Công nghiệp hoá hiện đại hoá và Vai trò củachính quyền
cấp tỉnh đối với sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá
1.1. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong sự nghiệp xây
dựng CNXH ở nớc ta.
1.1.1. Khái quát về công nghiệp hoá, hiện đại hoá
- Các quan niệm về công nghiệp hóa
CNH đã có chiều dài lịch sử trên 200 năm, đến nay vẫn còn là vấn đề thời sự và
là vấn đề bức xúc đối với các nớc đang phát triển.
Tất cả các nớc từ sản xuất nhỏ tiến lên sản xuất lớn, từ một nớc nông nghiệp lạc
hậu trở thành một nớc công nghiệp hiện đại, đều phải trải qua công nghiệp hoá. Đó là
con đờng xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho nền sản xuất lớn, hiện đại. Đây là
quy luật chung, phổ biến đối với tất cả các nớc.
Hiện nay vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau về CNH. Trong bối cảnh ấy, điều
quan trọng là phải hiểu thực chất của sự nghiệp CNH, trên cơ sở đó vận dụng phù
hợp với điều kiện thực tế của mỗi nớc trong việc thực hiện nhim v này.
CNH là quá trình trang bị và trang bị lại công nghệ hiện đại cho tất cả các
ngành kinh tế quốc dân, trớc hết là các ngành chiếm vị trí trọng yếu. Điều đó tất yếu
sẽ dẫn tới thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế quốc dân.
Sự nghiệp CNH không chỉ liên quan đến phát triển công nghiệp mà là quá trình
bao trùm lên tất cả các ngành, các lĩnh vực hoạt động của một nớc, nhất là nớc ta từ
một nớc nông nghiệp dựa trên sức lao động thủ công là chính quá độ lên CNXH.
Sự nghiệp CNH cũng đồng thời là quá trình mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế.
Nh vậy, sự nghiệp CNH vừa là quá trình kinh tế - kỹ thuật, vừa là quá trình kinh
tế - xã hội. Việc thực hiện thành công CNH sẽ xây dựng đợc một nền kinh tế công
nghiệp có trình độ phát triển cao, khoa học công nghệ tiên tiến, cơ cấu kinh tế hợp lý.
Điều đó dẫn đến sự biến đổi về cơ cấu xã hội - dân c rất khác so với nền kinh tế nông
nghiệp. Đó là xuất hiện nhiều khu công nghiệp lớn, nhiều thành phố lớn, ngời dân
sống rất tập trung, trong đó dân c công nghiệp và lc lng lao động trong công
nghiệp chiếm đa số; có cơ cấu giai cấp rất khác so với trớc; trình độ của ngời lao
động cũng nh dân trí và chất lợng cuộc sống của nhân dân nâng cao; làm thay đổi
nếp nghĩ, cách làm của ngời dân.
Qua đó có thể hiểu khái quát CNH là quá trình xây dựng một nền công nghiệp
tiên tiến, tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật cho công cuộc xây dựng và phát triển đất n-
ớc, nhằm chuyển một xã hội nông nghiệp với lao động thủ công là chủ yếu sang
một xã hội công nghiệp với lao động bằng máy móc với công nghệ, phơng tiện và
phơng pháp hiện đại trong tất cả các lĩnh vực kinh tế, xã hội, tạo ra năng suất lao
động và nhịp độ phát triển kinh tế - xã hội cao.
CNH có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội:
- Đây là quá trình phát triển lực lợng sản xuất, tăng năng suất lao động, nâng
cao chất lợng sản phẩm, do đó làm tăng tính cạnh tranh của hàng hoá trên thị trờng,
góp phần rút ngắn khoảng cách phát triển giữa các nớc đang phát triển với các nớc
phát triển.
- Làm củng cố và tăng cờng vai trò kinh tế của Nhà nớc, nâng cao khả năng tích
luỹ của nền kinh tế, từ đó thúc đẩy nhanh tăng trởng và phát triển kinh tế, tạo công
ăn việc làm, khuyến khích sự phát triển tự do và toàn diện của mỗi cá nhân.
- Tạo điều kiện vật chất cho việc xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, đủ sức
tham gia có hiệu quả vào sự phân công và hợp tác quốc tế.
-Tạo điều kiện vật chất cho việc tăng cờng củng cố an ninh quốc phòng.
