Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

Nâng cao vai trò của tổ chức công đoàn trong thực hiện quy chế dân chủ cơ sở tại các doanh nghiệp trên địa bàn thành phố cần thơ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (876.42 KB, 95 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

HUỲNH THỊ HIỀN

NÂNG CAO VAI TRỊ CỦA TỔ CHỨC
CƠNG ĐỒN TRONG THỰC HIỆN QUY CHẾ
DÂN CHỦ CƠ SỞ TẠI CÁC DOANH NGHIỆP
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ CẦN THƠ

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

Nghệ An, 2017


1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

HUỲNH THỊ HIỀN

NÂNG CAO VAI TRỊ CỦA TỔ CHỨC
CƠNG ĐỒN TRONG THỰC HIỆN QUY CHẾ
DÂN CHỦ CƠ SỞ TẠI CÁC DOANH NGHIỆP
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ CẦN THƠ
Chuyên ngành: CHÍNH TRỊ HỌC
Mã số: 60.31.02.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ


Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS TrầnViết Quang

Nghệ An, 2017


2

LỜI CẢM ƠN
Với tất cả tình cảm chân thành, tơi xin được bày tỏ lòng biết ơn hội đồng khoa
học và đào tạo chuyên ngành Chính trị học, Trường Đại học Vinh đã giảng dạy,
quan tâm, tạo điều kiện giúp đỡ tơi trong q trình học tập cũng như hồn thành
luận văn. Đặc biệt, tơi xin được bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc tới PGS. TS Trần Viết
Quang, người đã hết sức quan tâm, đầu tư nhiều công sức, nhiệt tình hướng dẫn để
bản thân tơi hồn thành luận văn tốt nghiệp này.
Xin chân thành cảm ơn Ban Thường vụ Liên đoàn Lao động thành phố đã tạo
mọi điều kiện thuận lợi cho tôi được theo học lớp này và giúp đỡ tôi thực hiện khảo
sát và cung cấp số liệu để tơi thực hiện cơng trình nghiên cứu của mình. Cảm ơn tới
gia đình và bạn bè đã động viên và đồng hành cùng tơi trong q trình học tập và
nghiên cứu.
Trong suốt quá trình nghiên cứu thực hiện luận văn, bản thân tôi đã hết sức
tâm huyết, nhiệt tình và cố gắng, song khơng thể tránh khỏi những sai sót. Với tinh
thần nghiêm túc và cầu thị, tơi mong nhận được sự đóng góp q báu của quý
Thầy, Cô và đồng nghiệp để việc nghiên cứu đề tài được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Cần Thơ, ngày 24 tháng 7 năm 2017
Tác giả

Huỳnh Thị Hiền



3

MỤC LỤC
LỜI CÁM ƠN
A. MỞ ĐẦU
B. NỘI DUNG
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VAI TRỊ CỦA TỔ CHỨC CƠNG
ĐỒN TRONG THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.2. Nội dung, vai trò, đặc điểm của quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở
1.3.Tổ chức cơng đồn và vai trị của tổ chức Cơng đồn đối với việc thực
hiện quy chế dân chủ ở cơ sở
Kết luận chương 1
Chương 2. THỰC TRẠNG VAI TRỊ CỦA TỔ CHỨC CƠNG ĐỒN
TRONG THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ TẠI CÁC DOANH
NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ CẦN THƠ
2.1. Các nhân tố ảnh hưởng đến vai trị của tổ chức cơng đồn trong việc
thực hiện quy chế dân chủ tại các doanh nghiệp ở thành phố Cần Thơ
2.2. Tổ chức tổ chức cơng đồn thành phố Cần Thơ và vai trị của tổ chức
cơng đồn trong việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở ở các doanh nghiệp
2.3. Đánh giá vai trò của tổ chức cơng đồn thành phố trong việc thực hiện
quy chế dân chủ tại các doanh nghiệp
Kết luận chương 2
Chương 3. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP PHÁT HUY VAI TRÒ
CỦA TỔ CHỨC CƠNG ĐỒN TRONG VIỆC THỰC HIỆN QUY
CHẾ DÂN CHỦ TẠI CÁC DOANH NGHIỆP Ở TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ CẦN THƠ
3.1.Quan điểm phát huy vai trị của Tổ chức cơng đồn trong việc thực
hiện quy chế dân chủ cơ sở tại các doanh nghiệp trên địa bàn thành phố
Cần Thơ

3.2. Một số giải pháp phát huy vai trò của Tổ chức cơng đồn trong việc
thực hiện quy chế dân chủ cơ sở tại các doanh nghiệp trên địa bàn thành
phố Cần Thơ
Kết luận chương 3
C.KẾT LUẬN
D.DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Trang
2
5
13
13
13
23
31
41
41
41
49
63
70
71

71

73
88
89
91



4

QUY ĐỊNH CÁC TỪ VIẾT TẮT

TT

Chữ viết tắt

Nội dung

1

BCHTW

Ban Chấp hành Trung ương

2

BCH

Ban chấp hành

3

CNXH

Chủ nghĩa xã hội

4


CNH, HĐH

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

5

CNVCLĐ

Cơng nhân viên chức lao động

6

CĐCS

Cơng đồn cơ sở

7

HTCT

Hệ thống chính trị

8

QCDC

Quy chế dân chủ

9


TCCĐ

Tổ chức cơng đoàn

10

UBND

Ủy ban nhân dân

11

UBTVQH

Ủy ban Thường vụ Quốc hội


5

A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Dân chủ và thực hiện dân chủ là thước đo của tiến bộ xã hội. Ngày nay, dân
chủ không chỉ là bản chất của chế độ XHCN mà còn là động lực, là mục tiêu của sự
nghiệp cách mạng của nhân dân ta trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Ngay từ khi thành lập, Đảng ta đã luôn coi trọng phát huy quyền dân chủ. Đặc
biệt từ khi giành được chính quyền, Đảng ta ln phát huy quyền làm chủ của nhân
dân, dựa vào dân, nên đã đưa cách mạng nước ta vượt qua mọi gian nan thử thách,
đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Trong cơng cuộc đổi mới tồn diện đất nước

