Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

CÁC VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HIỆU QUẢ SỬ TÀI SẢN LƯU ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (141.04 KB, 17 trang )

CÁC VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HIỆU QUẢ SỬ TÀI SẢN LƯU
ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP.
1.1 Tài sản lưu động của doanh nghiệp.
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm tài sản lưu động cuả doanh nghiệp.
- Tài sản lưu động (TSLĐ) là tài sản ngắn hạn và thường xuyên luân chuyển
trong quá trình kinh doanh. Tài sản lưu động bao gồm: tiền mặt, các khoản phải
thu, dự trữ hàng tồn kho và tài sản lưu động khác.
- Đặc điểm nổi bật của của TSLĐ là không ngừng tuần hoàn và chu chuyển
giá trị qua các khâu của quá trình SXKD. Trong chu kỳ luân chuyển của mình,
TSLĐ thường xuyên đổi từ hình thái vật chất này sang hình thái vật chất khác.
1.1.2. Phân loại TSLĐ.
Để lập kế hoạch nâng cao quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu
động người ta tiến hành phân loại vốn lưu động, có nhiều cách phân loại tuỳ theo
các căn cứ khác nhau :
1.1.2.1. Căn cứ vào nguồn hình thành:
Vốn lưu động được chia thành 3 loại:
- Vốn lưu động tự có là nguồn vốn thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp
như: vốn do ngân sách nhà nước cấp ,vốn cổ phần do cổ đông đóng góp, vốn tự
hình thành, vốn chủ sở hữu …
Nợ tích luỹ ngắn hạn (vốn lưu động coi như tự có) là vốn tuy không thuộc
quyền sở hữu của doanh nghiệp, nhưng do chế độ thanh toán, doanh nghiệp có thể
và được phép sử dụng hợp pháp vào hoạt động sản xuất kinh doanh của mình (tiền
lương, BHXH chưa đến kỳ trả, nợ thuế, tiền điện nước chưa đến hạn thanh toán,
các khoản phí tổn tính trước).
Vốn lưu động đi vay: Vay Ngân hàng Thương Mại và các tổ chức tín dụng
khác; vay các tổ chức kinh tế, các tổ chức XH và các cá nhân khác.
Theo cách phân chia này doanh nghiệp sẽ thấy được cơ cấu nguồn tài chính
cho nhu cầu vốn lưu động trong sản xuất kinh doanh của mình.
1.1.2.2. Căn cứ vào biện pháp quản lý :
Có hai loại vốn lưu động:
- Vốn lưu động định mức: gồm vốn lưu động trong sản xuất, vốn thành


phẩm, cần tiến hành định mức kế hoạch để có cơ sở quản lý vốn, đảm bảo bố trí
hợp lý vốn lưu động trong từng giai đoạn sản xuất kinh doanh, tạo cơ sở xác định
nhu cầu vốn trong năm kế hoạch.
- Vốn lưu động không định mức: Là số vốn lưu động có thể phát sinh trong
quá trình kinh doanh nhưng có căn cứ tính toán định mức và cũng không cần thiết
để định mức, chủ yếu dùng vào việc thanh toán (nợ quá hạn, nợ khó đòi, các loại
tiền phạt, tiền bồi thường…, chưa thu được).
1.1.2.3. Căn cứ vào các giai đoạn luân chuyển của vốn lưu động: gồm
- Vốn trong dự trữ sản xuất.
- Vốn trong sản xuất.
- Vốn trong thanh toán.
1.1.3. Kết cấu tài sản lưu động.
1.1.3.1 Tiền
Bao gồm: Tiền gửi ngân hàng, tiền mặt tại quỹ, tiền đang chuyển. Ở các
nước có thị trường chứng khoán phát triển thì các chứng khoán ngắn hạn cũng
được xếp vào mục này. Vốn bằng tiền được sử dụng để trả lương cho công nhân,
mua sắm nguyên vật liệu, mua tài sản cố định trả tiền thuê, trả nợ,…
1.1.3.2. Các khoản phải thu:
Khi một doanh nghiệp bán hàng hoá và dịch vụ cho khách hàng thì hoặc
doanh nghiệp sẽ được thanh toán tức thì bằng tiền hoặc sẽ được thanh toán sau
một thời gian nhất định. Chính những khoản thanh toán chậm đã hình thành các
khoản phải thu khách hàng trong quản lý tài chính của doanh nghiệp hay nói cách
khác đó chính là các khoản tính dụng mà doanh nghiệp cung cấp cho khách hàng
của mình.
1.1.3.3. Hàng tồn kho
Trong quá trình luân chuyển của vốn lưu động phục vụ cho sản xuất kinh
doanh thì việc tồn tại vật tư hàng hoá dự trữ, tồn kho là những bước đệm cần thiết
cho quá trình hoạt động bình thường của doang nghiệp. Hàng hoá tồn kho có ba
loại: Nguyên vật liệu thô phục vụ cho quá trình sản xuất, kinh doanh; sản phẩm dở
dang và thành phẩm.