Trong thời đại ngày nay, với sự bùng nổ của khoa học - công nghệ, các nớc phát
triển đã lợi dụng sự phát triển đó để phát triển kinh tế, tạo ra khoảng cách ngày càng
lớn với các nớc đang phát triển. Do vậy, khoảng cách đó, suy cho đến cùng, đó là
khoảng cách về phát triển khoa học - công nghệ. ở các nớc đang phát triển, dờng nh
để đạt tới trình độ hiện đại nhất ngày càng trở nên một thách thức khó vợt qua. Điều
đó buộc các nớc ĐPT phải thực hiện CNH gắn liền với HĐH để tiến lên, rút ngắn
khoảng cách với các nớc phát triển.
Điều đó đã khẳng định, các nớc đang phát triển phải đẩy nhanh quá trình phát
triển kinh tế mới rút ngắn đợc khoảng cách với các nớc phát triển, việc CNH phải gắn
liền với HĐH là tất yếu lịch sử. Xu thế kinh tế và chính trị thế giới hiện nay đã tạo
điều kiện các nớc đang phát triển thực hiện mục tiêu đó.
- Quan niệm về công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Kinh nghiệm về CNH của các nớc đi trớc và qua thực tiễn kiểm nghiệm, kết hợp
với sự phát triển mạnh của khoa học công nghệ và quan hệ kinh tế quốc tế ngày càng
đợc mở rộng, quan niệm về CNH, HĐH đợc hiểu nh sau: CNH chính là một cuộc
cách mạng về lực lợng sản xuất, làm thay đổi căn bản kỹ thuật, công nghệ, sản xuất,
tăng năng xuất lao động. HĐH là quá trình thờng xuyên cập nhật và nâng cấp những
công nghệ hiện đại nhất, mới nhất trong quá trình CNH. Trong thời đại ngày nay,
CNH luôn gắn liền với HĐH.
CNH, HĐH là quá trình trang bị kỹ thuật và công nghệ hiện đại cho nền kinh tế
quốc dân, trớc hết là các ngành giữ vị trí quan trọng, biến một nớc có nền kinh tế
kém phát triển thành một nớc có nền kinh tế phát triển, thành một nớc công nghiệp
hiện đại.
ở Việt Nam, ng cộng sản Việt Nam cho rằng: "CNH, HĐH là quá trình
chuyển đổi cơ bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và qun lý
kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến
sức lao động cùng với công nghệ, phơng tiện, phơng pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên
sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học công nghệ, tạo ra năng suất lao
động xã hội cao". Quan niệm này nói lên phạm vi và vai trò đặc biệt quan trọng của
CNH, HĐH trong phát triển kinh tế xã hội, gắn liền đợc hai phạm trù, không thể tách
rời là CNH và HĐH. Có thể thấy rằng, quan niệm về CNH này phù hợp với điều kiện
cụ thể của Việt Nam và bối cảnh thế giới ngày nay. Đó là nhấn mạnh hơn yếu tố
khoa học - công nghệ bằng việc gắn CNH với HĐH "để đến năm 2020 nớc ta cơ bản
trở thành một nớc công nghiệp".
1.1.2. Tính tất yếu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong sự nghiệp
xây dựng CNXH ở nớc ta.
Xuất phát từ lý luận hình thái kinh tế xã hội cho thấy xã hội loài ngời đã
phát triển trải qua nhiều hình thái kinh tế xã hội nối tiếp nhau. C.Mác đã đi đến
khẳng định: Sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử
tự nhiên.
Hình thái kinh tế xã hội là một hệ thống, trong đó các mặt không ngừng tác
động qua lại lẫn nhau tạo thành các quy luật vận động, phát triển khách quan của xã
hội. Chính sự tác động của các quy luật khách quan đó mà các hình thái kinh tế
xã hội vận động phát triển từ thấp đến cao.
Từ đó cho thấy, tất cả các nớc để đi tới một hình thái kinh tế - xã hội phát triển
cao thì cũng đều xuất phát từ những nền kinh tế lạc hậu, thấp kém đi lên, cũng lần lợt
trải qua những hình thái kinh tế kế tiếp nhau từ thấp đến cao. Trong đó, Việt Nam
cũng nh tất cả các nớc, cũng từ một nền kinh tế lạc hậu đi lên.
