xã hội, hạnh phúc của con người và
tiến bộ của toàn nhân loại.
Ở đây, đạo đức được xem xét với ba dấu hiệu đặc trưng nhất:
Đặc trưng thứ nhất: đạo đức được xem xét là một hình thái ý thức xã hội,
phản ánh tồn tại xã hội, trực tiếp phản ánh hiện thực đời sống đạo đức xã hội.
Trong tác phẩm “Chống Đuyrinh”, khi phê phán các quan điểm duy tâm, tôn
giáo, khẳng định quan điểm vật chất về đạo đức Ph.Ănghen đã viết: “chúng ta
khẳng định rằng: chung quy lại thì mọi học thuyết đạo đức đã có từ trước đến
nay đều là sản phẩm của tình hình kinh tế của xã hội lúc bấy giờ” [14, tr.137].


- 12 Xã hội loài người tồn tại trong sự vận động, phát triển không ngừng đã tạo
nên những đặc tính khác nhau gắn với các kiểu cộng đồng người khác nhau như:
dân tộc, tôn giáo, giai cấp, nghề nghiệp… Theo đó, đạo đức của lồi người cũng
tồn tại và phát triển trong sự thống nhất của tính đa dạng ấy. Đạo đức xã hội

trong mỗi thời kỳ lịch sử ln bao gồm trong nó nhiều đặc tính khác nhau: vừa
có tính phổ biến mang tính nhân loại chung, vừa có tính đặc thù như tính lịch sử,
tính giai cấp, tính dân tộc, tạo nên những đặc tính khác biệt ở mỗi kiểu, loại đạo
đức khác nhau.
Đặc trưng thứ hai: Đạo đức được xem xét với tư cách là một phương thức
điều chỉnh hành vi của con người trong xã hội.
Để điều chỉnh hành vi, ngoài đạo đức loài người còn sáng tạo ra pháp luật.
Giữa hai phương thức điều chỉnh này có sự khác nhau cơ bản. Nếu như pháp
luật sử dụng hệ thống các quy phạm pháp luật để điều chỉnh hành vi của con
người dựa vào sức mạnh của bạo lực, cưỡng chế buộc con người phải tuân theo
thì đạo đức lại sử dụng hệ thống các nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực làm thành
khuôn mẫu để mỗi người thực hiện. Đó là giới hạn được làm hay không được
làm trong hành vi đạo đức của mỗi người và dùng tư tưởng, tình cảm, lí lẽ đúng
đắn để cảm hóa, thuyết phục mọi người chuyển hóa yêu cầu chung của xã hội
thành nhu cầu, động cơ thôi thúc mỗi người tự giác, tự nguyện chấp hành. Đồng
thời kết hợp với sức mạnh của dư luận, phong tục, tập quán xã hội nhằm động
viên, khuyến khích hoặc lên án, ngăn cấm các hành vi trái với chuẩn mực đạo
đức xã hội. Chính vì vậy, đạo đức ngăn ngừa từ bên trong, pháp luật răn đe ở
bên ngoài; pháp luật được xem là đạo đức tối thiểu còn đạo đức được xem là
pháp luật tối đa của con người.
Đặc trưng thứ ba: Đạo đức được xem xét với tư cách là một hệ thống giá
trị thiện – ác.
Mỗi tư tưởng, quy tắc, chuẩn mực và hành vi đạo đức đều chứa đựng
những giá trị nhất định mang lại lợi ích vật chất hoặc tinh thần cho xã hội. Thiện


