Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

CÁC GIẢI PHÁP ĐỂ NÂNG CAO VAI TRÒ ĐIỀU TIẾT VĨ MÔ NỀN KINH TẾ THỊ TRƯẤNG CỦA NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (120.36 KB, 14 trang )

CÁC GIẢI PHÁP ĐỂ NÂNG CAO VAI TRÒ ĐIỀU TIẾT VĨ MÔ NỀN
KINH TẾ THỊ TRƯẤNG CỦA NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
I. Các giải pháp tăng thu ngân sách nhà nước :
Ở đây ta chỉ đề cập đến giải pháp tăng thu thuế vì thuế là yếu tố quan trọng
quyết định quy mô ngân sách nhà nước
Muốn có dược những chính sách thuế đúng đắn thì chúng ta cần phải đưa ra
các vấn đề liên quan đến cải cách hệ thống thuế.
Một là: Mức độ méo mó liên quan đến mức thuế xuất cận biên. Do đó càn
phải thiết kế một hệ thống thuế với thuế xuất cận biên thấp.
Hai là: Tránh thuế liên quan đến tính chất luỹ tiến của chế độ thuế và đánh
thuế vốn, cụ thể là đánh thuế các loại thu nhập khác nhau từ vốn tới các thuế xuất
khác nhau. Việc giảm thuế xuất cận biên sẽ làm giảm động cơ chốn thuế và tránh
thuế. Giảm hoặc bỏ ưu đải thuế thu nhập có thể làm giảm động cơ và khả năng
trung gian thuế.
Ba là tính phức tạp của luật thuế do nhiều nguyên nhân giống nhau gây ra
hiện tượng tránh thuế. Ví dụ như khi các loại thu nhập khác nhau bị đánh thuế
khác nhau, các cá nhân sẽ cố để thu nhập của họ được ưu đãi nhất. Đây dường như
là qui tắc chung. Việc xác định những vấn đề trong lĩnh vực thuế một cách rõ ràng
của luật thuế trên thực tế còn khó khăn so với lý thuyết. Ngoài việc làm cho luật
thuế ít luỹ tiến hơn và ít công bằng hơn vì một số người có khả năng lợi dụng các
mưu mẹo trốn thuế và tránh thuế hơn là nhưng người khác, việc tránh thuế và trốn
thuế còn gây ra những phi hiệu quả rất quan trọng. Không chỉ những chi phí liên
quan đến việc thiết kế và thực hiện chế độ này như lệ phí nộp cho các kế toán viên,
luật sư mà còn có những thiệt hại, mất mát do những méo mó trong phân phối lại
các nguồn lực không đúng chỗ cho mưu mẹo tránh thuế gây ra. Ví dụ: che chở thuế
cho các ngành dầu khí sẽ làm cho đầu tư đổ dồn vào các ngành này.
Một lập luận hoàn toàn khác lại nghiêng về các loại thuế đơn giản, trực tiếp:
thuế tốt là thuế có đặc tính cho phép người ta biết được nó rơi vào ai và ai chịu
thuế đó. Bởi vì gánh nặng thuế có thể chuyển hoặc cho người tiêu dùng hoặc cho
cổ đông, do đó thuế thu nhập công ty là thuế rất tồi.
Những nguyên tắc chung mà ta đã nêu thường đối lập với các nguyên tắc


