Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

CÁC CHÍNH SÁCH BIÊN PHÁP THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU VÀ TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1986-2000

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (242.62 KB, 31 trang )

CÁC CHÍNH SÁCH BIÊN PHÁP THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU
VÀ TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM GIAI ĐOẠN
1986- 2000
I. CÁC CHÍNH SÁCH VÀ BIỆN PHÁP MÀ NHÀ NƯỚC TA ĐÃ VÀ ĐANG SỬ
DỤNG.
1. Quá trình đổi mới cơ chế chính sách xuất khẩu.
Với nghị định 40/NĐ-CP ngày 07/02/1980 của Chính phủ về quy định một số chính sách
và biện pháp khuyến khích sản xuất hàng xuất khẩu, từ chỗ chỉ có một vài doanh nghiệp lớn thuộc
Bộ Ngoại thương độc quyền xuất khẩu đã mở rộng hoạt động xuất khẩu đến các DN quốc doanh
thuộc các tỉnh, thành phố trọng điểm và các Bộ khác ngoài Bộ Ngoại thương lúc bấy giờ. Cho đến
năm 1989, với nghị định 64/NĐ-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng ( nay là Chính phủ), ngày
10/06/1989 đã thực sự bắt đầu thời kỳ đổi mới toàn diện cơ chế chính sách xuất khẩu từ cơ chế kế
hoạch hóa tập trung, bao cấp sang cơ chế thị trường định hướng XHCN, lần đầu tiên các doanh
nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được quyền xuất khẩu trực tiếp các sản phẩm do mình làm ra.
Trong quá trình thực hiện, Nhà nước không ngừng xây dựng và hoàn thiện cơ chế chính
sách xuất khẩu làm cho nó ngày càng thông thoáng và phù hợp dần với thông lệ quốc tế.
- Ngày 07/04/1992 Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Nghị định số 114/NĐ-HĐBT đã mở
rộng đến tất cả các doanh nghiệp sản xuất thuộc mọi thành phần kinh tế, không phân biệt quy mô
sản xuất được quyền xuất khẩu các sản phẩm do mình sản xuất ra. Còn các DN kinh doanh thuần
túy nếu có đủ vốn lưu động từ 200 ngàn USD trở lên và lãnh đạo DN đáp ứng tiêu chuẩn quy định
cũng được quyền xuất khẩu hàng hóa.
Nếu như Nghị định 64 là bước “ đột phá ” đổi mới cơ chế chính sách điều hành hoạt động
xuất khẩu thì Nghị định 57/1998/NĐ-CP ra ngày 31/07/1998 của Chính phủ quy định chi tiết thi
hành Luật Thương mại về hoạt động xuất khẩu, gia công và đại lý mua bán hàng hóa với nước
ngoài là bước “ ngoặt lịch sử ” chuyển sang cơ chế thị trường của hoạt động xuất khẩu. Điểm nổi
bật của sự đổi mới là mở rộng quyền kinh doanh xuất khẩu thuộc mọi thành phần kinh tế, khuyến
khích mạnh mẽ sản xuất hàng xuất khẩu và xuất khẩu thông qua các chính sách thuế, tín dụng ưu
đãi ...
Từ chỗ chỉ có 50 doanh nghiệp Nhà nước được Nhà nước chỉ định nắm độc quyền kinh
doanh xuất nhập khẩu năm 1986 đến cuối tháng 7/1998 (trước nghị định 57/NĐ-CP) toàn quốc đã
có 2.250 doanh nghiệp được cấp giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu theo nghị định 114/NĐ-