- 13 là giá trị khẳng định lợi ích xã hội của đạo đức. Ác là sự phủ định giá trị, là cái
đối lập với lợi ích xã hội. Sự đối lập nhau về giá trị, ý nghĩa xã hội trong các
phạm trù đạo đức học là thể hiện sự quan tâm, sự giám sát, thái độ khen – chê,
đồng tình hay phản đối rất rõ ràng của con người trước mỗi thái độ, hành vi ứng

xử hàng ngày của người khác và của chính bản thân mỗi người.
Khi phân tích cấu trúc của đạo đức, người ta xem xét nó dưới nhiều góc
độ khác nhau: xem xét đạo đức theo mối quan hệ giữa ý thức và hành động thì
hệ thống đạo đức được hợp thành từ hai yếu tố: ý thức đạo đức và thực tiễn đạo
đức. Nếu xét nó trong quan hệ giữa người và người thì ta nhìn ra mối quan hệ
đạo đức. Nếu xét theo quan điểm về mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng thì
đạo đức được tạo nên từ đạo đức xã hội và đạo đức cá nhân.
Ở đây chúng ta chỉ xét đạo đức theo mối quan hệ giữa ý thức và hành
động. Dưới góc độ này, đạo đức là sự thống nhất biện chứng giữa ý thức đạo
đức và thực tiễn đạo đức.
Ý thức đạo đức là hệ thống các quy tắc, chuẩn mực, hành vi phù hợp với
những quan hệ đạo đức đã và đang tồn tại. Mặt khác, nó cịn bao hàm cả những
cảm xúc, những tình cảm đạo đức của con người. Ý thức đạo đức là sự thể hiện
thái độ nhận thức của con người trước hành vi của mình trong sự đối chiếu với
hệ thống chuẩn mực hành vi và những quy tắc đạo đức xã hội đặt ra. Nó giúp
con người tự giác điều chỉnh hành vi và hoàn thành một cách tự giác, tự nguyện
những nghĩa vụ đạo đức của mình.
Cùng với ý thức đạo đức, thực tiễn đạo đức là bộ phận thứ hai cấu thành
đạo đức. Thực tiễn đạo đức là hành động của con người do ảnh hưởng của niềm
tin, ý thức đạo đức, là quá trình hiện thực hóa ý thức đạo đức trong cuộc sống. Ý
thức đạo đức và thực tiễn đạo đức ln có quan hệ biện chứng với nhau, bổ sung
cho nhau tạo nên bản chất đạo đức của con người, của một giai cấp, của một chế
độ xã hội hay của một thời đại nhất định. Ý thức đạo đức phải được thể hiện
bằng hành động thì mới đem lại những lợi ích cho xã hội và ngăn ngừa cái ác.


- 14 Nếu khơng có thực tiễn đạo đức thì ý thức đạo đức không đạt tới giá trị, mà sẽ
rơi vào trừu tượng, giáo điều. Thực tiễn đạo đức được nảy sinh trên cơ sở ý thức
đạo đức nhưng cũng chính thực tiễn đạo đức là mục tiêu, động lực của ý thức
đạo đức và là nơi kiểm nghiệm giá trị đạo đức của một con người.

1.1.1.2. Vai trò của đạo đức trong đời sống xã hội
Từ rất sớm vấn đề đạo đức đã được chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập đến một
cách toàn diện. Người khẳng định đạo đức là gốc của con người cách mạng.
Trong tác phẩm Đường Cách Mạng, Người đã nêu lên 23 điểm thuộc “Tư cách
người cách mạng” trong đó chủ yếu là các tiêu chuẩn về đạo đức, thể hiện chủ
yếu trong ba mối quan hệ: với mình, với người và với việc. Người viết: “Làm
cách mạng để cải tạo xã hội mới là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là
một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài gian khổ.
Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo
đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ
vang” [32, tr.260].
Trong xã hội, đạo đức được xem là thước đo thang giá trị con người mọi
thời đại. Trong cuộc sống, nếu cá nhân con người không lấy được đạo đức làm
nền tảng định hướng hành vi của bản thân, thì khơng thể xây dựng được một xã
hội theo đúng nghĩa tên gọi của nó. Ngày nay, với sự phát triển của xã hội, cuộc
sống hiện đại đã làm cho con người có những cách nhìn mới về những giá trị
đạo đức. Sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật tân tiến mang lại cho con người nhiều
tiện nghi thoải mái. Tuy nhiên, nó cũng mang lại cho con người nhiều nỗi phiền
tối, và cịn lấy mất khỏi con người nhiều giá trị cao đẹp – vốn là những điều
quan trọng trong việc hình thành nhân cách, lý tưởng sống của con người.
Những phương tiện khoa học kỹ thuật vốn không tốt cũng khơng xấu. Nó
tốt hay xấu là tùy thuộc vào người sử dụng nó. Thế nhưng, những phương tiện
khoa học kỹ thuật, cuộc sống hiện đại đã làm cho con người, nhất là những
người trẻ, có những thay đổi cách nhìn về giá trị đạo đức. Giới trẻ ngày nay có