hoặc mục tiêu khác của chính sách công cộng. Có những người cho rằng thuế tốt là
thuế không gây ra đau đớn tức là: “ Nghệ thuật đánh thuế là ở việc đánh thuế sao
cho vừa thu được nhiều thuế nhất song nó lại ít bị kêu nhất” thuế thu nhập công ty
có thể là thuế tốt về mặt này.
Tương tự chúng ta đã nêu ở phần trước rằng nhờ phân biệt làm cho luật thuế
phức tạp, bất công chắc chắn sẽ gây ra méo mó, nhưng ít nhất cũng làm cho công
chúng cảm nhận được một phần là hệ thống thuế phản ánh đúng hơn quan điểm về
công bằng và một phần là nâng cao hiệu quả về phân bố các nguồn lực như cho
vay tín dụng để tiết kiệm năng lượng được đáp ứng vì người ta cho rằng động cơ
cá nhân trong việc tiết kiệm năng lượng là chưa đủ.
Điều đã trở nên rõ ràng hơn là hệ thống thuế không thể làm được tất cả. Nếu
chúng ta yêu cầu nó làm quá nhiều thì có thể nó không đạt được mục tiêu nào hoàn
chỉnh. Những vấn đề cơ bản mà cải cách thuế gặp phải là:
- Có cách gì để đơn giản hệ thống thuế mà không làm tổn hại đến các mục
tiêu phân phối và đạt hiệu quả khinh tế cao không? Điều này quan trọng đối với
những cải cách có thể chấp nhận về mặt chính trị.
Hệ thống thuế được xem là công cụ khá hữu hiệu để nghiên cứu mục đích
phi thu nhập. Ví dụ việc xây dựng chế độ trợ cấp trực tiếp nhằm thúc đẩy việc tiết
kiệm năng lượng đáng lẽ là rất khó thực hiện. Nhưng bằng cách khuyến khích tiết
kiệm năng lượng thông qua thuế đã tỏ ra rất hữu hiệu và ít tốn kém về mặt hành
chính đồng thời mục tiêu quốc gia đã đạt được. Thực vậy đã có truyền thống lâu
dài trong kinh tế học về sự sử dụng các loại thuế đúng đắn để giảm bớt những chi
phí phi hiệu quả do các yếu tố ngoại lai gây ra. Nếu việc đơn giản hoá hệ thống
thuế đòi hỏi phải bỏ việc sử dụng các loại thuế đúng đắn thì có cách nào khác để
đạt được mục tiêu này không, để ít nhất cũng giữ được mức độ hiệu quả tương tự
đã đạt được hiện nay.
Từ các nhận định trên ta thấy, để đạt được hiệu quả trong quá trình thu và sử
dụng thuế ta phải có các biện pháp sau:
a. Cải cách bộ phận hành thu- chống thất thu thuế:
Cần thực hiện thật tốt các nghiệp vụ hành thu, các biện pháp quản lý đối với

những loại thuế trong từng khu vực, trong từng dạng đang hoạt động kinh doanh,
các biện pháp quản lý đối tượng, quản lý doanh số.
Các biện pháp cải tiến hành thu và chống thất thu thuế của ngành thuế đã đề ra
là:
- Thực hiện bằng được quy trình quản lý các đối tượng nộp thuế.
+ Bộ phận quản lý các đối tượng nộp thuế.
+ Bộ phận tính thuế và phát hành thông báo thuế.
+ Bộ phận kiểm tra giám sát lẫn nhau trong quá trình quản lý thu nộp thuế.
- Củng cố và nâng cao tinh thần trách nhiệm, nghiệp vụ chuyên môn cho các
cán bộ chuyên quản các doanh nghiệp để thu thuế có hiệu quả.
- Đồng thời nắm bắt được những khó khăn vướng mắc trong quản lý kinh
doanh, trong thực hiện các luật thuế của các đơn vị để có kiến nghị tháo gỡ khó
khăn giúp sản xuất phát triển.
- Làm tốt công tác đào tạo và bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn, đạo đức kinh tế
với các cán bộ thuế, dần dần đưa khoa học công nghệ vào việc quản lý thuế ở các
cấp. Đặc biệt chú ý tới những cán bộ chủ chốt, những cán bộ nào không đáp ứng
được những yêu cầu trong giai đoạn mới thì phải cương quyết thay thế. Việc lên
hoặc xuống hoặc luân chuyển phải trở thành bình thường để không ngừng đổi mới.
Tạo ra một đội ngũ cán bộ có phẩm chất đạo đức tốt, giỏi về chuyên môn nghiệp
vụ.
- Riêng đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài:
+ Phối hợp với cơ quan liên quan nắm toàn bộ dự án đầu tư trên địa bàn và
một số đã đi vào hoạt động, số đã hết thời hạn ưu đãi miễn thuế, nắm rõ diện tích
đất sử dụng, thời hạn sử dụng của từng dự án để tính và thu đủ các khoản thuế phát
sinh, các khoản tiền thuê đất, mặt nước, mặt biển...
+ Quản lý chặt chẽ các hoạt động đầu tư, các dạng kinh doanh, các thủ đoạn chốn
thuế như là: nâng giá đầu vào, hạ giá bán sản phẩm, chuyển lợi nhuận về nước
dưới dạng xuất khẩu, chuyển giá hoặc chuyển đối tác mà thực chất là bán cổ phần
để có biện pháp thu thích hợp chống thất thu có hiệu quả.
+ Thực hiện việc kiểm tra, việc kê khai nộp thuế theo đúng quy định về thuế