HĐBT, trong đó có 654 doanh nghiệp dân doanh và 1.596 doanh nghiệp Nhà nước. Theo nghị định
57/NĐ-CP thì tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được thành lập theo quy định
của pháp luật đều được phép xuất nhập khẩu hàng hóa theo ngành nghề đã đăng ký trong giấy
chứng nhận đưng ký kinh doanh và trước khi tiến hành hoạt động xuất nhập khẩu chỉ cần đăng ký
mã số doanh nghiệp kinh doanh tại Cục Hải quan tỉnh, thành phố nới doanh nghiệp đóng trụ sở .
Nhờ vậy mà số doanh nghiệp đăng ký kinh doanh xuất nhập khẩu tăng lên nhanh chóng. Theo báo
cáo của Tổng cục Hải quan thì đến hết tháng 11/2000 đã có 10 ngàn doanh nghiệp đăng ký mã số
doanh nghiệp xuất nhập khẩu, chiếm gần 20% tổng doanh nghiệp của cả nước. Trong đó có 4.500
doanh nghiệp Nhà nước, chiếm gần 90% số doanh nghiệp Nhà nước hiện có và có 5.500 doanh
nghiệp dân doanh, chiếm hơn 12% tổng số doanh nghiệp dân doanh.
Có thể nói cùng các văn bản pháp quy hướng dẫn của các Bộ, ngành có liên quan như Bộ
Tài chính, Bộ Thương mại, Tổng cục Hải quan ... đến nay, hệ thống cơ chế chính sách điều hành
hoạt động xuất khẩu nói riêng và xuất nhập khẩu nói chung đã được hình thành khá đồng bộ,
thông thoáng và phù hợp dần với các thông lệ quốc tế.
2. Các chính sách và biện pháp cụ thể đã được sử dụng:
2.1. Cơ chế quản lý: nói chung chính sách thương mại của Việt Nam mang tính bảo hộ
khá cao qua việc thực hiện nhiều biện pháp phi thuế quan như cấm nhập khẩu tạm thời, hạn chế số
lượng, hạn chế hạn ngạch nhập khẩu và điều chỉnh tỷ giá hối đoái ... Và tỷ lệ thuế nhập khẩu trung
bình trong ba năm gần đây đã tăng 0,8%. Mặc dù, thông qua các chính sách bảo hộ đã giúp bảo vệ
trực tiếp các nhà sản xuất Việt Nam.trong việc cạnh tranh với các nhà sản xuất nước ngoài và phát
triển, chiếm lĩnh thị trường trong nước nhưng do còn mang tính bảo hộ khá cao và hơn nữa là sự
kéo dài việc thực hiện bảo hộ đã là nguyên nhân gây ra tác động xấu cho nhiều lĩnh vực của nền
kinh tế, như:
* Thứ nhất, người tiêu dùng bao gồm những người tiêu dùng cho các sản phẩm chịu thua lỗ
do việc họ phải mua hàng hóa với mức giá cao hơn giá thế giới.
* Hai là, chính sách bảo hộ thương mại làm tăng chi phí của các sản phẩm được làm từ các
nguyên liệu trong nước.Ví dụ giá cả đắt như sắt, thép, xi măng ... làm tăng chi phí của các công
trình và sản phẩm xây dựng ... Chính sách bảo hộ thương mại gây bất lợi cho ngành công nghiệp
chế biến của Việt Nam mà ngành này là đặc trưng của một đất nước công nghiệp hóa và hiện đại
hóa.

* Hầu hết các nhà đầu tư bao gồm cả các nhà đầu tư nước ngoài ở Việt Nam cũng muốn
được bảo vệ và có khuynh hướng đầu tư vào những ngành công nghiệp được bảo hộ cao vì vậy họ
quan tâm đến chính sách thay thé nhập khẩu và không quan tâm đến sự cạnh tranh sản phẩm của
họ với doanh nghiệp nước ngoài.
* Lợi thế so sánh của Việt Nam của các hàng hóa chủ lực bị giảm sút, vì thực tế do giá cả
của chúng, nếu so với giá trung bình của thế giới khá đắt từ 30% đến trên 2 lần.
2.2. Quyền kinh doanh xuất khẩu: để nhận được giấy phép kinh doanh xuất khẩu một
doanh nghiệp phải có ít nhất một khoản vốn bảo đảm 200.000 USD (theo nghị định 114/HĐBT
4/1992). Từ đầu năm 1993 điều kiện vốn đã được nới lỏng, vì vậy số doanh nghiệp kinh doanh
xuất nhập khẩu đã tăng lên. Khoản vốn bảo đảm 200.000 USD quả thực là một khó khăn đối với
các doanh nghiệp trong khu vực tư nhân. Bên cạnh đó các doanh nghiệp chỉ có thể xuất khẩu
những hàng hóa được đăng ký trong giấy phép của họ. Có thể nói trước năm 1998 thương mại
quốc tế của Việt Nam chịu sự độc quyền của khu vực nhà nước. Về phần các doanh nghiệp xuất
nhập khẩu tư nhân, Nhà nước có thể huỷ bỏ giấy phép kinh doanh của họ bất cứ lúc nào. Điều này,
vì vậy, tạo nên môi trường kinh doanh không ổn định và không công bằng. Luật thương mại được
thông qua vào đầu năm 1997 dẫn đến việc thay đổi một số thay đổi trong cơ chế quản lý hoạt động
xuất khẩu của Việt Nam.cụ thể ;
Đến năm 1998, theo nghị định 55/QĐ- TTg của Thủ tướng chính phủ 3/1998, tất cả các
doanh nghiệp có thể tham gia trực tiếp vào hoạt động xuất nhập khẩu mà không cần phải có bất cứ
điều kiện nào, trừ việc đăng ký mã mặt hàng kinh doanh tại cơ quan Hải quan. Từ 7/1998 sự điều
chỉnh này đã được áp dụng cho hàng xuất, nhập khẩu theo nghị định 57/1998/NĐ-CP của Thủ
tướng chính phủ, cung cấp chỉ dẫn, quy định chi tiết thi hành luật Thương mại. Theo nghị định này
các doanh nghiệp Việt Nam được phép hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hóa theo ngành
nghề đã ghi trong Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh sau khi đã đăng ký mã số tại Cục Hải
quan tỉnh, thành phố và không phải xin giấy phép từ Bộ trưởng Bộ Thương mại, thủ tục cũng được
rút gọn và việc cấp giấy phép cho các sản phẩm gia công đã được bãi bỏ. Sự thay đổi rõ ràng trong
quyền xuất khẩu của khu vực đầu tư nước ngoài,
Theo nghị định 10/1998/NĐ-CP của Chính phủ (23/01/1998) về một số biện pháp khuyến
khích và bảo đảm hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam, doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài có thể xuất khẩu và thực hiện việc xuất khẩu các hàng hóa không phải do họ sản xuất