- 15 cách nhìn về cuộc sống, con người, thời đại và về những giá trị đạo đức khác
những người xưa nhiều. Đạo đức ngày nay bao gồm nhiều lĩnh vực, chứ khơng
gói gọn trong cách học làm người: Đạo đức sinh học, đạo đức trong kinh doanh,
đạo đức trong chính trị, đạo đức trong nhà trường, đạo đức trong tơn giáo…mỗi

một trong những nền đạo đức này nói lên một khía cạnh nào đó của cuộc sống
con người. Giá trị của chúng khác nhau, tuy nhiên, chúng có một điểm chung là
con người. Giá trị đạo đức thực là cái bảo đảm cho một cuộc sống hạnh phúc
hơn, sung mãn hơn.
Vai trò của đạo đức thể hiện ở chức năng của nó:
- Chức năng điều chỉnh hành vi: Đạo đức là một phương thức điều chỉnh
hành vi. Sự điều chỉnh hành vi làm cá nhân và xã hội phát triển, đảm bảo quan
hệ lợi ích cá nhân và cộng đồng. Loài người đã sáng tạo ra nhiều phương thức
điều chỉnh hành vi trong đó có chính trị, pháp quyền và đạo đức. Điều chỉnh
hành vi của đạo đức và pháp quyền khác nhau ở mức độ đòi hỏi và phương thức
điều chỉnh. Pháp quyền được biểu hiện bằng pháp luật, là ý chí của giai cấp
thống trị buộc mọi người phải tuân theo. Trong khi đó, pháp quyền là đạo đức
tối thiểu của mỗi cá nhân sống trong cộng đồng. Đạo đức đòi hỏi từ tối thiểu đến
tối đa hành vi của cá nhân. Phương thức điều chỉnh là bằng dư luận xã hội và
lương tâm. Chức năng điều chỉnh hành vi của đạo đức bằng xã hội và lương tâm
đòi hỏi từ tối thiểu đến tối đa hành vi con người đã trở thành đặc trưng riêng để
phân biệt đạo đức với các hình thái ý thức khác. Mục đích chính là để đảm bảo
sự tồn tại và phát triển xã hội.
- Chức năng giáo dục: Con người vươn lên “chân – thiện – mỹ”. Con
người là sản phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể của lịch sử. Hệ thống đạo
đức do con người tạo ra, nhưng sau khi tạo ra hệ thống đạo đức tồn tại khách
quan, tác động, chi phối đến hành vi của con người. Môi trường đạo đức tác
động đến đạo đức cá nhân bằng nhận thức đạo đức và thực tiễn đạo đức. Hiệu
quả giáo dục đạo đức phụ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội, cách thức tổ


- 16 chức, giáo dục mức độ tự giác của chủ thể và đối tượng giáo dục trong quá trình
giáo dục.
- Chức năng nhận thức: Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội đạo đức
có chức năng nhận thức thông qua sự phản ánh tồn tại xã hội. Sự phản ánh của