xuất. Đối tượng chịu thuế, quyết toán thuế và các khoản nộp ngân sách những năm
trước để thu dứt điểm số thuế tồn đọng trong khu vực kinh tế này, kiên quyết xử lý
các hành vi vi phạm luật thuế.
+ Tổ chức quản lý cho bằng được các hoạt động kinh tế, nhất là các loại dịch
vụ của tổ chức người nước ngoài hoạt động ở Việt Nam phải nộp thuế cho Việt
Nam.
+ Trong các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, các văn phòng đại diện thường
phải chi tiền cho các nhân viên của mình thuê nhà ở, phải kiểm tra nắm cho được
số chi và thông báo cho cục thuế quản lý người có nhà cho thuê để tính đủ thuế.
+ Kiên quyết không nhận những chi phí bất hợp lý, thu tiền cho ngân sách nhà
nước.
b. Vận dụng chính sách thuế để thu hút đầu tư nước ngoài và phát triển kinh
tế:
Qua các kinh nghiệm của một số nước phát triển như Nhật Bản, Hàn
Quốc....đã vận dụng chính sách thuế linh hoạt để đIều chỉnh tốc độ tăng trưởng
kinh tế. Một khi nền kinh tế suy thoái, chính phủ Nhật lập tức cắt giảm thuế đánh
vào công ty và cho phép khấu hao cơ bản nhanh để khuyến khích đầu tư. Khi nền
kinh tế phát triển mạnh thì chính phủ áp dụng biện pháp ngược lại để cân bằng nền
kinh tế.
Trong tình hình kinh tế các nước trong khu vực sửa đổi luật đầu tư nước
ngoài cho thoáng hơn, Việt Nam cũng tự điều chỉnh lại các chính sách thuế cùng
với các ưu đãi về thuế trong luật đầu tư nước ngoài. Nhất là từ khi Việt Nam tham
gia khối các nước Asean và chuẩn bị gia nhập vào WTO… Chính vì phải cạnh
tranh để thu hút đầu tư nước ngoài, các ước thường có ưu đãi về thuế cho các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hơn là các doanh nghiệp trong nước. Mặc
dù có nhiều ý kiến đề nghị thống nhất thuế lợi tức giữa các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài và các doanh nghiệp trong nước, trong giai đoạn hiện nay Việt
Nam vẫn còn phải chờ thêm một thời gian nữa cho phép giảm thuế đánh vào lợi
nhuận của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong một thời hạn nhất định,
cho phép khấu hao nhanh đối với một ngành trọng đIểm cần đổi mới nhanh trang

thiết bị công nghệ và kỹ thuật tạo đIều kiện cho tái đầu tư , đầu tư chiều sâu cho
quá trình sán xuất nâng cao hiệu qủa kinh doanh, theo thống kê của nghành thuế
cho thấy mức thu thuế trong khu vực đầu tư nưốc ngoài phát triến nhanh, đạt và
vượt nước kế hoạch hàng năm, mặc dù khâu quản lý thuế ở khu vực này chưa chặt
chẽ .

×