ra, loại trừ 12 loại hàng hóa trong sự điều chỉnh của Nhà nước (xuất khẩu theo đúng với các giấy
phép đầu tư).
Theo nghị định 48/1998/NĐ-CP về chứng khoán và kinh doanh chứng khoán, người nước
ngoài được phép có đến 30% cổ phần trong công ty Việt Nam nhất định. Điều này đã tạo nên loại
công ty kinh doanh xuất khẩu khác với vốn nước ngoài đầu tư trực tiếp.
Với những sự sửa đổi trên về quyền kinh doanh xuất nhập khẩu là cở sở tạo ra những điều
kiện thuận lợi cho việc đàm phán các hiệp định thương mại với các nước và việc gia nhập tổ chức
thương mại thế giới (WTO).
2.3. Giấy phép xuất khẩu, hạn chế số lượng và hạn chế hạn ngạch.
Trong suốt thời kỳ trước năm 1991 hạn ngạch xuất khẩu được phân bổ cho 100 mặt hàng.
Từ tháng 4/1991, hạn ngạch được chỉ áp dụng cho 4 mặt hàng xuất khẩu (gạo, cà phê, cao su và
gỗ) và từ năm 1992 gạo là mặt hàng duy nhất cần hạn ngạch xuất khẩu. Một số điều khoản đưa ra
cho hạn ngạch và giấy phép xuất khẩu giảm đột ngột vào năm 1998 sau khi có quyết định
11/1998/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ.
2.4. Các dịch vụ hỗ trợ xuất khẩu: xuất khẩu, trong phạm vi hội nhập thế giới, không chỉ
được giới hạn trong việc kinh doanh hàng hóa hữu hình qua biên giới quốc gia mà còn bao gồm cả
việc thực hiện các dịch vụ thông qua các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài. Để phát triển
xuất nhập khẩu và để tăng khả năng cạnh tranh, các doanh nghiệp có khuynh hướng sử dụng ngày
càng nhiều dịch vụ hỗ trợ. Các dịch vụ đó là đòn bẩy quan trọng làm tăng giá trị của hàng hóa hữu
hình xuất khẩu của các doanh nghiệp. Cho đến bây giờ, có các hình thức hỗ trợ xuất khẩu khác
nhau ở Việt Nam. Bao gồm:
* Dịch vụ cung cấp thông tin: cung cấp cho các công ty thông tin về thị trường, giá cả, đối
thủ cạnh tranh, xu hướng của thị trường và các hoạt động xúc tiến thương mại (quảng cáo, xúc tiến
bán, tuyên truyền, bán hàng cá nhân). Dịch vụ này đã ra đời được một vài năm nhưng nó vẫn chưa
có sự phát triển một cách mạnh mẽ và chủ yếu do các tổ chức của Nhà nước (một số Bộ, các
ngành công nghiệp trung tâm và địa phương), đại diện thương mại của Việt Nam ở nước ngoài và
một số tổ chức phi Chính phủ khác (NGOs) như Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam ...
Nói chung, các doanh nghiệp phải tìm kiếm thông tin trên thị trường, về đối thủ cạnh tranh thông
qua phương tiện thông tin đại chúng, sách báo ... Còn đại diện thương mại của Việt Nam và cơ
quan đại diện và chi nhánh của các doanh nghiệp ở nước ngoài vẫn chưa thể hiện được vai trò của