đạo đức với hiện thực có đặc điểm riêng khác với các hình thái ý thức khác. Đạo
đức là hiện tượng xã hội vừa mang tính tinh thần vừa mang tính hành động hiện
thực. Đạo đức với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, là tổng số các quy tắc,
các nguyên tắc định hướng hành vi của con người trong giao tiếp xã hội. Những
quy tắc, nguyên tắc ấy là sự biểu hiện của quan hệ hiện thực xác định giữa con
người với con người. Việc giáo dục đạo đức là chuyển những quy tắc, chuẩn
mực đạo đức được xã hội thừa nhận và trong ý thức mỗi cá nhân tự điều chỉnh
hành vi của mình. Bởi vậy ý thức đạo đức có vai trị hết sức to lớn. Khơng có ý
thức đạo đức thì xã hội khơng tiến lên được. Sự hình thành, hoàn thiện và phát
triển hệ thống giá trị đạo đức khơng tách rời sự phát triển và hồn thiện của ý
thức đạo đức và sự điều chỉnh đạo đức. Ý thức đạo đức phải được thể hiện bằng
hành động thì mới đem lại những lợi ích xã hội và loại trừ cái ác.
1.1.2. Đạo đức nghề nghiệp
Trong xã hội có rất nhiều ngành nghề khác nhau, mỗi ngành nghề có đặc
thù riêng, cho nên có vai trị và vị trí khác nhau trong nền kinh tế quốc dân. Khi
bàn về khái niệm nghề nghiệp có một số quan điểm khác nhau. Theo Từ điển
Việt Nam “Nghề nghiệp là một công việc mà người ta thực hiện trong suốt cả
cuộc đời” [47, tr.698]. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin thì nghề là
một hiện tượng xã hội có tính lịch sử, tức là có q trình ra đời, phát triển và suy
vong. Đặc điểm để có nghề là phải lao động, lao động là một hoạt động sáng tạo
của con người, đồng thời cũng là tiền đề, là cơ sở để xuất hiện nhiều ngành nghề
hơn trong lịch sử loài người.
Trong các lớp từ vựng của tiếng Việt, từ “nghề nghiệp” nằm ở vị trí khá
khiêm tốn. Khái niệm và đặc điểm nghề nghiệp ít được đề cập đến. Trong một


- 17 -

số tài liệu về ngôn ngữ học, những quan niệm hiện có về từ nghề nghiệp vẫn
chưa có định nghĩa nào làm thỏa mãn sự hiểu biết của chúng ta về bản chất của

tên gọi này.
Trong Từ điển giải thích thuật ngữ ngơn ngữ học định nghĩa từ nghề
nghiệp là: “các từ, ngữ đặc trưng cho ngôn ngữ của các nhóm người thuộc cùng
một nghề hoặc cùng một lĩnh vực hoạt động nào đó” [45, tr.234].
Theo đó, nghề nghiệp là những từ ngữ biểu thị những công cụ, sản phẩm
lao động và quá trình sản xuất của một nghề nào đó trong xã hội. Những từ này
thường được những người trong ngành đó biết và sử dụng. Những người khơng
làm nghề ấy tuy ít nhiều cũng có thể biết nhiều từ ngữ nghề nghiệp nhưng ít
hoặc hầu như khơng sử dụng chúng. Do đó từ ngữ nghề nghiệp cũng là một lớp
từ vựng được dùng hạn chế về mặt xã hội.
Từ bản chất nghề nghiệp, đạo đức nghề nghiệp được hiểu là đạo đức trong
một ngành nghề nhất định. Ví dụ: nghề khai thác mỏ thì người thợ khai thác bên
cạnh những kĩ năng cần có phải có kiến thức chuyên sâu về khai thác; hoặc nghề
giáo viên phải có kĩ năng giảng dạy nhằm tạo được hứng thú học tập cho người
học…
Đạo đức nghề nghiệp cũng có những nguyên tắc chuẩn mực đạo đức,
được dư luận xã hội thừa nhận và quy định hành vi ứng xử trong mối quan hệ
với xã hội. Bản chất của đạo đức nghề nghiệp có những đặc thù riêng phản ánh
tích chất cơng việc của ngành, nghề nhất định, nó quy định những hành vi của
con người lao động trong ngành nghề đó. Khi những nguyên tắc chuẩn mực đạo
đức của ngành nghề đó thực hiện khơng đầy đủ hay khơng được thực hiện trong
cơng việc nó sẽ ảnh hưởng rất lớn đối với chất lượng và hiệu quả hoạt động của
ngành đó. Ví dụ: là chiến sĩ cơng tác trong quân đội nhân dân Việt Nam thì phải
tuyệt đối trung thành với tổ quốc, với nhân dân, quyết tâm bảo vệ vững chắc tổ
quốc Việt Nam XHCN.