Nguyên vật liệu dự trữ không trực tiếp tạo ra lợi nhuận nhưng nó có vai trò
rất lớn để cho quá trình sản xuất kinh doanh tiến hành bình thường. Do vậy, doanh
nghiệp phải thường xuyên dự trữ một lượng lớn nguyên vật liệu, hình thành nên
khoản mục vốn dự trữ. Vốn dự trữ chính là biểu hiện bằng tiền của nguyên vật liệu
chính, nguyên vật liệu phụ, nhiên liệu, bao bì, vật liệu bao bì. Bộ phận này chiếm
tỷ trọng lớn trong tổng số vốn lưu động.
Khi tiến hành sản xuất xong hầu như các doanh nghiệp chưa thể tiêu thụ hết
ngay các sản phẩm của mình được, phần thì do “độ trễ” nhất định giữa sản xuất và
tiêu thụ, phần thì phải có đủ lô hàng mới xuất đi tiêu thụ được… Do vậy doanh
nghịêp cũng luôn phải duy trì một số lượng vốn lưu động dưới dạng vốn sản xuất
và vốn thành phẩm. Đó là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ sản phẩm đang chế tạo
và nửa thành phẩm, phí tổn chờ phân bổ và vốn thành phẩm nhập kho.
1.1.3.4. Tài sản lưu động khác
Được biểu hiện bằng tiền của các khoản tạm ứng, chi phí trả trước, chi phí
chờ kết chuyển… Đây là những khoản mục chi phí cần thiết phục vụ cho những
nhu cầu thiết yếu cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
1.2 Hiệu quả sử dụng TSLĐ của doanh nghiệp.
1.2.1 Khái niệm hiệu quả sử dụng TSLĐ.
Hiệu quả sử dụng tài sản lưu động là một phạm trù kinh tế phản ánh trình
độ, năng lực khai thác và sử dụng tài sản của doanh nghiêp vào hoạt động sản
xuất, kinh doanh nhằm mục đích tối đa hoá lợi ích và tối thiểu hoá chi phí.
Hiệu quả sử dụng tài sản lưu động được biểu hiện bằng mối quan hệ giữa
kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh với số vốn lưu động đầu tư cho hoạt động
của doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định.
Hiệu quả sử dụng
TSLĐ
=
Kết quả SXKD
VLD
Kết quả thu được từ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được