mình trong việc thúc đẩy xuất khẩu. Hiện nay, thông tin thương mại từ Phòng thương mại và công
nghiệp Việt Nam có lẽ là nguồn cung cấp quan trọng của các doanh nghiệp.
* Dịch vụ quảng cáo và triển lãm: nhằm giúp giới thiệu về các doanh nghiệp và sản phẩm
của họ, cung cấp cho các đối tác nước ngoài thông tin về các doanh nghiệp và sản phẩm của họ, vì
vậy làm tăng sự hợp tác buôn bán và mở rộng thị trường xuất khẩu. Vào năm 1995, Việt Nam có
khoảng 15 tổ chức thực hiện dịch vụ triển lãm, 55 đơn vị dịch vụ quảng cáo và 15 cơ quan nước
ngoài đang làm hoạt động quảng cáo. Có khoảng 20 đại diện thương mại Việt Nam ở nước ngoài
và một số tổ chức hợp tác quốc tế, thông tin quan trọng thuộc về 18 Bộ, ngành, cơ quan trung
ương và địa phương. Thông qua các tổ chức đó các doanh nghiệp Việt Nam có thể nhận được các
dịch vụ như: trưng bày sản phẩm ở các hội chợ thương mại, trao đổi thông tin ở các hội nghị
thương mại, tìm kiếm cơ hội để thúc đẩy buôn bán, đầu tư được dễ dàng và tham gia các dự án
kinh doanh.
Nhưng cho đến nay, các doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu tự quảng cáo bằng việc in các tờ
rơi để giới thiệu các sản phẩm của họ hay bằng các nhân viên marketing hay ở các phòng trưng
bày của họ ... Hình thức khác của quảng cáo như: phương tiện thông tin đại chúng, panô, áp phích
quảng cáo ... hay đang được quảng cáo bởi các tổ chức và các công ty khác mà đã từng ít được sử
dụng ..
Hiện nay, vẫn có một lượng lớn các doanh nghiệp mà không sử dụng dịch vụ quảng cáo,
triển lãm hay hội chợ thương mại để cải thiện hoạt động xuất khẩu. Đối với các doanh nghiệp đó,
chi phí cho các dịch vụ đó quá cao. Những lí do khác có thể là các doanh nghiệp vẫn chưa tìm
được các dịch vụ thích hợp.
* Các dịch vụ tài chính và bảo hiểm: các doanh nghiệp xuất nhập khẩu cũng sử dụng các
dịch vụ tài chính và bảo hiểm để hướng dẫn các hoạt động tài chính và thanh toán, để được trợ
giúp tài chính và bảo hiểm cho sản phẩm và hoạt động xuất khẩu. Hiện nay Việt Nam có khoảng
4.200 tổ chức tín dụng và tài chính trong đó: 10 công ty bảo hiểm, 18 công ty kiểm toán và 4 công
ty mua và bán tài chính. Nhưng, việc sản xuất cho xuất khẩu và các doanh nghiệp thực hiện xuất
khẩu phần lớn được giúp đỡ tài chính bởi các Ngân hàng thương mại Nhà nước. Trong thời hạn tín
dụng các doanh nghiệp đó có thể hưởng các chính sách ưu đãi như:
- Vay vốn (cả vay trung và dài hạn).
- Lãi suất thấp (lãi suất ngắn hạn cho các doanh nghiệp thường xuyên thấp hơn khoảng 20-

25% hơn so với các dự án kinh doanh khác.
Bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu chủ yếu thực hiện bởi 2 loại: một là để mua quyền bảo
hiểm sau một thời gian mở thư tín dụng (L/C) và thứ hai là để ký hợp đồng của cả gói bảo hiểm
hàng năm hay cho hàng hóa lớn được vận chuyển trong nhiều chuyến.
Các doanh nghiệp có thể có quyền lựa chọn trong việc mua bảo hiểm: bảo hiểm mọi rủi ro,
bảo hiểm đặc biệt, bảo hiểm chỉ những rủi ro chính ... Các doanh nghiệp Việt Nam thường mua
hàng hóa với giá CIF và bán với giá FOB, chỉ 30% doanh thu nhập khẩu và 5% doanh thu xuất
khẩu được bảo hiểm.
* Dịch vụ nghiên cứu và kiểm định: dịch vụ này được thực hiện bởi các công ty kiểm định
nhất định để cấp phát giấy chứng nhận hàng hóa và chứng nhận về nguồn gốc. Công việc này
nhằm cung cấp các bản điều tra, nghiên cứu để đáp ứng các mong muốn của đối tác kinh doanh về
chất lượng, số lượng, sự nhận biết, bao bì, mất mát của hàng hóa ... Sự giám sát, kiểm định hoạt
động xuất nhập khẩu bao gồm kiểm định cả hàng hóa và phi hàng hóa mà trước đây là dịch vụ
cung cấp chủ yếu của các cơ quan kiểm định của Việt Nam (chiếm khoảng 70% thu nhập của họ)
trong khi gần đây bao gồm cả khảo sát, kiểm định biển, xây dựng và hệ thống máy móc (khoảng
30% doanh thu).
Trình độ giám sát, kiểm định xuất nhập khẩu của Việt Nam còn thấp so với thế giới, còn
nhiều điểm yếu, cả trong công việc giám sát, kiểm định trước và sau sản xuất và các trang thiết bị
giám sát, kiểm định nghèo nàn. Bởi vì những yếu kém đó, trong một vài trường hợp hàng hóa xuất
khẩu của Việt Nam bị phụ thuộc vào các đối tác nước ngoài.
Cho đến nay, Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam và một vài cơ quan giám sát,
kiểm định khác của nhà nước đã quan tâm đến cấp giấy chứng nhận hàng hóa và giấy chứng nhận
nguồn gốc. Liên quan đến các bản điều tra, có 7 tổ chức (3 là của Nhà nước) thực hiện loại dịch vụ
này.
* Dịch vụ giao hàng và vận chuyển hàng: chỉ 20% hàng hóa của các doanh nghiệp xuất
nhập khẩu Việt Nam được vận chuyển do các công ty Việt Nam trong khi phần còn lại được làm
bởi các công ty nước ngoài. Lý do chính là các đội tàu Việt Nam yếu, kém phá triển, chi phí cao và
sức cạnh tranh kém. Hầu hết các doanh nghiệp thường mua với giá CIF và bán với giá FOB vì theo
phương thức mua bán theo hai điều kiện thương mại này thì các doanh nghiệp Việt Nam sẽ không
phải thuê tàu chuyên chở mà phần trách nhiệm này thuộc về các đối tác của các doanh nghiệp Việt