Nớc ta tiến lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế phổ biến sản xuất nhỏ, lao
động thủ công là phổ biến. Chính vì vậy, chúng ta phải tiến hành CNH, HĐH. Trong
thời đại ngày nay, CNH phải gắn liền với HĐH. CNH, HĐH ở nớc ta là nhằm xây
dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Đó là nhiệm vụ trung tâm trong
suốt thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nớc ta.
Từ khi bớc vào thời kỳ đổi mới năm 1986 cùng với việc từng bớc phát triển nền
kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa, giải phóng các lực lợng sản xuất,
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đổi mới cơ chế quản lý chủ động hội nhập kinh tế quốc
tế, Đảng và Nhà nớc đã xác định ngày càng rõ quan điểm mới về CNH, HĐH.
Quan điểm mới ấy là kết quả tổng kết thực tiễn, rút ra từ những bài học của
mấy thập kỷ trớc đây kết hợp với sự nghiên cứu, học hỏi kiến thức và kinh nghiệm
của thế giới và thời đại.
Đảng và Nhà nớc đã vạch ra CNH, HĐH, không phải là hai quá trình tuy có
phần lồng vào nhau nhng về cơ bản vẫn tách biệt và nối tiếp nhau, mà là quá trình
thống nhất, có thể tóm tắt là công nghiệp hóa theo hớng hiện đại.
Nghị quyết hội nghị trung ơng 7 khóa VII của Đảng ta (1994) chỉ rõ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động
sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ
công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với cộng nghệ,
phơng tiện và phơng pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của công
nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao.
Coi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nớc ta trong thời kỳ đổi mới
là một cuộc cách mạng toàn diện và sâu sắc trong tất cả các lĩnh vực đời sống kinh tế
- xã hội, tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (1996) khi thông qua đờng lối
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Đảng ta nhấn mạnh: Mục tiêu của công
nghiệp hóa, hiện đại hóa là xây dựng nớc ta thành một nớc công nghiệp có cơ sở
vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ câú kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp
với trình độ phát triển của lực lợng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao,
quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu, nớc mạnh, xã hội công bằng dân chủ
văn minh. Tại Đại hội này, Đảng ta cũng xác định rõ mục tiêu phấn đấu đến năm
2020 đa nớc ta cơ bản trở thành một nớc công nghiệp. Điều này hứa hẹn mở ra những
bớc đột phá trong nhiều lĩnh vực kinh tế - xã hội, góp phần thực hiện dân giàu, nớc
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
CNH phải gắn liền với HĐH. Sở dĩ nh vậy là vì trên thế giới đang diễn ra
cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, một số nớc phát triển đã bắt đầu
chuyển từ kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri thức, nên phải tranh thủ ứng dụng
những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, tiếp cận kinh tế tri thức
để hiện đại hóa những ngành, những khâu, những lĩnh vực có điều kiện nhảy vọt.
CNH nhằm mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. CNH là tất yếu với tất
cả các nớc chậm phát triển nhng với mỗi nớc, mục tiêu và tính chất của công nghiệp
hóa có thể khác nhau. ở nớc ta, CNH nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ
nghĩa xã hội, tăng cờng sức mạnh để bảo vệ nền độc lập dân tộc.
CNH trong điều kiện cơ chế thị trờng có sự điều tiết của nhà nớc. Điều này làm
cho công nghiệp hóa trong giai đoạn hiện nay khác với công nghiệp hóa trong thời
kỳ trớc đổi mới. Trong cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hóa tập trung - hành chính,
bao cấp, CNH đợc thực hiện theo kế hoạch, theo mệnh lệnh của Nhà nớc. Trong cơ
chế kinh tế hiện nay, Nhà nớc vẫn giữ vai trò hết sức quan trọng trong quá trình CNH
. nhng CNH không xuất phát từ chủ quan của Nhà nớc, nó đòi hỏi phải vận dụng các
quy luật khách quan mà trớc hết là các quy luật thị trờng.
CNH,HĐH nền kinh tế quốc dân trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế, vì thế mở
cửa nền kinh tế, phát triển các quan hệ kinh tế quốc tế là tất yếu đối với nớc ta.
Mục tiêu tổng quát của sự nghiệp CNH của nớc ta đợc Đảng Cộng sản Việt
Nam xác định tại Đại hội lần thứ VIII và tiếp tục đợc khẳng định tại Đại hội lần thứ
IX, Đại hội X là: Đa nớc ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nớc ta cơ bản
trở thành một nớc công nghiệp theo hớng hiện đại.
