Thực trạng và giải pháp về loại hình Công ty cung cấp dịch
vụ nhân sự
I- Thực trạng về loại hình Công ty cung cấp dịch vụ nhân sự:
1- Sự hình thành và phát triển các công ty cung cấp dịch vụ nhân
sự ở Việt Nam
1.1. Quá trình hình thành và phát triển trung tâm dịch vụ dịch vụ việc
làm
Nhà tuyển dụng luôn muốn tuyển dụng lao động phù hợp cho doanh
nghiệp, họ cần một khâu trung gian giúp cho việc tuyển dụng lao động của
mình
Người lao động mong muốn có việc làm nhưng để tìm được việc làm
thích hợp, họ cần một cơ quan trung gian môi giới cho họ
Xuất phát từ nhu cầu đó dịch vụ việc làm đã ra đời. Sự ra đời của dịch
vụ việc làm cho nền kinh tế thêm năng động và hoàn thiện thêm thị trường lao
động
Trước năm 1986 thì nước ta vận hành theo cơ chế kế hoạch hoá tập
trung bao cấp nên dịch vụ việc làm chưa hình thành
Năm 1986 - 1991 thì nền kinh tế chuyển sang vận hành theo cơ chế thị
trường, thị trường lao động được hình thành, dịch vụ việc làm cũng được hình
thành từ đó
Từ năm 1992 - 1994 theo tinh thần Nghị quyết 120, Hội đồng Bộ trưởng
nay là Chính phủ) thì "Trung tâm dạy nghề và dịch vụ việc làm ra đời và từ
năm 1993 đổi tên là "Trung tâm xúc tiến việc làm"
1
Năm 1995 - 2000 thì hệ thống văn bản pháp luật về "Trung tâm dịch vụ
việc làm" ngày càng hoàn thiện và việc tổ chức và hoạt động là theo quy định
tại thông tư số 08/LĐTBXH - thị trường
1.2- Sự cần thiết thành lập Công ty cung cấp dịch vụ nhân sự:
Trước hết, chúng ta đều nhận thấy rằng thị trường lao động của Việt
Nam đã và đang phát triển có rất nhiều tiêu chế để phân loại thị trường
• Thị trường lao động trong nước
• Thị trường lao động ngoài nước
• Thị trường lao động khu vực, vùng
• Thị trường kinh doanh thành thị
• Thị trường lao động nông thôn
• Thị trường lao động có trình độ chuyên môn - kỹ thuật
• Thị trường lao động phổ thông
• Thị trường lao động chất xám
• v.v.v.
Trước kia, khi chưa xuất hiện hình thức dịch vụ việc làm và sau này là
các công ty cung cấp dịch vụ nhân sự thì sẽ xẩy ra trường hợp: "cái đối tác có
thì mình không cần, cái đối tác cần thì mình không có". Vì vậy, quá trình hoà
hợp cung cầu lao động sẽ diễn ra chậm. Nhờ có Công ty cung cấp dịch vụ
nhân sự ra đời nó đã thay đổi tình trạng trên theo hướng tích cực. Công ty
cung cấp nhân sự sẽ đào tạo, đào tạo và đinh hướng cho người lao động bằng
cách giúp người lao động nhìn thấy nhu cầu về lao động xã hội và điều chỉnh
cho phù hợp với nhu cầu xã hội
2
Hiện nay một thực trạng nữa cần phải cảch báo là dân số của Việt Nam
vẫn tăng rất nhanh. Vì vậy lực lượng lao động ngày càng tăng kéo theo tỷ lệ
thất nghiệp. Cung về lao động ở Việt Nam là lớn.
- Lực lượng lao động cả nước hàng năm có xu hướng là tăng lên.
Năm 1996 LLLĐ cả nước là 35.187 triệu người, năm 2003 là
41.313 triệu người: tốc độ tăng trung bình hăng năm là 2.32%.