Nam, như vậy các doanh nghiệp Việt Nam sẽ không chỉ không phải thuê tàu, mà theo hai điều kiện
thương mại này thì họ cũng được bảo đảm về quyền lợi trong việc mua, bán hàng hóa..
Hiện nay, có khoảng 20 công ty Việt Nam thực hiện kinh doanh vận chuyển và giao hàng,
bao gồm các hàng hóa nhập xuất khẩu bình thường, hàng hóa trưng bày, vật liệu xây dựng, hàng
hóa EMS và theo kiểu door-to-door thông qua các đại lý gửi hàng, đóng gói, kiểm tra và bốc dỡ,
bảo quản hàng hóa; hoàn thành thủ tục hải quan cho các hàng hóa của họ, mua bảo hiểm và thực
hiện các thủ tục khác có liên quan đến giao hàng và vận chuyển hàng.
* Dịch vụ tư vấn pháp luật: bao gồm các các dịch vụ về hòa giải, thương lượng. cung cấp
các thông tin chính xác về thuế, ngân hàng, tín dụng, bảo hiểm, hải quan ... các chỉ dẫn để làm các
hợp đồng kinh tế, hợp đồng nhập xuất khẩu, lựa chọn và chuyển giao công nghệ và giúp đỡ các
doanh nghiệp trong các cuộc tranh chấp và bảo vệ quyền lợi của các doanh nghiệp tại các toà án và
trọng tài kinh tế.
Cho đến nay ở Việt Nam có 25 công ty pháp luật và trên 200 phòng và trung tâm tư vấn, 25
công ty nước ngoài và 45 chi nhánh của các công ty pháp luật nước ngoài đang hoạt động.
Mặc dù đã có những cố gắng nhưng về chất lượng, số lượng và kinh nghiệm của các công
ty tư vấn pháp luật vẫn còn rất kém. Vì vậy mà dịch vụ này ít được sử dụng trong các doanh
nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu.
Kết quả của nhiều cuộc nghiên cứu gần đây trong các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập
khẩu chỉ ra rằng hầu hết các doanh nghiệp được phỏng vấn ít hay nhiều đều muốn và cần sử dụng
các dịch vụ hỗ trợ xuất khẩu. Các dịch vụ đó theo ước lượng của họ có thể chỉ đáp ứng một phần
nhu cầu của họ hay ở mức dưới trung bình. Các dịch vụ bưu điện, phương tiện truyền hình,
phương tiện vận chuyển được đánh giá là các dịch vụ cung cấp tốt trong khi ngân hàng và lĩnh vực
thông tin thì còn kém.
Chí phí cho việc sử dụng các dịch vụ hỗ trợ xuất khẩu trong các doanh nghiệp còn thấp, vì
thiếu vốn, hầu hết các chi phí được dùng cho các dịch vụ bắt buộc phải làm, không thể tránh khỏi
như phương tiện vận chuyển, ngân hàng và dịch vụ thanh toán. Việc sử dụng các dịch vụ mới như:
nghiên cứu, thực nghiệm (R&D), chuyển giao công nghệ, marketing, thông tin thị trường và dịch
vụ bảo hiểm với một quy mô vừa phải.
Hiện nay, hệ thống các dịch vụ xuất khẩu được chiếm phần lớn bởi các công ty và cơ quan
nhà nước do khả năng vốn, các mối quan hệ và kinh nghiệm của họ ... Nhưng có thể nói rằng các

dịch vụ hỗ trợ xuất khẩu nên là “ mảnh đất ” của khu vực tư nhân vì các doanh nghiệp tư nhân mặc
dù không có lợi thế về vốn và các mối quan hệ với các bạn hàng và kinh nghiệm bằng các doanh
nghiệp Nhà nước nhưng do các doanh nghiệp này tự đứng ra để hoạt động nên khả năng năng
động, nhanh nhậy với sự phát triển và thay đổi của thị trường, chủ động đón trước các sự thay đổi
đó để có thể đáp ứng được các nhu cầu trên thị trường thế giới, nhưng hiện nay sự hạn chế của hệ
thống luật pháp của VIệt Nam vẫn chưa thể hiện được năng lực của chúng.
2.5. Các chính sách khuyến khích xuất khẩu: để làm giảm bớt tác động của cuộc khủng
hoảng khu vực và đặc biệt là để khuyến khích các doanh nghiệp trong việc sản xuất phục vụ xuất
khẩu Chính phủ Việt Nam đã ban hành một số chính sách để khuyến khích xuất khẩu, bên cạnh
các biện pháp mở rộng quyền kinh doanh để khai thác các khả năng của tất cả các khu vực kinh tế.
Bao gồm:
a. Khuyến khích xuất khẩu thông qua thuế: Việc sửa đổi Luật khuyến khích đầu tư trong
nước năm 1998, tạo ra sự ưu đãi cho các ngành sản xuất hàng hóa xuất khẩu chủ lực. Theo Luật
này thuế ưu đãi đưa ra cho sản phẩm xuất khẩu và đầu tư kinh doanh là:
* Các doanh nghiệp sản xuất các hàng hóa xuất khẩu chủ lực thuộc sự giúp đỡ dặc biệt
của Luật có thể được hưởng thuế ưu đãi như giảm hay miễn thuế thu nhập (từ 2 đến 4 năm miễn
thuế và từ 2 đến 7 năm giảm thuế, tùy thuộc vào từng trường hợp)
* Hơn nữa, các doanh nghiệp đó có thể được hưởng một trong các sự ưu đãi cho thuế thu
nhập xuất khẩu như:
- Giảm 50% thuế thu nhập trong các trường hợp:
+ Trong năm đầu tiên thực hiện xuất khẩu trực tiếp.
+ Xuất khẩu các sản phẩm mới của công nghệ kinh tế riêng khác với các sản phẩm
xuất khẩu trước.
+ Xuất khẩu các sản phẩm đến các nước và khu vực mới, khác với các thị trường
trước.
- Giảm 50% thuế thu nhập từ thu nhập thêm của các doanh nghiệp trong trường hợp thu
nhập xuất khẩu của một năm cao hơn năm trước.
- Giảm 20% thuế thu nhập từ các thu nhập thêm của các doanh nghiệp trong các trường
hợp:
+ Thu nhập xuất khẩu tăng thêm của các doanh nghiệp đạt được nhiều hơn 50%