- 18 Đạo đức nghề nghiệp là đạo đức xã hội, là một hình thái ý thức xã hội,
ln bị chi phối bởi xã hội bằng sức mạnh và dư luận của xã hội, đạo đức nghề
nghiệp là một bộ phận cấu thành đạo đức xã hội. Do đó, đạo đức nghề nghiệp là

một hệ thống những chuẩn mực giá trị đạo đức xã hội phù hợp với đặc thù của
từng ngành, từng nghề nhất định. Đạo đức nghề nghiệp xuất hiện theo sự phân
công trong lao động sản xuất. Trong xã hội có bao nhiêu nghề thì có bấy nhiêu
đạo đức nghề nghiệp. Trong bất cứ giai đoạn và hồn cảnh lịch sử nào thì đạo
đức nghề nghiệp ln luôn là đạo đức xã hội, chịu sự chi phối của đạo đức xã
hội.
Đạo đức nghề nghiệp là tổng hợp những nguyên tắc, quy tắc, những chuẩn
mực đạo đức xã hội mang tính đặc thù của một bộ phận xã hội nhất định nhằm
định hướng và điều chỉnh hành vi ứng xử và giải quyết những mối quan hệ giữa
các thành viên và xã hội, chịu sự chế ước của pháp luật trong xã hội
Đối với ngành Y tế, đạo đức chính là y đức của người CBYT. Đó là
những tiêu chuẩn, nguyên tắc được xã hội thừa nhận, nó quy định hành vi trong
mối quan hệ giữa thầy thuốc và bệnh nhân, với đồng nghiệp. Cũng như nghề
thầy giáo, nghề thầy thuốc lấy con người là đối tượng công tác nhưng đặc điểm
nghề nghiệp của người thầy thuốc còn nhạy cảm hơn nhiều. Chức năng nghề
nghiệp của ngành Y tế là chăm sóc và bảo vệ sức khỏe con người, đó là vốn quý
nhất của con người và xã hội. Tuy nhiên trong giai đoạn hiện nay, trước thực
trạng đạo đức nghề nghiệp của một bộ phận CBYT đang xuống dốc thì việc học
tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là hết sức cần thiết. Phấn đấu
trở thành người thầy thuốc cách mạng có đức độ, bao dung, gần gũi, thương yêu
người bệnh như mẹ hiền, vừa là mục tiêu nghề nghiệp và cũng là yêu cầu, mong
muốn của người bệnh.
1.1.3. Giáo dục đạo đức nghề nghiệp
1.1.3.1. Giáo dục


- 19 Giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt mà bản chất của nó là truyền
thụ và lĩnh hội những kiến thức và kinh nghiệm của các thế hệ lồi người. Nhờ
đó mà các thế hệ nối tiếp nhau lĩnh hội, kế thừa, bổ sung và phát triển những
kiến thức và kinh nghiệm của thế hệ trước, trên cơ sở đó mà nhân loại ngày càng