theo định hướng XHCN, dân chủ hóa đời sống xã hội đã được Đảng Cộng sản Việt
Nam xác định là một trong những nội dung cốt lõi, trọng tâm. Đặc biệt là dân chủ
hóa đời sống xã hội từ cơ sở.
Thấm nhuần quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin, cũng như tư tưởng của
Chủ tịch Hồ Chí Minh về dân chủ trong quá trình xây dựng chế độ XHCN, Đảng
ta đưa ra phương châm: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Để phương
châm đó trở thành hiện thực trong đời sống xã hội, ngày 18/02/1998, Hội nghị
BCH TW Đảng lần thứ 4 (khóa VIII) đã ban hành Chỉ thị số 30-CT/TW “Về thực
hiện quy chế dân chủ chủ ở cơ sở” và nhấn mạnh: “Mở rộng dân chủ xã hội chủ
nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân là mục tiêu, đồng thời là động lực bảo
đảm cho thắng lợi của cách mạng, của công cuộc đổi mới”.
Tiếp đó, ngày 15/5/1998, nhằm từng bước cụ thể hóa Chỉ thị của BCHTW,
Thủ tướng Chính phủ ra Nghị định 29/NĐ/CP về ban hành "Quy chế thực hiện dân
chủ ở xã, phường, thị trấn" nhằm từng bước phát huy sức mạnh tổng hợp của quần
chúng lao động trong sự nghiệp phát triển kinh tế, ổn định chính trị, bảo đảm trật tự
an toàn xã hội, tăng cường sức mạnh đoàn kết toàn dân, cải thiện dân sinh, nâng


6

cao dân trí, xây dựng Đảng, chính quyền, đồn thể vững mạnh, góp phần đưa đất
nước ta từng bước hội nhập và phát triển.
Chỉ thị số 30-CT/TW ngày 18/02/1998 của BCHTW Đảng (khóa VIII) “Về
xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ” đã quy định trách nhiệm của các tổ chức
chính trị - xã hội, các cấp chính quyền và các đoàn thể nhân dân, bao gồm ba nhiệm
vụ lớn: “Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân tuyên truyền, giáo dục rộng rãi
hội viên, đoàn viên và nhân dân chỉ thị này và các quy chế dân chủ ở cơ sở; làm
cho mọi người hiểu và sử dụng đúng các quyền của mình được quy định trong quy
chế dân chủ cơ sở, đồng thời chấp hành đầy đủ trách nhiệm, nghĩa vụ của cơng dân;
các đồn thể phối hợp với chính quyền trong việc thực hiện và giám sát thực hiện

các quy chế dân chủ ở cơ sở” [4, tr. 9]
Quá trình triển khai thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở đã thực hiện được 18
năm, đó là quãng thời gian tương đối dài và thực tế đã cho thấy những kết quả đạt
được rất quan trọng, tạo đà cho công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước. Tuy vậy,
quá trình triển khai chỉ thị này tự thân nó cũng bộc lộ những hạn chế, yếu kém như:
công tác phối kết hợp của các tổ chức đồn thể quần chúng trong q trình phát huy
dân chủ của nhân dân, chưa phát huy hết quyền làm chủ của nhân dân hơn nữa
quyền đó cịn bị vi phạm ở nhiều nơi, trên nhiều lĩnh vực; mặt khác các cấp chính
quyền cũng như các tổ chức chính trị - xã hội cịn bị động lúng túng trong việc đề
ra các biện pháp chỉ đạo phù hợp với tình hình, đặc điểm của từng địa phương; tính
hình thức còn khá phổ biến trong nhiệm vụ triển khai thực hiện quy chế dân chủ.
Trong đó cần nhấn vai trị của tổ chức cơng đồn chưa được đánh giá cao trong q
trình phối hợp với các cấp chính quyền về thực hiện quy chế dân chủ, hoạt động
giám sát của cơng đồn cũng như các đồn thể chính trị - xã hội khác cịn nặng tính
hình thức, cơng tác tuyên truyền vận động người lao động học tập nắm vững các
quan điểm của Đảng về nội dung quyền làm chủ trực tiếp, hoặc quá trình lồng ghép


7

các nội dung cơng tác của tổ chức cơng đồn tham gia thực hiện quy chế dân chủ
với ba nội dung cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở
khu dân cư” chưa chặt chẽ và đồng bộ.
Nhằm mục đích tăng cường vai trị của tổ chức cơng đồn trong q trình thực
hiện quy chế dân chủ ở cơ sở nói chung mà đặc biệt là trong các doanh nghiệp, tôi
chọn vấn đề: "Nâng cao vai trị của tổ chức cơng đồn trong thực hiện quy chế
dân chủ ở cơ sở tại các doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Cần Thơ" làm đề
tài luận văn Thạc sĩ, chuyên ngành Chính trị học.
Quy chế dân chủ và thực hiện quy chế dân chủ đã thu hút sự quan tâm chú ý
của các tổ chức Đảng, cơ quan nhà nước, của nhiều nhà hoạt động chính trị cũng

như các nhà khoa học ở trong nước và trên thế giới. Dân chủ và thực hiện quy chế
dân chủ ở cơ sở cũng như vai trò của Tổ chức cơng đồn trong hệ thống chính trị đã
được đề cập trong nhiều nghị quyết của Đảng, văn bản, quyết định của Chính phủ
và đã có nhiều cơng trình nghiên cứu (luận văn, luận án, bài viết trên các tạp chí,
các cuốn sách…) bàn về đề tài này ở những góc độ, khía cạnh khác nhau và được
chia nhiều nhóm vấn đề:
- Nhóm thứ nhất, bao gồm các Nghị quyết của Đảng, chủ trương, chính sách
của Nhà nước trong việc ban hành và triển khai thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở.
Các văn bản này đã khẳng định về mục tiêu, nội dung thực hiện quy chế dân chủ,
vừa là kim chỉ nam định hướng cho chúng tôi trong quá trình nghiên cứu.
Ngay từ năm 1997, tại Hội nghị BCH TW lần thứ 3 (khóa VIII), đã nêu rõ yêu
cầu tiếp tục phát huy tốt hơn và nhiều hơn quyền làm chủ nhân dân qua các hình
thức dân chủ gián tiếp và dân chủ trực tiếp, tiếp đến tại Hội nghị BCH TW Đảng
lần thứ 4, khóa VIII (ngày 18/02/1998) đã ra Chỉ thị số 30 CT/TW “Về xây dựng
và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở”. Chỉ thị này đã nhấn mạnh các tổ chức đồn
thể chính trị - xã hội phải làm tốt cơng tác tuyên truyền, giáo dục rộng rãi tới hội