ở đây, nớc công nghiệp cần đợc hiểu là một nớc có nền kinh tế mà trong đó
lao động công nghiệp trở thành phổ biến trong các ngành và các lĩnh vực của nền
kinh tế. Tỷ trọng công nghiệp của nền kinh tế cả về GDP cả về lực lợng lao động đều
vợt trội hơn so với nông nghiệp.
Mỗi phơng thức sản xuất xã hội chỉ có thể đợc xác lập vững chắc trên cơ sở
vật chất - kỹ thuật tơng ứng. Cơ sớ vật chất - kỹ thuật của một xã hội là toàn bộ hệ
thống các yếu tố vật chất của lực lợng sản xuất xã hội phù hợp với trình độ kỹ thuật t-
ơng ứng mà lực lợng lao động xã hội sử dụng để sản xuất ra của cải vật chất thỏa
mãn nhu cầu của xã hội. Nhiệm vụ quan trọng nhất của nớc ta trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội không qua chế độ t bản chủ nghĩa, là phải xây dựng cơ sở vật
chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, trong đó có công nghiệp hóa và nông nghiệp
hiện đại, có văn hóa và khoa học tiên tiến. Muốn thực hiện thành công nhiệm vụ
quan trọng nói trên, nhất thiết phải tiến hành công nghiệp hóa, tức là chuyển nền
kinh tế nông nghiệp lạc hậu thành nền kinh tế công nghiệp.
Chủ nghĩa xã hội muốn tồn tại và phát triển, cũng cần phải có một nền kinh tế
tăng trởng và phát triển cao dựa trên lực lợng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu xã
hội chủ nghĩa về t liệu sản xuất. Cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội cần
phải xây dựng trên cơ sở những thành tựu mới nhất, tiên tiến của khoa học và công
nghệ. Cơ sở vật chất kỹ thuật đó phải tạo ra đợc một năng suất lao động xã hội cao.
Công nghiệp hóa chính là quá trình tạo nền tảng cơ sở vật chất đó cho nền kinh tế
quốc dân xã hội chủ nghĩa.
Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nớc công nghiệp lạc hậu, cơ sở vật chất
- kỹ thuật thấp kém, trình độ của lực lợng sản xuất cha phát triển, quan hệ sản xuất
xã hội chủ nghĩa mới đợc thiết lập, cha đợc hoàn thiện. Vì vậy, sự nghiệp CNH chính
là quá trình xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho nền kinh tế quốc dân. Mỗi bớc
tiến của quá trình CNH, HĐH là một bứơc tăng cờng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho
chủ nghĩa xã hội, phát triển mạnh mẽ lực lợng sản xuất và góp phần hoàn thiện quan
hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.
Trong xu thế khu vực hóa và toàn cầu hóa về kinh tế đang phát triển mạnh mẽ,
trong điều kiện cách mạng khoa học - kỹ thuật và công nghệ hiện đại phát triển rất
nhanh chóng; những thuận lợi và khó khăn về khách quan và chủ quan, có nhiều thời
cơ và cũng có nhiếu nguy cơ, vừa tạo ra vận hội mới, vừa cản trở, thách thức nền kinh
tế của chúng ta, đan xen với nhau, tác động lẫn nhau. Vì vậy, nớc ta phải chủ động
sáng tạo nắm lấy thời cơ, phát huy những thuận lợi để đẩy nhanh quá trình CNH tạo
ra thế và lực mới để đa nền kinh tế tăng trởng, phát triển bền vững.
1.1.3. Nội dung công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong sự nghiệp xây dựng
CNXH ở nớc ta.
Thứ nhất, phát triển lực lợng sản xuất cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH
trên cơ sở thực hiện cơ khí hoá nền sản xuất xã hội và áp dụng những thành tựu
khoa học công nghệ hiện đại.
Qúa trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa trớc hết là quá trình cải biến lao động
thủ công, lạc hậu thành lao động sử dụng máy móc, tức là phải cơ khí hóa nền kinh
tế quốc dân. Đó là bớc chuyển đổi rất căn bản từ nền kinh tế nông nghiệp sang nền
kinh tế công nghiệp.