phát triển.
Theo Từ điển Tiếng Việt, giáo dục là “hoạt động nhằm tác động một cách
có hệ thống đến sự phát triển tinh thần, thể chất của một đối tượng nào đó, làm
cho đối tượng ấy dần dần có được những phẩm chất và năng lực như yêu cầu đề
ra” [46, tr.394].
Dưới một góc độ khác, giáo dục được hiểu “là hiện tượng truyền đạt lại
những giá trị, những kinh nghiệm lịch sử - xã hội đã được tích lũy qua các thế
hệ. Các thế hệ nối tiếp nhau tiếp thu có chọn lọc hệ thống những tri thức, những
kinh nghiệm ấy, tham gia cải tạo xã hội, cải tạo bản thân, thúc đẩy cuộc sống
phát triển không ngừng” [30, tr.3].
Theo nghĩa rộng, giáo dục được hiểu “là sự hình thành nhân cách có mục
đích và có tổ chức những sức mạnh thể chất và tinh thần của con người, hình
thành thế giới quan, bộ mặt đạo đức và thị hiếu thẩm mỹ cho con người; với
nghĩa rộng nhất, khái niệm này bao hàm giáo dưỡng, dạy học và tất cả những
yếu tố tạo nên những nét tính cách và phẩm hạnh của con người, đáp ứng các
nhu cầu của nền kinh tế - xã hội” [28, tr.25-26].
Theo nghĩa hẹp, “giáo dục bao gồm quá trình hoạt động nhằm hình thành
thế giới quan khoa học, lí tưởng đạo đức, thái độ thẩm mỹ đối với hiện thực của
con người, kể cả việc phát triển, nâng cao thể lực” [28, tr.27]. Quá trình này
được xem là một bộ phận của quá trình giáo dục tổng thể mà kết quả được xem
xét trên phương diện ý thức, thái độ, hành vi, thói quen biểu hiện sự phát triển
của trình độ “có giáo dục” của mỗi người.
Trong lịch sử phát triển giáo dục của nhân loại, đã có nhiều hình thức giáo
dục khác nhau. Mỗi hình thức đều phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội và hoàn


- 20 cảnh lịch sử đã sản sinh ra nó. Lịch sử đã chứng minh rằng giáo dục là một hiện
tượng xã hội đặc biệt, luôn luôn là thành phần trong cơ cấu, thiết chế xã hội và
gắn liền với sự thỏa mãn nhu cầu phát triển và tiến bộ xã hội: bất cứ xã hội nào
muốn tồn tại và phát triển đều phải tổ chức và thực hiện việc giáo dục liên tục

đối với các thế hệ. Vì giáo dục là một nhu cầu tất yếu của xã hội cho nên trong
tiến trình phát triển, xã hội sẽ tìm ra phương thức thích hợp để đáp ứng, nhằm
thỏa mãn các yêu cầu về giáo dục để duy trì sự tồn tại và phát triển theo hướng
ngày càng hoàn thiện hơn.
1.1.3.2. Giáo dục đạo đức nghề nghiệp
Như trên đã phân tích, giáo dục đạo đức là q trình biến đổi hệ thống các
chuẩn mực từ những địi hỏi bên ngồi, bên trong của mỗi cá nhân thành niềm
tin, nhu cầu, thói quen của người được giáo dục.
Giáo dục đạo đức nghề nghiệp là một bộ phận của giáo dục đạo đức nói
chung. Giáo dục đạo đức nghề nghiệp nhằm đào tạo bồi dưỡng con người một
cách toàn diện trên tất cả các mặt: Đức – Trí – Thể – Mỹ. Giáo dục đạo đức
nghề nghiệp là yếu tố được quan tâm hàng đầu trong quá trình giáo dục, là sự tác
động qua lại giữa các hoạt động giáo dục nghề nghiệp với người học nghề nhằm
hình thành ở họ những phẩm chất nghề nghiệp cần thiết. Như vậy, nếu xem xét
dưới góc độ lý thuyết hệ thống thì giáo dục đạo đức nghề nghiệp bao gồm các
thành tố: mục đích và yêu cầu, nội dung và phương pháp, biện pháp, phương
tiện, các lực lượng tham gia, người dạy nghề, người học nghề và kết quả giáo
dục đạo đức nghề nghiệp. Các thành tố này vận động và phát triển trong mối
quan hệ biện chứng với nhau, thành tố này quy định, ảnh hưởng đến thành tố
khác và tạo nên sự vận động chung của cả hệ thống giáo dục đạo đức nghề
nghiệp.
Đối với giáo dục Việt Nam hiện nay, giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho
HS, SV là phát triển mặt đạo đức nhân cách trong quá trình thực hiện, hành nghề
của các em sau này. Đối với các em HS – sinh viên, giáo dục đạo đức nghề