8

viên, đoàn viên và nhân dân về quy chế dân chủ ở cơ sở, cũng như thực hiện đúng
quyền và nghĩa vụ công dân đã được quy định trong quy chế dân chủ, đồng thời
nêu lên nguyên tắc phối hợp giữa các tổ chức chính trị - xã hội với chính quyền
trong việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở.
Để triển khai các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, ngày 11/5/1998 Chính phủ đã
ban hành Nghị định số 29/1998/NĐ-CP “Về thực hiện quy chế dân chủ cơ sở”.
Nhằm từng bước pháp quy hóa vấn đề thực hiện quy chế dân chủ cơ sở, ngày
20/4/2007, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành “Pháp lệnh thực hiện dân chủ
ở xã, phường, thị trấn”. Pháp lệnh đã làm rõ những quy định chung, cũng như nội
dung cần công khai để nhân dân biết, dân bàn và dân quyết định, những nội dung

dân tham gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm quyền quyết định, những nội dung
dân giám sát. Đặc biệt tại phiên họp thứ 10 của Quốc hội khóa XII đã trao đổi bàn
bạc và thơng qua luật về Luật trưng cầu dân ý. Nói chung tất cả các Nghị quyết của
Đảng, các văn bản tạo cơ sở pháp lý của Quốc hội cũng như những nghị định, chỉ
thị của nhà nước đã cung cấp cho chúng tơi về quan điểm, định hướng trong q
trình nghiên cứu.
- Nhóm thứ hai, những cơng trình đã được nghiên cứu sâu về vấn đề dân chủ
và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở đã in thành sách và hoặc các bài viết cơng bố
trên các báo, tạp chí: Đồng chí Đỗ Mười (nguyên Tổng Bí thư của Đảng) vào năm
1998 với bài viết “Phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở”, Tạp chí Cộng
sản số 20; PGS. TS Dương Xuân Ngọc (chủ biên) công tác tại Học viện Báo chí và
Tun truyền (năm 2000) có tác phẩm “Quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã - một
số vấn đề lý luận thực tiễn”, Nxb CTQG, Hà Nội hoặc đồng chí Trương Quang
Được, ngun Phó Chủ tịch Quốc hội vào năm 2002 đã công bố bài viết “Tiếp tục
đẩy mạnh việc xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở” đăng trên Tạp chí
Cộng sản, số 12; với chủ đề này cịn có các cơng trình của TS. Nguyễn Văn Sáu và


9

GS. Hồ Văn Thông (chủ biên 2002), “Thực hiện quy chế dân chủ và xây dựng
chính quyền cấp xã ở nước ta hiện nay”, của PGS. TS Phan Xuân Sơn (chủ biên,
năm 2003) “Các đoàn thể nhân dân với việc bảo đảm dân chủ ở cơ sở hiện nay”,
Nxb CTQG, Hà Nội hoặc của TS. Lương Gia Ban (chủ biên, 2003) “Dân chủ và
thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở”, Nxb CTQG, Hà Nội. Cũng trong thời gian này,
Bộ Nội vụ (năm 2001) đã ban hành “Hướng dẫn triển khai quy chế dân chủ cơ sở”,
Nxb CTQG, Hà Nội. Đây là văn bản có ý nghĩa pháp lý và quy định một cách chặt
chẽ, khoa học về trách nhiệm, nghĩa vụ của cơ quan nhà nước cũng như sự phối
hợp với các tổ chức chính trị - xã hội trong quá trình triển khai thực hiện Quy chế
dân chủ.

- Nhóm thứ ba, bao gồm các bài viết cũng như luận văn của các nhà khoa học
và các học viên đã và đang công tác, học tập tại Trường Đại học Vinh như các bài
viết của PGS.TS Nguyễn Lương Bằng (2012) về “Giám sát phản biện xã hội của
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể trong bối cảnh ở Việt Nam hiện nay”, đăng trên
Tạp chí Đại học Sài Gòn, số 13, T2/2013 Tr 39-45 với bài “Vai trò giám sát, phản
biện của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể đối với ổn định và tăng trưởng kinh tế vĩ
mô ở Việt Nam”, Kỷ yếu hội thảo khoa học, Trường Đại học Vinh, tháng 4 năm
2012.
Ngoài ra, chúng tôi cũng đã đọc và kế thừa tinh thần của các luận văn: “Tăng
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong quản lý nhà nước ở huyện Nông Cống, tỉnh
Thanh Hóa giai đoạn hiện nay” của tác giả Nguyễn Thanh Triều, bảo vệ tháng
10/2015 tại Đại học Vinh; luận văn “Nâng cao năng lực lãnh đạo của các tổ chức
cơ sở Đảng thuộc Đảng bộ Khối Doanh nghiệp tỉnh Tiền Giang trong giai đoạn
hiện nay” của tác giả Lê Tấn Sơn, bảo vệ tháng 6/2015 tại Đại học Vinh; luận văn
“Công tác kiểm tra, giám sát của Ủy ban Kiểm tra Huyện ủy huyện Quỳnh Lưu,
tỉnh Nghệ An trong giai đoạn hiện nay”của tác giả Lê Hồng Vân, bảo vệ 10/2015