Đi liền với cơ khí là hiện đại hóa và tự động hóa sản xuất từng bớc và trong
toàn bộ nền kinh tế quốc dân, đòi hỏi phải xây dựng và phát triển mạnh mẽ các
ngành công nghiệp, trong đó chủ yếu là ngành chế tạo t liệu sản xuất. Sự phát triển
của các ngành chế tạo ra t liệu sản xuất là cơ sở để cải tạo, phát triển nền kinh tế
quốc dân , phát triển khu vực nông - lâm - ng nghiệp. Sự phân tích trên cho ta thấy
đối tợng công nghiệp hóa, hiện đại hóa là tất cả ngành kinh tế quốc dân nhng trớc hết
và quan trọng nhất là ngành công nghiệp sản xuất t liệu sản xuất.
Mục tiêu của CNH, HĐH còn là sử dụng kỹ thuật, công nghệ ngày càng tiên
tiến hiện đại nhằm đạt năng suất lao động xã hôi cao.Tất cả những điều đó chỉ có thể
đợc thực hiện trên cơ sở một nền khoa học - công nghệ phát triển đến một trình độ
nhất định.
Hiện nay nền khoa học của thế giới đang có sự phát triển mạnh mẽ, khoa học
đang trở thành lực lợng sản xuất trực tiếp; khi mà công nghệ đang trở thành nhân tố
quyết định chát lợng sản phẩm, chi phí sản xuất... tức là đến khả năng cạnh tranh của
hàng hóa, hiệu quả của sản xuất, kinh doanh, thì khoa học - công nghệ phải là động
lực của CNH, HĐH. Bởi vậy, phát triển khoa học - công nghệ có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng trong sự nghiệp CNH, HĐH.
Phát triển khoa học - công nghệ trong điều kiện Việt Nam hiện nay cần chú ý
tới những vấn đề sau đây:
Phải xác định đợc phơng hớng đúng đắn cho sự phát triển khoa học - công
nghệ. Khoa học - công nghệ là lĩnh vực hết sức rộng lớn; trong khi đó đội ngũ cán bộ
khoa học - công nghệ nớc ta còn nhỏ bé, chất lợng thấp; khả năng của đất nớc ta về
vốn , phơng tiện nghiên cứu... rất hạn hẹp. Do đó, chúng ta không thể cùng một lúc
đầu t để phát triển tất cả các lĩnh vực khoa học - công nghệ, mà phải lựa chọn những
lĩnh vực nhất định để đầu t. Nếu việc lựa chọn đúng sẽ tạo điều kiện cho khoa học -
công nghệ phát triển và ngợc lại, nếu việc lựa chọn không đúng thì không những ảnh
hởng tới xấu tới sự phát triển của khoa học - công nghệ mà còn ảnh hởng không tôt
đến CNH, HĐH. Phơng pháp chung cho sự phát triển khoa học - công nghệ ở nớc ta:
Phát huy những lợi thế của đất nớc, tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ công nghệ
tiên tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, tranh thủ ứng dụng
ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn và phổ biến nhiều hơn những thành tựu mới về
khoa học và công nghệ, từng bớc phát triển kinh tế tri thức.
Phải tạo dựng đợc những điều kiện cần thiết cho sự phát triển khoa học - công
nghệ. Việc xác định phơng hớng đúng cho sự phát triển khoa học - công nghệ là cần
thiết nhng cha đủ, mà khoa học - công nghệ chỉ phát triển khi đợc đảm bảo những
điều kiện kinh tế - xã hội cần thiết. Những điều kiện đó là: đội ngũ cán bộ khoa học -
công nghệ có số lợng đủ lớn, chất lợng cao; đầu t ở mức cần thiết; các chính sách
kinh tế - xã hội phù hợp...
Trong sự nghiệp CNH, HĐH, ngời lao động lực lợng sản xuất thứ nhất -
không những phải đợc nâng trình độ văn hóa và khoa học - công nghệ mà còn phải đ-
ợc trang bị cả cơ sở vật chất - kỹ thuật tiên tiến. Họ vừa là kết quả của sự phát triển
lực lợng sản xuất, vừa là ngời tạo ra sự phát triển đó.