tổng thu nhập.
+ Doanh nghiệp có thể làm ổn định thị trường xuất khẩu và giá trị xuất khẩu trong
ba năm liên tiếp.
- Giảm 25% thuế thu nhập nếu doanh nghiệp đưa ra quá trình hoạt động các kế hoạch
đầu tư của mình trong các khu vực kinh tế - xã hội khó khăn như trong điều khoản 1, 2, 3 của Luật
khuyến khích đầu tư trong nước (danh sách B )
- Được miễn thuế thu nhập nếu doanh nghiệp thực hiện các kế hoạch đầu tư của mình
trong các khu vực kinh tế - xã hội khó khăn như trong điều khoản 1, 2, 3 của Luật khuyến khích
đầu tư trong nước ( danh sách C ).
- Hoàn lại thuế giá trị gia tăng cho các doanh nghiệp nhập khẩu nguyên liệu thô, phụ hay
bán thành phẩm để sản xuất các hàng hóa.
- Hoãn thu thuế nhập khẩu cho các doanh nghiệp nhập khẩu nguyên liệu thô đẻ sản xuất
(hiện nay trong thời gian là 9 tháng).
- Miễn thuế cũng được áp dụng cho các hàng hóa tạm nhập khẩu để tái xuất khẩu để
khuyến khích dịch vụ loại này.
c. Thành lập Quỹ thưởng xuất khẩu:
Quỹ thưởng xuất khẩu được thành lập và hoạt động theo quyết định 764/QĐ-TTg
24/08/1998 của Thủ tướng Chính phủ. Mục tiêu của quỹ thưởng này bao gồm các doanh nghiệp
thuộc các thành phần kinh tế được thành lập theo quy định của pháp luật: doanh nghiệp Nhà nước,
Công ty cổ phần, Hợp tác xã, Công ty trách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp tư nhân và cả các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài để khuyến khích họ tham gia vào quá trình thay đổi của kết cấu
xuất khẩu của nước ta. Các phần thưởng cho các doanh nghiệp được dựa theo 5 tiêu chuẩn sau:
* Xuất khẩu mặt hàng (hoặc một chủng loại của mặt hàng) sản xuất tại Việt Nam mà lần
đầu tiên được tiêu thụ ở thị trường nước ngoài, và/ hoặc lần đầu tiên tiêu thụ dc ở thị trường mới
có hiệu ủa ( xuất khẩu thu được vốn, có lãi) với kim ngạch đạt từ 100.000 USD/năm trở lên.
* Mở rộng thị trường xuất khẩu đã có hoặc mở thêm các thị trường mới, có hiệu quả với
mức kim ngạch xuất khẩu tăng trên 20%.so với năm trước, đối với các hàng hóa trong danh sách
các sản phẩm được khuyến khích xuất khẩu theo hướng dẫn hàng năm của Bộ thương mại..
* Các mặt hàng xuất khẩu có chất lượng cao đạt huy chương tại các triển lãm - hội chợ
quốc tế tổ chức ở nước ngoài hoặc được các tổ chức quốc tế về chất lượng hnàg hóa được cấp