10

tại Đại học Vinh; luận văn “Vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong việc thực
hiện quy chế dân chủ ở cơ sở tại thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh hiện nay” của tác
giả Nguyễn Thế Hùng, bảo vệ tháng 10/2015 tại Đại học Vinh.
Các cơng trình nghiên cứu, bài viết nói trên cung cấp những vấn đề lý luận và
thực tiễn về quy chế dân chủ và thực hiện quy chế dân chủ, vấn đề phát huy quyền
làm chủ của nhân dân cũng như tình hình thực hiện quy chế dân chủ ở địa phương.
Tuy nhiên việc nghiên cứu về vấn đề “ Nâng cao vai trị của Tổ chức cơng đồn
trong thực hiện quy chế dân chủ cơ sở tại các doanh nghiệp trên địa bàn thành phố
Cần Thơ” cho đến nay vẫn chưa có cơng trình nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở lý luận và thực trạng vai trò của tổ chức cơng đồn trong thực hiện
quy chế dân chủ cơ sở tại các doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Cần Thơ, đề
xuất quan điểm và giải pháp nhằm phát huy vai trị của tổ chức cơng đồn trong
việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở tại các doanh nghiệp trong giai đoạn hiện nay.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ cơ sở lý luận về vai trò của tổ chức cơng đồn trong việc thực hiện
quy chế dân chủ ở cơ sở.
- Làm rõ thực trạng vai trò của tổ chức cơng đồn thành phố Cần Thơ trong
q trình tham gia thực hiện quy chế dân chủ tại các doanh nghiệp.
- Đề xuất quan điểm và một số giải pháp nhằm phát huy vai trị của tổ chức
cơng đồn đối với việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở tại các doanh nghiệp trên
địa bàn thành phố Cần Thơ.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1. Đối tượng


11

Luận văn nghiên cứu các vấn đề về dân chủ cơ sở, tổ chức cơng đồn và vai
trị của tổ chức cơng đồn trong việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở tại các doanh
nghiệp.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Do thành phố Cần Thơ có rất nhiều doanh nghiệp nên chúng tôi chỉ tập trung
nghiên cứu một số doanh nghiệp có tổ chức cơng đồn trên địa bàn thành phố Cần
Thơ
Về thời gian: trong giai đoạn từ năm 2012 đến 2016.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng, Nhà nước và Cơng đồn Việt Nam về

dân chủ và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn tập trung sử dụng các phương pháp chủ yếu như:
- Phương pháp lịch sử - lơgíc;
- Phương pháp phân tích;
- Phương pháp thống kê;
- Phương pháp điều tra xã hội học.
6. Đóng góp mới của luận văn
- Qua việc điều tra, nghiên cứu, phân tích q trình thực hiện quy chế dân chủ
ở cơ sở; những đóng góp của tổ chức cơng đồn trên địa bàn thành phố Cần Thơ,
luận văn khái quát một số kết quả, chỉ ra những hạn chế và nguyên nhân của nó;
đồng thời đề xuất một số giải pháp, nhằm phát huy vai trò của tổ chức cơng đồn
trong việc tăng cường thực hiện quy chế dân chủ trong các doanh nghiệp có tổ chức
cơng đồn, phù hợp với điều kiện của địa bàn, phục vụ cho sự nghiệp CNH, HĐH.


12

- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu giảng dạy
chuyên đề, đồng thời cũng là tài liệu tham khảo cho các cơ quan chức năng trong
việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vững
mạnh trên địa bàn thành phố Cần Thơ.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tham khảo, nội dung của luận văn
gồm 3 chương.


13

B. NỘI DUNG

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA TỔ CHỨC CƠNG ĐỒN
TRONG THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ

1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm dân chủ
Dân chủ là một khái niệm đa nghĩa, phức tạp, thuộc phạm trù chính trị có
nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp. Khái niệm “Dân chủ” là một từ ghép gồm 2 chữ :
“demos” có nghĩa là người bình dân, dân chúng và “kratia” (chữ gốc là “kratos”, có
nghĩa là quyền cai trị, là sức mạnh. Từ đó ta có thể hiểu khái niệm “Demoskratia”
có nghĩa là quyền lực của nhân dân, chính quyền của nhân dân, thuộc về nhân dân.
Theo quan điểm của V.I. Lênin khi ông phân tích về cơ sở kinh tế dẫn đến sự
tiêu vong của nhà nước và chế độ dân chủ, thì “chỉ là một giai đoạn trên con đường
từ chủ nghĩa phong kiến đến chủ nghĩa tư bản và từ chủ nghĩa tư bản đến chủ nghĩa
cộng sản” [95, tr.122] chủ nghĩa cộng sản sẽ đem lại một chế độ dân chủ thật sự
hồn bị bao nhiêu thì lại càng mau trở nên thừ và tự tiêu vong nhà nước sớm bấy
nhiêu. Nội dung cốt lõi của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là bởi quyền lực thuộc về
nhân dân, thông qua nhà nước của nhân dân, do nhân nhân, vì nhân dân. Nhân dân
thống nhất ban hành, kiểm sốt và thực thi các pháp luật chung của chỉnh thể nhà
nước, nhân dân được coi là cơ sở, là nguồn gốc của mọi quyết định (nhân dân là
chủ thể), của các thiết chế quản lý. Dây được coi là nội dung cơ bản vơ cùng quan
trọng, có ý nghĩa đảm bảo cho việc xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân và ở
đó “ sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả
mọi người” [111, tr.628]
Dân chủ xã hội chủ nghĩa khơng chỉ đem lại sự bình đẳng về mặt chính trị, mà
cịn đem lại cả sự bình đẳng về mặt kinh tế và xã hội “ Bất cứ một nhà nước nào