Thứ hai, chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hớng hiện đại hoá hợp lý và hiệu
quả cao
Qúa trình CNH, HĐH cũng là quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế. Cơ cấu của
nền kinh tế quốc dân là cấu tạo hay cấu trúc của nền kinh tế bao gồm các ngành kinh
tế, các vùng kinh tế, các thành phần kinh tế... và mối quan hệ hữu cơ giữa chúng.
Trong cơ cấu của nền kinh tế, cơ cấu các ngành kinh tế là quan trọng nhất, quyết
định các hình thức cơ cấu kinh tế khác. Cơ cấu kinh tế hợp lý là điều kiện để nền
kinh tế tăng trởng, phát triển. Vì vậy CNH, HĐH đòi hỏi phải xây dựng cơ cấu kinh
tế hợp lý, hiện đại.
Cơ cấu kinh tế không ngừng vận động, biến đổi do sự vận động, biến đổi của
lực lợng sản xuất. Xu hớng chuyển dịch cơ cơ cấu kinh tế đợc coi là hợp lý, tiến bộ là
tỷ trọng khu vực công nghiệp và xây dựng, đặc biệt là tỷ trọng khu vực dịch vụ ngày
càng tăng; tỷ trọng khu vực nông, lâm, ng nghiệp và khai khoáng ngày càng giảm
trong tổng giá trị sản phẩm xã hội.
Qúa trình hình thành và phát triển các ngành kinh tế, nhất là những ngành có
hàm lợng khoa học cao; sự xuất hiện các vùng sản xuất chuyên canh tập trung...
không chỉ là biểu hiện của sự phát triển của lực lợng sản xuất, phát triển cơ sở vật
chất - kỹ thuật trong tiến trình CNH, HĐH mà còn làm cho cơ cấu kinh tế thay đổi
tiến độ.
Cơ cấu kinh tế hợp lý trong một nền kinh tế thị trờng hiện đại đòi hỏi công
nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ phát triển mạnh mẽ, hợp lý và đồng bộ.. Mạng lới
dịch vụ với t cách là một ngành kinh tế phát triển mới có thể phục vụ tốt cho sự phát
triển mạnh mẽ các ngành công nghiệp và nông nghiệp.
Đặc biệt coi trọng CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn. Phát triển toàn
diện, nông, lâm, ng nghiệp gần với công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản nhằm
khai thác có hiệu quả tiềm năng đa dạng của nông, lâm, ng nghiệp, bảo đảm vững
chắc yêu cầu an toàn lơng thực cho xã hội; tạo nguồn nguyên liệu có khối lợng lớn,
chất lợng cao, giá thành hạ, đủ tiêu chuẩn đáp ứng yêu cầu của công nghiệp chế biến;
tăng giá trị và khối lợng hàng xuất khẩu; tăng thêm việc làm và thu nhập cho ngời lao
động; phân công lại lao động xã hội, hình thành các điểm công nghiệp gắn liền với
đô thị hóa tại chỗ, mở mang thị trờng sản phẩm và dịch vụ cho công nghiệp.
Để thực hiện nhiệm vụ CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn cần phải chú
trọng đến các vấn đề thủy lợi hóa, áp dụng công nghệ tiến bộ, nhất là công nghệ sinh
học, cơ giới hóa, điện khí hóa; phát triển mạnh công, thơng nghiệp, dịch vụ, du
lịch...; tăng cờng xây dựng kết cấu hạ tầng...
Xây dựng cơ cấu kinh tế cần thiết là yêu cầu khách quan của mỗi nớc trong
thời kỳ CNH. Vấn đề quan trọng là tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý. Một cơ cấu kinh
tế đợc gọi là hợp lý khi nó đáp ứng đợc các yêu cầu sau đây:
- Nông nghiệp phải giảm dần về tỷ trọng; công nghiệp, xây dựng và dịch vụ
phải tăng dần về tỷ trọng.
- Trình độ kỹ thuật của nền kinh tế không ngừng tiến bộ và công nghệ đã và
đang diễn ra rất mạnh mẽ trên thế giới.
- Cho phép khai thác tối đa mọi tiềm năng của đất nớc, của các ngành, các địa
phơng, các thành phần kinh tế.
- Thực hiện sự phân công và hợp tác quốc tế theo xu thế toàn cầu hóa kinh tế,
do vậy cơ cấu kinh tế đợc tạo dựng phải là cơ cấu mở.
ở nớc ta, kể từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đến nay, dới ánh sáng của
đờng lối đổi mới, việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã đạt đợc những thành tựu quan
trọng.