thể hiện bằng doanh thu đạt được hay lợi nhuận trong kỳ, còn vốn lưu động là số
vốn được tính bình quân trong kỳ.
Hiệu quả sử dụng TSLĐ có quan hệ đến hiệu quả tất cả các yếu tố cấu thành
nên TSLĐ, nên doanh nghiệp chỉ có thể đạt được hiệu quả cao khi sử dụng các yếu
tố của TSLĐ một cách hợp lý nhất.
Quan điểm về hiệu quả sử dụng TSLĐ trong sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp được thể hiện tập trung chủ yếu ở các mặt sau:
- Khả năng sinh lời và khả năng sản xuất của TSLĐ phải cao và không ngừng
tăng so với ngành và giữa thời kỳ. Nghĩa là phải đảm bảo một đồng vốn lưu động có
thể đem lại lợi nhuận tối đa cho phép để không những bảo toàn mà còn phát triển
vốn.
- Khả năng tiết kiệm TSLĐ cao và càng tăng: sử dụng TSLĐ tiết kiệm cũng là
một chỉ tiêu thể hiện hiệu quả sử dụng TSLĐ. Nó giúp doanh nghiệp không phải
huy động thêm vốn lưu động, giảm chi phí tăng lợi nhuận mà vẫn đáp ứng nhu cầu
vốn cho sản xuất.
- Tốc độ luân chuyển vốn cao: Giúp doanh nghiệp đẩy nhanh khả năng thu
hồi vốn, tiếp tục tái đầu tư cho chu kỳ sản xuất tiếp theo, nắm bắt kịp thời các cơ
hội kinh doanh có khả năng thu hồi.
- Xây dựng được một cơ cấu tối ưu là tiềm lực vững chắc cho doanh nghiệp.
Mặt khác, nếu xét theo quan điểm hiệu quả kinh tế xã hội thì hiệu quả trong
các ngành kinh tế nói chung và hiệu quả sử dụng TSLĐ được thể hiện ở hai mặt:
hiệu quả trực tiếp và hiệu quả gián tiếp. Hiệu quả trực tiếp là mang lại lợi ích trực
tiếp cho người kinh doanh. Hiệu quả gián tiếp là xét trên phạm vi chung của nền
kinh tế hoặc một vùng kinh tế, lãnh thổ. Vì vậy, một yêu cầu trong sử dụng vốn
lưu động là phải gắn kết hiệu quả trực tiếp và hiệu quả gián tiếp, tức là phải góp
phần tăng trưởng kinh tế xã hội, tăng tổng sản phẩm kinh tế quốc dân và nâng cao
đời sống cho cán bộ công nhân viên.
1.2.2 Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng TSLĐ
Bởi xét theo góc độ tài sản vốn lưu động chính là biểu hiện bằng tiền của tài
sản lưu động, nên chúng ta có thể dùng hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử

dụng vốn lưu động để phân tích.
Hiệu quả sử dụng vốn lưu động là một phạm trù rộng bao gồm nhiều mặt tác
động. Bản thân yếu tố này lại bị chi phối bởi rất nhiều yếu tố khác. Bởi vậy để
đánh giá chính xác, có cơ sở khoa học hiệu quả kinh doanh nói chung và hiệu quả
sử dụng vốn lưu động nói riêng thì doanh nghiệp phải dựa trên nguồn thông tin từ
các báo cáo tài chính và dùng phương pháp tỷ lệ và phân tích. Dựa trên nền tảng
căn bản đó, các nhà kinh tế xây dựng một hệ thống chỉ tiêu phản ánh chất lượng sử
dụng vốn lưu động của các nhà doanh nghiệp. Hệ thống chỉ tiêu phải đáp ứng
được các yêu cầu sau:
- Các chỉ tiêu phải đánh giá, phản ánh được hiệu quả kinh doanh của
đơn vị trên phương diện tổng quát cũng như riêng biệt từng yếu tố
tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Hệ thống chỉ tiêu phải đảm bảo tính toàn diện, điều này thể hiện ở
chỗ chỉ tiêu phải phản ánh, biểu hiện các yếu tố, các mặt hoạt động
của sản xuất kinh doanh.
- Các chỉ tiêu đánh giá phải có sự liên hệ và so sánh tính toán cụ thể thống
nhất.
- Các chỉ tiêu đánh giá có phạm vi áp dụng nhất định cho từng mục tiêu
cụ thể.
Các chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lời và khả năng sản xuất của vốn lưu
động, trong số các chỉ tiêu có chỉ tiêu phản ánh trực tiếp hiệu quả sử dụng vốn lưu
động của doanh nghiệp nhưng cũng có chỉ tiêu tác động gián tiếp đến hoạt động

×