14


cũng đều có nghĩa là dùng bạo lực; nhưng tồn bộ sự khác nhau là ở chỗ dung bạo
lực đối với những người bị bốc lột hay đối với kẻ đi bốc lột, ở chổ có dùng bạo lực
đối với giai cấp những người lao động và những người bị bốc lột không” [98.
tr.380].
Kế thừa các giá trị và quan điểm về “dân chủ” của nhân loại đặc biệt là di sản
quan điểm về dân chủ của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã tiếp cận và lý
giải khái niệm “dân chủ” một cách đơn giản, nhưng hết sức cô đọng. Điều quan
trọng là mọi người (đặt biệt là người dân) dễ hiểu, dễ thực hiện, dễ kiểm soát.
Người cho rằng, “Chế độ ta là chế độ dân chủ. Tức là người dân làm chủ” [24, tr.
251]. Và Người luôn mong ước chế độ dân chủ XHCN sẽ đưa lại hạnh phúc và sự
bình đẳng cho người lao động.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng, dân chủ là một chính quyền “của dân,
do dân và vì dân”. Bản chất của Nhà nước ta được khẳng định trong Hiến pháp
2013 là “Nhà nước của dân, do dân, vì dân” [25, tr. 27]. Vì vậy, nó địi hỏi mọi cán
bộ, công chức phải thực sự là nô bộc của dân, vì nhân dân phục vụ. Trong thực tế,
đội ngũ cán bộ, công chức Nhà nước chưa thực sự là người công bộc của nhân dân
như Bác Hồ từng mong muốn. Nếu khơng thực hiện dân chủ, thì nhà nước sẽ quan
liêu, mệnh lệnh, hệ thống chính trị sẽ trở thành lực cản của sự phát triển. Do vậy,
nói tới một xã hội dân chủ có nghĩa là nói đến thực chất mối quan hệ giữa nhân dân
với chính quyền nhà nước, ở đó chính quyền phải tạo mọi điều kiện, cơ chế để
người dân được quyết định hoặc tham gia quyết định những vấn đề liên quan đến
cuộc sống và sự phát triển của mỗi người, của cộng đồng và của đất nước.
Sự thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là một sự nghiệp vĩ đại.
Chính sự nghiệp đó đã cho ra đời Nhà nước dân chủ nhân dân và chính quyền về
tay giai cấp cơng nơng. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định “Nước ta là nước dân
chủ, bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi


15


mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là cơng
việc của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ do dân cử ra. Đồn thể từ Trung
ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi
dân” [25, tr. 498].
Sự nhấn mạnh về bản chất dân chủ trên đây của Người cho thấy nội dung của
dân chủ đã thể hiện được cốt lõi bản chất của loài người là dân chủ xét đến cùng là
quyền lực thuộc về nhân dân. Quan điểm dân chủ và dân làm chủ là quan điểm
xuyên suốt, nhất quán trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về mục tiêu xây
dựng một chế độ xã hội mới, một Nhà nước kiểu mới ở nước ta, trong đó địa vị
của người dân được thay đổi, từ một người dân mất nước, sống kiếp nô lệ trở thành
chủ nhân của xã hội với tư cách là một công dân và Nhà nước đó đảm bảo quyền
làm chủ đó của mọi cơng dân để họ trở thành người “làm chủ” thật sự trong quá
trình xây dựng Nhà nước và xã hội. Do vậy, thực hành dân chủ (biến dân chủ thành
hiện thực) được Người xem như là chiếc “chìa khóa vạn năng” để xây dựng thành
cơng chế độ mới.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh rằng, nhân dân là người giữ vai trò
quyết định trên tất cả các lĩnh vực từ kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội. Người
dạy rằng, người dân có quyền làm chủ bản thân, nghĩa là quyền được bảo vệ thân
thể, được tự do đi lại, tự do hành nghề, tự do ngôn luận, tự do học tập trong khuôn
khổ pháp luật cho phép. Người dân có quyền làm chủ tập thể, làm chủ địa phương,
làm chủ cơ quan nơi mình sống và làm việc, người dân có quyền làm chủ các đồn
thể, các tổ chức chính trị, thơng qua bầu cử và bãi miễn. Người luôn nhấn mạnh
rằng, “Mọi quyền hạn đều ở nơi dân, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”.
Người giải thích dân là gốc của nước, dân là người khơng tiếc máu xương để xây
dựng và bảo vệ đất nước, nước khơng có dân thì khơng thành nước, nước do dân
xây dựng lên, do dân đem xương máu ra bảo vệ, vì vậy dân là chủ của đất nước.


16


Thực tiễn trong quá trình thực hiện cách mạng do Đảng ta lãnh đạo, nhân dân đã
cung cấp cho Đảng những người con ưu tú nhất. Tổ chức Đảng có lớn mạnh được
hay không, sự nghiệp cách mạng mà Đảng chủ trương có thành cơng hay khơng,
căn bản nhân dân là người quyết định.
Trong cơ chế kinh tế hiện nay, các doanh nghiệp, kể cả doanh nghiệp trong
nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi đóng vai trị rất quan trọng. Các
doanh nghiệp là đơn vị thực hiện các hoạt động sản xuất, tạo nên của cải, vật chất,
làm giàu cho cá nhân và xã hội.
Các doanh nghiệp càng ngày càng thực hiện quyền dân chủ cho công nhân,
nhằm động viên, khuyến khích người lao động tự giác thực hiện nhiệm vụ, góp
phần tạo ra khơng khí bình đẳng, lành mạnh trong đơn vị. Vì vậy, trong các doanh
nghiệp vấn đề thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở đóng vai trị rất quan trọng, nó là
sự dân chủ ở các tổ, đội lao động và trong các xí nghiệp, là mối quan hệ giữa người
quản lý và đông đảo công nhân. Dân chủ ở cơ sở được thể hiện trong các doanh
nghiệp chủ yếu là thực hiện hình thức dân chủ trực tiếp và các hình thức tự quản
của tập thể người lao động. Dân chủ ở cơ sở nói chung và dân chủ trong các doanh
nghiệp nói riêng có ý nghĩa vơ cùng to lớn, vì cơ sở là nơi trực tiếp thực hiện mọi
chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, là nơi cần thực hiện
quyền dân chủ của công nhân một cách trực tiếp và rộng rãi nhất.
Như vậy, dân chủ là một thể chế do dân làm chủ và dân chủ trước hết là chế độ
chính trị trong đó quyền lực tối cao thuộc về nhân dân, do nhân dân thực thi, tự bản
thân thực thi hoặc thông qua các đại biểu mà mình bầu ra.
1.1.2. Khái niệm quy chế dân chủ cơ sở
Nhà nước của ta xét về bản chất là Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Trong
sự nghiệp cách mạng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã đạt được nhiều
thành quả quan trọng. Đất nước đã được độc lập, tự do, thống nhất. Ngày nay toàn