Thông qua cách mạng khoa học - công nghệ và phân công lại lao động với
những tính quy luật vốn có của nó, thích ứng với điều kiện nớc ta, Đảng ta đã xác
định một cơ cấu kinh tế hợp lý mà bộ xơng của nó là cơ cấu kinh tế công - nông
nghiệp - dịch vụ gắn với phân công và hợp tác quốc tế sâu rộng. Mục tiêu phấn đấu
của nớc ta đến năm 2010 là tỷ trọng GDP của nông nghiệp 16 - 17%; công nghiệp 40
- 41%, dịch vụ 42 - 43%.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nớc ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội đợc thực hiện theo phơng châm: kết hợp công nghệ với nhiều trình độ, tranh thủ
công nghệ mũi nhọn tiên tiến vừa tận dụng đợc nguồn lao động dồi dào, vùa cho
phép rút ngán khoảng cách lạc hậu, vừa phù hợp với nguồn vốn có hạn ở trong nớc;
lấy quy mô vừa và nhỏ là chủ yếu, có tính đến quy mô lớn nhng phải là quy mô hợp
lý và có điều kiện; giữ đợc tốc độ tăng trởng hợp lý tạo ra sự cân đối giữa các ngành,
các lĩnh vực kinh tế và các vùng trong nền kinh tế... chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nớc
ta trong những năm trớc mắt cần thực hiện theo định hớng chung sau đây: chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu t dựa trên cơ sở phát huy các thế mạnh và các lợi thế
so sánh của đất nớc, tăng sức cạnh tranh, gắn với nhu cầu thị trờng trong nớc và
ngoài nớc, nhu cầu đời sống nhân dân và quốc phòng, an ninh. Tạo thêm sức mua của
thị trờng trong nớc và mở rộng thị trờng ngoài nớc, đẩy mạnh xuất khẩu.
Thứ ba, Thiết lập quan hệ sản xuất phù hợp theo định hớng xã hội chủ nghĩa.
CNH ở nớc ta nhằm mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội. Do đó, CNH không
chỉ là phát triển lực lợng sản xuất, mà còn là quá trình thiết lập, củng cố và hoàn
thiện quan hệ sản xuất phù hợp theo định hớng xã hội chủ nghĩa.
Theo quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ của lực
lợng sản xuất, bất cứ sự thay đổi nào của quan hệ sản xuất, nhất là quan hệ sở hữu về
t liệu sản xuất, cũng đều là kết quả tất yếu của lực lợng sản xuất. CNH, HĐH không
chỉ là phát triển mạnh lực lợng sản xuất, khơi dậy và khai thác mọi tiềm năng kinh tế,
mọi nguồn lực để thúc đẩy tăng trởng kinh tế và tùy theo trình độ phát triển của lực l-
ợng sản xuất mà quan hệ sản xuất sẽ từng bớc đợc cải biến cho phù hợp.
Trình độ xã hội hóa cao của lực lợng sản xuất hiện đại tất yếu đòi hỏi phải xác
lập chế độ công hữu về những t liệu sản xuất chủ yếu. Vì vậy, khi cơ sở vật chất - kỹ
thuật của chủ nghĩa xã hội đợc xây dựng xong về căn bản thì chế độ công hữu sẽ
chiếm u thế tuyệt đối. Nhng để đạt tới trình độ đó phải trải qua quá trình phát triển
kinh tế - xã hội lâu dài trong đó quan hệ sản xuất đợc cải biến dần từ thấp đến cao
theo trình độ phát triển của lực lợng sản xuất. Tiêu chuẩn căn bản để xét một quan hệ
sản xuất nhất định có phù hợp với tính chất và trình độ lực lợng sản xuất hay không ?
có đúng định hớng xã hội chủ nghĩa hay không, là ở chỗ nó có thể thúc đẩy phát triển
lực lợng sản xuất và cải thiện đời sống nhân dân, tạo điều kiện thực hiện công bằng
xã hội tốt hơn hay không?
1.2. Vai trò của chính quyền cấp tỉnh đối với sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
1.2.1. Xây dựng chiến lợc CNH, HĐH trên địa bàn tỉnh
1.2.1.1. Vai trò của việc xây dựng chiến lợc CNH, HĐH.
CNH, HĐH ở các nớc tiên tiến trên thế giới đã chứng minh rằng, nớc nào xây
dựng chiến lợc CNH, HĐH đúng đắn, nớc đó sẽ thực hiện CNH, HĐH thành công.