- 21 nghiệp là q trình hồn thành ý thức đạo đức, tình cảm đạo đức, hành vi và thói
quen đạo đức dựa trên những chuẩn mực, nguyên tắc đạo đức cách mạng, mà
tấm gương sáng ngời là đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Giáo dục đạo đức nghề nghiệp là toàn bộ nội dung giáo dục toàn diện con

người, là quá trình kết hợp nâng cao nhận thức với hình thành thái độ, xúc cảm,
niềm tin và hành vi thói quen đạo đức. Giáo dục đạo đức nghề nghiệp phải gắn
chặt với giáo dục chính trị, tư tưởng, pháp luật, văn hóa,...
Như vậy, giáo dục đạo đức nghề nghiệp chính là hệ thống các chuẩn mực
về nghề nghiệp được đưa ra nhằm giáo dục người học trong hoạt động nghề
nghiệp của mình, giúp ích cho q trình kết hợp hài hòa giữa năng lực nghề
nghiệp và đạo đức nghề nghiệp.
1.2. Nội dung và hình thức giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho học
sinh, sinh viên trường y trong giai đoạn hiện nay
1.2.1. Nội dung giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho học sinh, sinh viên
trường y trong giai đoạn hiện nay
1.2.1.1. Giáo dục chuẩn mực đạo đức nghề Y
Ở Việt Nam nghề y và đạo đức nghề y ra đời từ rất sớm và chịu ảnh
hưởng lớn của đạo đức truyền thống phương Đơng thích ứng với nền sản xuất
nhỏ, tự cung tự cấp. Lý luận về đạo đức nghề y được xây dựng trên cơ sở đạo
đức của Nho giáo và Phật giáo. Sự tự giác rèn luyện theo các chuẩn mực đạo
đức của đạo Nho và đạo Phật tạo nên những nét riêng trong đạo đức nghề y Việt
Nam. Các tên tuổi lớn gắn với nghề y trong lịch sử có Phạm Cơng Bân, Nguyễn
Bá Tĩnh thời nhà Trần, Đào Cơng Chính, Lê Hữu Trác thời nhà Lê, Nguyễn Gia
Phan thời Tây Sơn…Từ khi đất nước giành được độc lập, đạo đức xã hội nói
chung, đạo đức nghề y nói riêng được xây dựng trên cơ sở chủ nghĩa Mác –
Lênin và tinh hoa đạo đức truyền thống của dân tộc.
Qua thực tiễn của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng xã hội
mới, đạo đức nghề y đã hình thành rõ nét, được các nhà khoa học bàn luận


- 22 nhiều, khái quát lại, y đức có nghĩa chung là những nguyên tắc phẩm hạnh và
các chuẩn mực phẩm hạnh của người thầy thuốc (đại diện cho nghề y) trong
quan hệ với bệnh nhân, với công việc, với y học, với đồng nghiệp và với xã hội.
Y đức là một phẩm chất tốt đẹp của những người tham gia hoạt động trong