chứng chỉ hoặc xác nhận bằng văn bản.
* Xuất khẩu các hàng hóa được gia công - chế biến bằng các nguyên vật liệu trong nước
chiếm 60% trị giá trở lên hoặc xuất khẩu các mặt hàng thu hút nhiều lao động trong nước, như:
hàng thủ công mỹ nghệ, hàng nông lâm thủy hải sản chế biến (như tương ớt, chuối sấy, thức ăn
chế biến sẵn ...), hàng may mặc (không kể hàng xuất theo hạn ngạch) với mức kim ngạch xuất
khẩu đạt từ 10 triệu USD/ năm trở lên, riêng đối với các sản phẩm mỹ nghệ là từ 5 triệu USD/năm
trở lên.
* Xuất khẩu các hàng hóa không thuộc danh sách có hạn ngạch xuất khẩu hay nằm ngoài
những mục tiêu kế hoạch được phân giao đạt kim ngạch từ 50 triệu USD mỗi năm.
- Thực tiễn và sự hoạt động của Quỹ thưởng xuất khẩu: thuận chiều với sự gia tăng của
xuất khẩu, số doanh nghiệp được thưởng về xuất khẩu ngày một nhiều.
Năm Số DN được khen thưởng Tổng số tiền (tỷ đồng)
1998 66 4,6
1999 106 6,2
2000 158 10,5
Nguồn: Bộ Thương mại.
5 tiêu chuẩn đặt ra xét thưởng đều có doanh nghiệp đạt được. Đó là 42 trường hợp được
thưởng theo tiêu chuẩn 1: có mặt hàng mới, thị trường mới; 124 trường hợp được thưởng theo tiêu
chuẩn 2: về tốc độ tăng trưởng; 5 đơn vị được thưởng theo tiêu chuẩn 3: hàng xuất khẩu đạt chất
lượng xuất sắc; 49 trường hợp thưởng về tiêu chuẩn 4: xuất khẩu các mặt hàng đặc biệt khuyến
khích; và tiêu chuẩn 5 về quy mô lớn có 10 doanh nghiệp đạt được.
Theo mật độ đạt được các tiêu chuẩn, dẫn đầu là Công ty sản xuất xuất nhập khẩu Tổng
hợp Hà Nội đạt cả 5 tiêu chuẩn, mức thưởng cao nhất. Xí nghiệp chế biến thủy sản súc sản xuất
khẩu Cần Thơ dạt 4 tiêu chuẩn, 15 đạt 3 tiêu chuẩn, 35 doanh nghiệp đạt 2 tiêu chuẩn và 106
doanh nghiệp đạt 1 tiêu chuẩn.
Bắt đầu từ năm 1999, có quy chế khen thưởng các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
(FDI), năm 2000 cũng có 8 doanh nghiệp thuộc loại hinh này được thưởng.
Kinh nghiệm của các doanh nghiệp được thưởng là trên mặt trận xuất khẩu ở nước ta, bên
cạnh các doanh nghiệp lớn, có truyền thống là khá đông các doanh nghiệp với số vốn không lớn,
quy mô vừa phải, kinh nghiệm chưa nhiều, thị phần khiêm tốn, nhưng nếu biết tìm tòi sáng tác

mẫu mã mới, mạnh dạn đầu tư đúng hướng, tuân thủ nghiêm ngặt quy trình sản xuất, kiểm định
nghiệm thu sản phẩm, sôi sục tìm bạn hàng, khai phá thị trường xa, thiết lập quan hệ tín nhiệm,
bền vững ... sẽ biến cơ hội thành hiện thực.
d. Hỗ trợ xuất khẩu bằng tín dụng, lãi suất.
Các sản phẩm xuất khẩu chủ lực và các doanh nghiệp thưong mại có thể được hỗ trọ từ
quỹ Hỗ trợ xuất khẩu, quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia, các quỹ đầu tư phát triển: cung cấp các tín dụng
ưu đãi hay bảo đảm tín dụng xuất khẩu để hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc phát triển các sản
phẩm, việc kinh doanh và các thị trường. Giới hạn tín dụng ưu đãi và bảo đảm tín dụng áp dụng
cho các sản phẩm xuất khẩu chủ lực và kế hoạch, dự án mua bán được đề cập rõ ràng trong nghị
định 7/1998/NĐ-CP (15/01/1998) quy định chi tiết thi hành Luật khuyến khích đầu tư trong nước
(sửa đổi):
- Doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu được quyền trực tiếp xuất khẩu hàng hoá do mình
sản xuất. Mức vốn lưu động tối thiểu quy định cho các doanh nghiệp chuyên kinh doanh xuất nhập
khẩu đăng ký hoạt động tại các vùng thuộc Danh mục B hoặc Danh mục C được giảm 50% so với
mức vốn lưu động chung.
- Cơ sở sản xuất hàng xuất khẩu hoặc sản xuất nguyên liệu, phụ liệu trực tiếp làm hàng
xuất khẩu thuộc diện ưu đãi đầu tư theo Danh mục A hoặc B hoặc C thì được Ngân hàng Đầu tư và
Phát triển và các ngân hàng thương mại quốc doanh bảo lãnh hoặc cho vay tín dụng xuất khẩu, kể
cả cho vay mua hàng xuất khẩu và cho vay đầu tư mở rộng cơ sở sản xuất hàng xuất khẩu. Nếu các
ngân hàng này không đủ vốn để cho vay thì Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có trách nhiệm cho
các ngân hàng nói trên vay tái cấp vốn theo quy định hiện hành của Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam.
Riêng đối với một số mặt hàng xuất khẩu quan trọng thuộc diện ưu tiên phát triển theo
danh mục do Chính phủ quy định, trong trường hợp giá thị trường thế giới xuống tháp hoặc giá thị
trường trong nước đối với các nguyên liệu, vật tư để sản xuất hàng xuất khẩu đó lên cao gây thua
lỗ lớn cho các cơ sở sản xuất hàng xuất khẩu, thì Nhà nước sẽ xem xét trợ giúp thông qua Quỹ
bình ổn giá.
- Doanh nghiệp có dự án đầu tư xây dựng và kinh doanh các công trình kết cấu hạ tầng của
các khu công nghiệp hoặc khu chế xuất, khu công nghệ cao được giảm 50% tiền thuê đất của Nhà
nước trong thời hạn 5 năm kể từ ngày ký hợp đồng thuê.