Nh đã biết, để phối hợp tốt nhất hoạt động của các chủ thể kinh tế là phải xác
định trớc mục tiêu, nhim v thống nhất. Nh vậy, xây dựng mục tiêu là một điều kiện
không thể thiếu đợc của hoạt động hiệp tác. Vấn đề đặt ra là, sẽ lựa chọn biện pháp
nào trong số nhiều biện pháp để đạt tới mục tiêu? Việc xác định các biện pháp hành
động, từ đó lựa chọn đợc phơng án tối u để đạt đợc mục tiêu gọi là xây dựng chiến l-
ợc. Nh vậy, chiến lợc là một chơng trình hành động tổng quát, dài hạn để đạt đợc
mục tiêu đã xác định.
Trong CNH, HĐH xây dựng chiến lợc là xác định những mục tiêu đạt tới của
trình độ khoa học - công nghệ, của chuyển dịch cơ cấu kinh tế; các bớc đi giải quyết
mục tiêu đó, đồng thời xác định hệ thống những tiền đề m bo thực hiện mục tiêu,
phù hợp với mỗi bớc đi của quá trình CNH, HĐH. Thực chất của xây dựng chiến lợc
CNH, HĐH là, trên cơ sở phân tích và dự báo đúng đắn, đa ra đợc những định h-
ớng hành động, giải pháp phù hợp để thực hiện thành công CNH, HĐH.
Chiến lợc CNH, HĐH có vai trò sau:
- Định hớng hoạt động dài hạn và là cơ sở cho việc thực hiện CNH, HĐH. Nếu
không có chiến lợc hay chiến lợc không phù hợp, tức là chiến lợc thiếu căn cứ khoa
học sẽ làm cho hoạt động mất phơng hớng, chỉ thấy trớc mắt không thấy lâu dài, chỉ
thấy cục bộ mà không thấy toàn cục. Điều đó dẫn đén sự nghiệp CNH, HĐH rất khó
thành công.
- Tạo ra cơ sở để huy động và sử dụng các nguồn lực có hiệu quả nhằm đẩy
nhanh CNH, HĐH. Trong thực tế, phần lớn các sai lầm về đầu t, về nghiên cứu triển
khai công nghệ, phát triển các nguồn lực đều có nguồn gốc từ chỗ thiếu vắng hoặc
sai lệch trong việc xác định chiến lợc CNH, HĐH.
Với vai trò nh vậy, việc xác định chiến lợc CNH, HĐH rất quan trọng.. Xác
định chiến lợc CNH, HĐH đúng đắn giúp ta định hớng, bớc đi đúng đắn, phát huy và
sử dụng các nguồn lực trong và ngoài nớc có hiệu quả nhất, qua đó thúc đẩy nhanh đ-
ợc tiến trình CNH, HĐH.
1.2.1.2. Những yêu cầu của việc xây dựng chiến lợc CNH, HĐH.
Thứ nhất, xác định chiến lợc CNH, HĐH phải phù hợp với điều kiện trong tỉnh.
Để thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH đòi hỏi phải xác định rõ CNH,
HĐH bằng những nguồn lực nào? Nh đã biết, các yếu tố quyết định đến thành bại
của CNH, HĐH mỗi tỉnh về cơ bản bao gồm: nguồn vốn, nguồn nhân lực và tiềm lực
khoa học - công nghệ, trong đó nguồn nhân lực trong tỉnh là yếu tố quyết định nhất.
Nguồn nhân lực đó sẽ quyết định phơng hớng, nội dung, bớc đi và biện pháp CNH,
HĐH; quyết định lựa chọn các yếu tố đầu vào, các nguồn lực khác để thực hiện;
quyết định việc tổ chức và thực hiện sự nghiệp CNH, HĐH. Bởi vì, trong sự nghiệp
CNH, HĐH nếu không có đội ngũ đông đảo những ngời công nhân lành nghề, những
nhà khoa học tài năng, những nhà doanh nghiệp năng động, những nhà lãnh đạo,
qun lý tận tuỵ, biết nhìn xa trông rộng thì sự nghiệp CNH, HĐH khó có thể thành