ngành y, đó là tinh thần trách nhiệm, là sự tận tụy với cơng việc, hết lịng u
thương chăm sóc bệnh nhân. Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “Lương y như từ
mẫu” [31, 476]. Trong “Thư gửi Hội nghị quân y” tháng 3 năm 1948 Người
viết: “ Người thầy thuốc chẳng những có nhiệm vụ cứu chữa bệnh tật mà còn
phải nâng đỡ tinh thần những người ốm yếu”. Để hoàn thành tốt nhiệm vụ cao
cả đó địi hỏi người CBYT phải có lịng u ngành, yêu nghề, coi việc chăm sóc
sức khỏe của nhân dân là lẽ sống, là niềm vui là hạnh phúc của chính mình. Hơn
lúc nào hết, đạo đức nghề nghiệp phải được đề cao và thực hiện một cách hoàn
toàn tự nguyện, tự giác, không vụ lợi, coi hạnh phúc của người bệnh là hạnh
phúc của chính mình
Thực hiện lời dặn của Người, Bộ Y tế đã ban hành Quyết định số
2088/QĐ-BYT, ngày 06/11/1996, trong đó quy định 12 điều y đức nhằm giúp
đội ngũ cán bộ ngành y tế tự học tập, tu dưỡng và rèn luyện để trở thành những
người thầy thuốc của nhân dân:
“1. Chǎm sóc sức khoẻ cho mọi người là nghề cao quý. Khi đã tự nguyện
đứng trong hàng ngũ y tế phải nghiêm túc thực hiện lời dạy của Bác Hồ. Phải có
lương tâm và trách nhiệm cao, hết lòng yêu nghề rèn luyện nâng cao phẩm chất
đạo đức của người thầy thuốc. Không ngừng học tập nghiên cứu khoa học để
nâng cao trình độ chun mơn. Sẵn sàng vượt qua mọi khó khăn gian khổ, vì sự
nghiệp chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân.
2. Tôn trọng pháp luật và thực hiện các quy chế chuyên môn, không được
sử dụng người bệnh là thực nghiệm cho các phương pháp chuẩn đoán, điều trị
nghiên cứu khoa học khi chưa được phép của bộ y tế và sự chấp nhận của người
bệnh.


- 23 3. Tôn trọng quyền được khám bệnh, chữa bệnh của nhân dân, tơn trọng
những bí mật riêng tư về sức khỏe của người bệnh. Khi thăm khám, chăm sóc
cần bảo đảm sự kín đáo và lịch sự. Quan tâm đến những người trong diện chính
sách ưu đãi xã hội, không được phân biệt đối xử với người bệnh, khơng được có

thái độ ban ơn, lạm dụng nghề nghiệp và gây phiền hà cho người bệnh, phải
trung thực khi thanh tốn các chi phí khám, chữa bệnh.
4. Khi tiếp xúc với bệnh nhân và gia đình họ phải có thái độ niềm nở, tận
tình, trang phục chỉnh tề, sạch sẽ tạo niềm tin cho người bệnh. Phải giải thích
tình hình bệnh tật cho người bệnh và gia đình họ hiểu để cùng hợp tác chữa
bệnh, phổ biến cho họ về chế độ chính sách, quyền lợi và nghĩa vụ của người
bệnh, động viên an ủi, khuyến khích người bệnh điều trị, tập luyện để chóng hồi
phục. Trong trường hợp bệnh nặng hoặc tiên lượng xấu cũng phải hết lòng cứu
chữa và chǎm sóc đến cùng, đồng thời thơng báo cho gia đình người bệnh biết
5. Khi cấp cứu phải khẩn trương chẩn đốn, xử trí kịp thời khơng được
đùn đẩy người bệnh
6. Kê đơn phải phù hợp với chẩn đốn và bảo đảm sử dụng thuốc hợp lý
an tồn; khơng vì lợi ích cá nhân mà giao cho người bệnh thuốc kém phẩm chất,
thuốc không đúng với yêu cầu và mức độ bệnh
7. Khơng được rời khỏi vị trí trong khi làm nhiệm vụ, theo dõi và xử lý
kịp thời các diễn biến của người bệnh.
8. Khi người bệnh ra viện phải dặn dò chu đáo, hướng dẫn họ tiếp tục điều
trị, tự chăm sóc và giữ gìn sức khỏe.
9. Khi người bệnh tử vong, phải thông cảm sâu sắc, chia buồn và hướng
dẫn gia đình họ làm các thủ tục cần thiết.
10. Thật thà, đồn kết, tơn trọng đồng nghiệp, kính trọng các bậc thầy, sẵn
sàng truyền thụ kiến thức, học hỏi kinh nghiệm, giúp đỡ lẫn nhau.
11. Khi bản thân có thiếu sót, phải tự giác nhận trách nhiệm về mình,
khơng đổ lỗi cho đồng nghiệp, cho tuyến trước.


×