- Các dự án đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu hoặc sản xuất nguyên liệu, phụ jiệu trực tiếp
làm hàng xuất khẩu thay thế hàng nhập khẩu được:
+ Các ngân hàng thương mại quốc doanh cho vay tín dụng xuất khẩu với lãi xuất ưu đãi;
+ Quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia bảo lãnh cho các khoản tín dụng xuất khẩu;
+ Rút ngắn 50% thời gian khấu hao tài sản cố định được sử dụng vào sản xuất, chế biến
hoặc lắp ráp hàng xuất khẩu.
Nói tóm lại, nếu các nhà đầu tư tiến hành xuất khẩu trực tiếp thì họ có thể được giúp đỡ cả
từ quỹ của Nhà nước để khuyến khích đầu tư và Quỹ hỗ trợ xuất khẩu về những hoạt động về sau
sẽ có thể được cung cấp tín dụng xuất khẩu với lãi suất ưu đãi, lãi suất mà có thể thỏa mãn 70%
nhu cầu tín dụng xuất khẩu của hợp đồng. Hơn nữa, Quỹ hỗ trợ xuất khẩu có thể bảo đảm , sau khi
cân nhắc, khoảng 80% tín dụng quy định cho việc thực hiện hợp đồng xuất khẩu.
Trong khi Quỹ hỗ trợ tín dụng vẫn chưa được thành lập, Bộ trưởng Bộ Thương mại đề
nghị Ngân hàng Nhà nước Việt Nam xin sự chấp nhận của chính phủ cho việc sử dụng Quỹ bình
ổn giá để hỗ trợ các sản phẩm xuất khẩu chủ lực và các doanh nghiệp thương mại.
2.6. Quỹ hỗ trợ xuất khẩu: mọi thành phần kinh tế đều được vay.
Quỹ hỗ trợ xuất khẩu có ý nghĩa rất quan trọng, là một trong các công cụ của Chính phủ
nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế trong năm nay và các năm sau. Theo số liệu thống kê, xuất khẩu
đóng góp đến 45% GDP. Mặt khác nếu không xuất khẩu, không chen chân vào thị trường thế giới
thì khi hội nhập Việt Nam sẽ ở thế bị động, trở thành thị trường của các nước. Với tinh thần đó,
Quỹ hỗ trợ phát triển phối hợp với Bộ tài chính, xây dựng Quy chế hỗ trợ tín dụng xuất khẩu với
nội dung đề cập tương đối toàn diện các hoạt động tín dụng nói chung. Cụ thể là Quỹ hỗ trợ tín
dụng xuất khẩu có 3 hình thức tín dụng hỗ trợ xuất khẩu chính là: cho vay ưu đãi, bao gồm cho
vay chung và dài hạn đối với chủ đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu; hỗ trợ lãi suất sau đầu tư; bảo
lãnh tín dụng, bao gồm cả bảo lãnh tín dụng đầu tư, bảo lãnh dự thầu và bảo lãnh thực hiện hợp
đồng ...
Phạm vi, đối tượng cho vay của Quỹ hỗ trợ tín dụng xuất khẩu cũng sẽ được mở rộng hơn
so với các chính sách tín dụng ưu đãi hiện hành. Quỹ cho vay ưu đãi, hỗ trợ lãi suất sau đầu tư ,
bảo lãnh tín dụng đầu tư đối với các dự án đầu tư phát triển sản xuất, chế biến, gia công, dịch vụ
xuất khẩu .
Đối với cho vay đầu tư, không chỉ dừng ở việc cho vay vốn đầu tư trung dài hạn mà thực

hiện cả cho vay vốn lưu động, kể cả cho vay đối với các doanh nghiệp xuất khẩu hàng thanh toán
chậm. Phạm vi tín dụng cũng được mở rộng, ngoài việc cho vay, hỗ trợ lãi suất, bảo lãnh tín
dụngđầu tư cho các dự án đầu tư phát triển sản xuất, chế biến, gia công, kinh doanh hàng xuất
khẩu, Quỹ cũng được mở rộng việc cho vay đối với cả các hoạt động dịch vụ được coi là xuất
khẩu tại chỗ như các lĩnh vực xuất khẩu có nguồn thu ngoại tệ lớn như du lịch, đóng tàu vận tải
hàng hóa.

×