17


Đảng, toàn dân đang ra sức phấn đấu xây dựng một nước Việt Nam theo mục tiêu
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII đặt ra: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng
bằng, văn minh. Tuy nhiên, trong q trình xây dựng đất nước đã bộc lộ một số yếu
kém, khuyết điểm, đặc biệt là sự suy thoái phẩm chất ở một bộ phận cán bộ, đảng
viên có chiều hướng phát triển, vấn đề thực hiện QCDC cho nhân dân còn bị vi
phạm ở nhiều nơi, trên nhiều lĩnh vực; điều đó làm xói mịn lịng tin của nhân dân
đối với Đảng, gây phiền hà, sách nhiễu cho người dân, đó cũng là lực cản cho sự
phát triển.
Từ thực trạng đó đặt ra cho Đảng và Nhà nước là phải đưa ra một thiết chế để
từng bước thực hiện và đưa lại quyền dân chủ cho người dân. Tại Hội nghị BCH
TW lần thứ 3 khóa VIII (6/1997) đã ban hành Nghị quyết nhấn mạnh: “Tiếp tục
phát huy tốt hơn và nhiều hơn quyền làm chủ của dân qua các hình thức dân chủ
đại diện và dân chủ trực tiếp; tiếp tục hồn thiện Nhà nước Cộng hịa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam đảm bảo trong sạch, vững mạnh và tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng đối với Nhà nước, mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm
chủ của nhân dân trong xây dựng và quản lý Nhà nước”.
Để các cấp các ngành hiểu rõ hơn về tầm quan trọng và vị trí, vai trị của việc
thực hiện quyền dân chủ của người dân, ngày 18/02/1998, Bộ Chính trị đã ra Chỉ
thị 30/CT-TW “Về xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở”, Nghị quyết
khẳng định cần phải “giữ vững và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, thu hút
nhân dân tham gia quản lý nhà nước, tham gia kiểm kê, kiểm sốt nhà nước, khắc
phục tình trạng suy thối, quan liêu, mất dân chủ và nạn tham nhũng” [4, tr.6].
Thực hiện Chỉ thị 30/CT- TW của Bộ Chính trị, ngày 26/02/1998 Ủy ban
Thường vụ Quốc hội (khóa X) đã ban hành Nghị quyết số 45-1998/NQ- UBTVQH
“Về việc ban hành quy chế thực hiện dân chủ ở xã”. Nghị quyết cũng giao Chính


18

phủ ban hành quy chế thực hiện dân chủ cơ sở để các địa phương, cơ quan, có cơ

sở pháp lý triển khai thực hiện.
Trên cơ sở Chỉ thị của Bộ chính trị và Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 29/1998/NQ- CP “Về việc ban
hành Quy chế thực hiện dân chủ ở xã”. Nghị định nêu rõ: Điều 1: Ban hành kèm
theo Nghị định này bản Quy chế thực hiện dân chủ ở xã. Điều 2. Quy chế này áp
dụng với cả phường và thị trấn. Ban tổ chức - Cán bộ Chính phủ hướng dẫn việc áp
dụng quy chế này đối với xã, phường và thị trấn [8, tr.1].
Quy chế dân chủ ở cơ sở bao gồm: dân chủ trong các cơ quan hành chính Nhà
nước, các đơn vị hành chính sự nghiệp và các doanh nghiệp. Như vậy, trong thời
gian không dài, các cơ quan lãnh đạo của Đảng, Quốc hội và Nhà nước đã liên tiếp
ban hành các chỉ thị, nghị quyết, nghị định, điều đó thể hiện sự quan tâm của Đảng,
Nhà nước đối với việc xây dựng thể chế về dân chủ ở cơ sở, nhằm từng bước thực
hiện tư tưởng của Bác Hồ. Bác đã từng nhiều lần khẳng định nhà nước ta là nhà
nước của dân, thể hiện quyền lực của nhân dân, theo phương châm: “dân biết, dân
bàn, dân làm, dân kiểm tra”.
Đồng thời để thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, Chính phủ cũng đã ban hành
các văn bản mang tính quy phạm pháp luật quy định những biện pháp làm chủ trực
tiếp của nhân dân ở cơ sở xã, phường, cơ quan hành chính Nhà nước và doanh
nghiệp. Những trách nhiệm và quyền lợi đó nhân dân phải được biết, được làm và
được hưởng. Trong các quy định đó cũng nêu rõ các nội dung cơng việc trong quy
trình thực hiện quy chế dân chủ thì nội dung nào do Nhà nước quyết định, nội dung
nào do nhân dân quyết định và nội dung nào nhân dân được quyền giám sát, kiểm
tra. Đó cũng là cơ sở nhằm phát huy quyền làm chủ, phát huy sức sáng tạo của
nhân dân.


19

Quy định thực hiện quy chế dân chủ ở xã là văn bản quy phạm pháp luật quy
định cụ thể những việc HĐND và UBND xã phải thông tin kịp thời và công khai để

dân biết; những việc nhân dân bàn và quyết định trực tiếp, những việc nhân dân
tham gia ý kiến trước khi cơ quan Nhà nước quyết định; Những việc dân giám sát,
kiểm tra và các hình thức thực hiện quy chế dân chủ ở xã nhằm phát huy quyền làm
chủ, sức sáng tạo của nhân dân ở cơ sở, động viên sức mạnh vật chất và tinh thần to
lớn của nhân dân đóng góp vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội, cải thiện dân
sinh, nâng cao dân trí, ổn định chính trị, tăng cường đồn kết, xây dựng Đảng,
chính quyền và các đồn thể ở cơ sở ngày càng trong sạch, vững mạnh. Đó cũng là
điều kiện để ngăn chặn và khắc phục tình trạng suy thối, quan liêu, tham nhũng
của một số cán bộ, đảng viên và các tệ nạn xã hội, góp phần thực hiện mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, theo định hướng XHCN. Quy chế
thực hiện dân chủ ở xã, thực chất là một định chế pháp lý bảo đảm quyền làm chủ
của nhân dân, tạo khơng khí lành mạnh, phấn khởi cho người lao động.
Trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của mình, Đảng và Nhà nước
ta ln có những chủ trương và chính sách đúng đắn, nhằm đảm bảo và phát huy
quyền làm chủ của nhân dân trên mọi lĩnh vực của đời sống, phù hợp với mọi giai
đoạn cách mạng của đất nước. Để ngày càng hoàn thiện các nội dung cơ bản của
nền dân chủ XHCN, phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động trong sự
nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, Bộ Chính trị đã có Chỉ thị số 30/CT- TW
ngày 18/2/1998 “Về việc xây dựng và hoàn thiện Quy chế dân chủ ở cơ sở”.
Chỉ thị số 30/CT-TW của Bộ Chính trị đã phát huy được quyền làm chủ của
Nhân dân, chính điều đó đã tạo ra động lực cho sự phát triển, góp phần ngăn chặn
tình trạng suy thối về đạo đức, tham nhũng quan liêu, cửa quyền, sách nhiễu nhân
dân của một bộ phận cán bộ, công chức và đảng viên trong bộ máy chính quyền các
cấp, tạo điều kiện xây dựng chính quyền trong sạch, vững mạnh, góp phần khắc


20

phục tình trạng vừa mất dân chủ ở cơ sở vừa tạo nên các hành động dân chủ cực
đoan, vô chính phủ. Quy chế thực hiện dân chủ cơ sở cịn góp phần phát huy trí tuệ

và sức sáng tạo của nhân dân, tạo sức mạnh vật chất và tinh thần to lớn trong thực
hiện mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Thực chất là
cụ thể hóa phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”.
Để cụ thể hóa Chỉ thị 30 của Bộ Chính trị, UBTVQH đã ban hành Pháp lệnh
thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn, Chính phủ có các Nghị định về thực hiện
Quy chế dân chủ, bao gồm: Nghị định 29/1998/NĐ- CP “Về giám sát, điều khoản
thi hành trong việc thực hiện quy chế dân chủ ở xã, phường, thị trấn; Nghị định số
07/NĐ- CP ra ngày 7/8/1998 “Về thực hiện Quy chế dân chủ ở doanh nghiệp và
Nghị định số 71/NĐ-CP ra ngày 8/9/1998 “Về thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ
quan hành chính sự nghiệp”. Sau đó Chính phủ lại ban hành tiếp Nghị định số
79/2003/NĐ-CP một lần nữa nhấn mạnh tầm quan trọng của Quy chế thực hiện dân
chủ ở cơ sở; Nghị định số 60/2013/NĐ-CP ngày 19/6/2013 Quy định chi tiết khoản
3 điều 63 của Bộ luật Lao động về thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở tại nơi làm
việc và Nghị định số 04/2015/NĐ-CP về thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ
quan hành chính nhà nước và đơn vị sự nghiệp công lập. Nghị định bao gồm các
nội dung sau:
Thứ nhất, Những quy định chung:
“Điều 1. Quy chế này quy định cụ thể những việc Hội đồng nhân dân và Uỷ
ban nhân dân xã (sau đây gọi là chính quyền xã) phải thơng tin kịp thời và công
khai để dân biết; những việc dân bàn và quyết định trực tiếp; những việc dân tham
gia ý kiến trước khi cơ quan Nhà nước quyết định; những việc dân giám sát, kiểm
tra và các hình thức thực hiện quy chế dân chủ ở xã.
“Điều 2. Quy chế thực hiện dân chủ ở xã nhằm phát huy quyền làm chủ, sức
sáng tạo của nhân dân ở xã, động viên sức mạnh vật chất và tinh thần to lớn của


21

nhân dân trong phát triển kinh tế xã hội, cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí, ổn
định chính trị, tăng cường đồn kết, xây dựng Đảng bộ, chính quyền và các đoàn

thể trong xã trong sạch, vững mạnh; ngăn chặn và khắc phục tình trạng suy thối,
quan liêu, tham nhũng của một số cán bộ, đảng viên và các tệ nạn xã hội, góp phần
thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh theo định
hướng xã hội chủ nghĩa”.
“Điều 3. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân gắn liền với cơ chế Đảng lãnh
đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ; phát huy chế độ dân chủ đại diện, nâng
cao chất lượng và hiệu lực hoạt động của chính quyền địa phương, thực hiện chế độ
dân chủ trực tiếp ở cơ sở để nhân dân bàn bạc và trực tiếp quyết định những công
việc quan trọng, thiết thực, gắn với quyền lợi và nghĩa vụ của nhân dân”.
“Điều 4. Dân chủ phải trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật; đi đôi với
trật tự, kỷ cương; quyền đi đôi với nghĩa vụ; kiên quyết xử lý những hành vi lợi
dụng dân chủ, vi phạm Hiến pháp, pháp luật, xâm phạm lợi ích của Nhà nước; lợi
ích tập thể, quyền tự do, dân chủ và lợi ích hợp pháp của cơng dân” [12, tr.7- 8].
Thứ hai, Những nội dung cần thông báo để nhân dân biết gồm:
Các quy định của Nhà nước về thủ tục hành chính, thu các loại thuế, lệ phí,
quyền và nghĩa vụ cơng dân; Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội dài hạn và hàng
năm của cơ sở; Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai; Các chủ trương, kế hoạch vay
vốn phát triển sản xuất xóa đói giảm nghèo; Kết quả thanh tra, giải quyết các vụ
việc tiêu cực, tham nhũng; Cơng tác văn hóa xã hội, phịng chống tệ nạn xã hội, giữ
gìn an ninh. Những việc nhân dân bàn và quyết định trực tiếp: Chủ trương và sức
đóng góp xây dựng cơ sở hạ tầng và các cơng trình phúc lợi cơng cộng (điện,
đường, trường học, trạm y tế, nghĩa trang, các công trình văn hóa thể thao); Xây
dựng hương ước, quy ước làng văn hóa, nếp sống văn minh, giữ gìn an ninh trật tự,
bài trừ các hủ tục mê tín dị đoan, tệ nạn xã hội; thành lập ban giám sát các công


22

trình xây dựng do nhân dân đóng góp. Tổ chức bảo vệ sản xuất, kinh doanh, giữ gìn
an ninh trật tự an tồn giao thơng, vệ sinh mơi trường và các hoạt động khác trên

địa bàn.
Thứ ba, Những việc nhân dân bàn tham gia ý kiến, chính quyền xã quyết định:
Dự thảo nghị quyết của Hội đồng nhân dân; phương án chuyển đổi cơ cấu
kinh tế, cơ cấu sản xuất và phương án phát triển ngành nghề; phương án quy hoạch
khu dân cư, đề án định canh, định cư vùng kinh tế mới; kế hoạch dự án huy động
và sử dụng các khoản đóng góp của nhân dân để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng do
địa phương quản lý; dự thảo đề án phân vạch, điều chỉnh địa giới hành chính.
Thứ tư, Những việc nhân dân được quyền giám sát kiểm tra:
Hoạt động của chính quyền cũng như các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã
hội và tổ chức xã hội - nghề nghiệp; kết quả thực hiện nghị quyết của HĐND, quyết
định, chỉ thị của UBND; giải quyết khiếu nại tố cáo của công dân; Kiểm tra dự toán
và quyết toán ngân sách; giám sát và kiểm tra q trình thi cơng cơng trình của cấp
trên triển khai trên địa bàn xã có ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất, an ninh trật tự,
văn hố xã hội, vệ sinh mơi trường và đời sống của nhân dân địa phương; kiểm tra
việc thu và chi các loại quỹ và lệ phí theo quy định của Nhà nước và các khoản
đóng góp của nhân dân; kiểm tra kết quả thanh tra, kiểm tra, giải quyết các vụ việc
tiêu cực tham nhũng xảy tra trên địa bàn; kiểm tra, giám sát việc thực hiện chế độ
chính sách ưu đãi, chăm sóc giúp đỡ thương, bệnh binh, gia đình liệt sỹ, người có
cơng với nước, bảo hiểm, bảo trợ xã hội,...
Để thực hiện được các nội dung trên, các cấp, các ngành có trách nhiệm xây
dựng chính quyền cơ sở trong sạch, vững mạnh, hiệu lực, hiệu quả, khắc phục biểu
hiện quan liêu, thiếu trách nhiệm, mất dân chủ trong việc giải quyết các công việc.


23

1.2. Nội dung, vai trò, đặc điểm của quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở
1.2.1. Nội dung quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở
Quy chế thực hiện dân chủ ở xã do Chính phủ ban hành ngày 15/5/1998 gồm:
Lời nói đầu, 7 chương và 25 điều. Cơ bản Quy chế khái quát về nội dung Quyền và

nghĩa vụ cơng dân trong q trình thực hiện dân chủ, bao gồm:
Về nội dung, Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở tập trung đề cập:
Thứ nhất, Quy định những quyền của nhân dân ở cơ sở được biết và hình thức
biết những thơng tin liên quan đến pháp luật, chủ trương chính sách của Đảng và
Nhà nước, đặc biệt là những thông tin liên quan trực tiếp đến đời sống nhân dân.
Thứ hai, Đồng thời cũng quy định những việc để nhân dân bàn và quyết định
cũng như những hình thức thực hiện; Quy định những việc nhân dân ở cấp xã có
quyền giám sát, kiểm tra và phương thức để thực hiện giám sát, kiểm tra; Việc xây
dựng cộng đồng dân cư thôn, làng, bản, ấp và những hình thức tổ chức. Đặc biệt,
để thực hiện phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, quy chế quy
định cơ chế thực hiện dưới hai hình thức dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện,
trong đó ở cấp cơ sở, dân chủ trực tiếp đóng vai trị quan trọng.
Thứ ba, những việc để nhân dân bàn và quyết định cũng như những hình thức
thực hiện. Điều 1 Quy chế khẳng định: “Quy chế này quy định cụ thể những việc
HĐND và UBND xã phải thông tin kịp thời và công khai để dân biết; Những việc
dân bàn và quyết định trực tiếp; những việc dân tham gia ý kiến trước khi cơ quan
nhà nước quyết định; những việc dân giám sát, kiểm tra và các hình thức thực hiện
quy chế dân chủ ở xã”.
Về vấn đề dân biết, Quy chế quy định quyền của mọi người dân được thơng
tin về những chủ trương, chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước, các vấn đề
liên quan trực tiếp đến đời sống hàng ngày của nhân dân tại cơ sở,… và nghĩa vụ
của chính quyền phải thông tin kịp thời và công khai cho người dân.


24

Về những nội dung dân bàn, có 2 loại gồm:
Thứ nhất, Các loại công việc cho dân bàn và quyết định trực tiếp.
Thứ hai, Các loại công việc do dân bàn và tham gia ý kiến, HĐND và UBND
xã quyết định.

Nội dung công việc dân bàn và quyết định trực tiếp là các loại cơng việc có
huy động sự đóng góp của dân để xây dựng cơ sở hạ tầng hoặc xây dựng hương
ước, quy ước nội bộ. Đây là quy định rất mới không những thực hiện quyền làm
chủ của nhân dân mà còn chống được tệ nạn tham nhũng, lãng phí.
Về nội dung dân giám sát, kiểm tra, Quy chế quy định dân giám sát, kiểm tra
các loại công việc từ hoạt động của HĐND, UBND đến các việc giải quyết khiếu
nại, tố cáo của công dân, kết quả quyết tốn cơng trình do dân đóng góp, việc quản
lý sử dụng đất đai, thu chi các quỹ, việc thực hiện chính sách đối với người có cơng
với nước,… Dân giám sát, kiểm tra tức là người dân thực hiện quyền lực của mình
trong quá trình quản lý đất nước. V.I Lênin đã từng nói: “Nếu Nhà nước khơng tiến
hành kiểm kê, kiểm sốt tồn dân đối với việc sản xuất và phân phối các sản phẩm
thì chính quyền của những người lao động, nền tự do của họ sẽ khơng thể duy trì
được” [19, tr. 129].
1.2.2. Vai trị của quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở
Đất nước ta tiến hành sự nghiệp xây dựng xã hội mới từ một chế độ phong
kiến nửa thuộc địa, do vậy trong xã hội vẫn mang đậm dấu ấn chế độ cũ từ ý thức
hệ cho đến tập quán sản xuất cũng như trong thực hành dân chủ. Cấu trúc làng xã
của xã hội phong kiến Việt Nam trước đây đã tạo nên những giá trị dân chủ sơ khai
như tình làng nghĩa xóm, sự cấu kết trong mối quan hệ thân tộc, dịng tộc. Mặt
khác, do sự đơ hộ của chủ nghĩa thực dân nên đã hình thành các yếu tố sơ khai của
dân chủ tư sản. Từ đó chúng ta có cơ sở khẳng định rằng, nền tảng dân chủ ở cơ sở
của xã hội Việt Nam không kế thừa được nhiều các giá trị dân chủ được xây đắp


×