LLLĐ năm 1999 có tốc độ tăng so với năm trước là cao
nhất(3.29%); tốc độ tăng của LLLĐ năm 2003 so với năm 2002 là
1.46%
- Năm 1996 cả nước có 629 nghìn người thất nghiệp với tỷ lệ thất
nghiệp chung là1.97%; năm 2003 số người thất nghiệp tăng lên
940 nghìn người với tỷ lệ thất nghiệp chung là 2.27%. Tỷ lệ thất
nghiệp của LLLĐ cả nước nói chung là thấp và có xu hướng gia
tăng cả về số lượng và tỷ lệ.
Nhu cầu về lao động không phải là ít, đặc biệt là nhu cầu về lao động có
trình độ chuyên môn kỹ thuật cao không phải nhỏ. Hiện tại trên thị trường
Việt Nam, các vị trí cấp cao của các Công ty thường có mức lương khoảng
1.500 USD trở lên nhưng cũng không hiếm những vị trí cao đến 5.000 -
10.000 USD. Với những vị trí cao như vậy, nhiều Công ty phải giành giật
nhau để có được người tốt nhất
1
. Có thể nói cung về lao động ở vị trí cấp cao
khong đuổi kịp cầu vì nhu cầu về tuyển dụng vị trí giám đốc đang tăn lên rất
cao. Nếu cách đây 7 - 8 năm, vị trí giám đốc, giám đốc bộ phận, trưởng phòng
ở các Công ty nước ngoài, Công ty đa quốc gia, đa số là do người nước ngoài
đảm trách thì hiện tại có khoảng 80% những vị trí cao cấp do người Việt Nam
đảm nhận. Theo thống kê chưa đầy đủ, trong 2.000 Công ty nước ngoài có đầu
1(*) www.nldcom.vn
3
tư lớn tại Hồ Chí Minh, mỗi Cty chỉ cần vài ba cá nhân xuất sắc cho bộ khung
hoạt động, loại trừ số đã có thì cần khoảng 700 - 800 người
Một vấn đề nữa thể hiện tính cấp thiết phải cho ra đời một Công ty cung
cấp nhân sự với quy mô lớn là chúng ta sắp gia nhập WTO. Trong quá trình
đàm phán gia nhập WTO thì việc diễn giải về nội hàm của từng loại hình dịch
vụ cũng phải tuên theo định nghĩa WTO quy định tức là theo hệ thống CPC.
Với tư cách là nước xin gia nhập, ta không thể đưa ra khái niệm mà WTO
không sử dụng, nhưng lại phải hiểu và áp dụng những khái niệm của WTO để
sử dụng diễn giải luật pháp quốc gia. Nói một cách rộng hơn, để hội nhập
quốc tế, chúng ta phải dùng thứ ngôn ngữ chung với quốc tế, nghĩa là những
định nghĩa, khái niệm phải tương thích với quốc tế, nhất là trong văn bản
mang tính pháp luật. Loại hình Công ty cung cấp dịch vụ nhân sự thực chất đã
tồn tại ở Việt Nam đó là những Công ty cung cấp dịch vụ nhân sự dịch vụ bảo
vệ, vệ sinh, láu xe, phiên dịch,... Việc ra đời của các Công ty cung cấp nhân sự
với quy mô lớn ở Việt Nam không phải là không thể bởi loại hình dịch vụ này
đang tồn tại trong cuộc sống và đặc biệt là phát triển ở một số nước lớn như:
Mỹ, Nhật,...
Công ty cung cấp dịch vụ nhân sự góp phần quản lý lực lượng lao động
được hợp lý hơn và cung cấp cho người sử dụng lao động một lực lượng lao
động như mong muốn đáp ứng nhu cầu về lao động mang tính thời hạn hoặc
lâu dài. Nó góp phần giải quyết lao động cho một bộ phận lớn
Từ những lý do nêu trên có thể thấy sự cần thiết của việc cho ra đời một
Công ty cung cấp dịch vụ nhân sự phù hợp với pháp luật Việt Nam
4
1.3. Cơ sở pháp lý cho sự ra đời và hoạt động của công ty cung cấp dịch vụ
nhân sự
Công ty cung cấp dịch vụ nhân sự là chủ thể cơ bản trong hoạt động sản
xuất kinh doanh dịch vụ. Pháp luật về doanh nghiệp là chế định pháp luật
trung tâm của pháp luật kinh tế. Vì vậy, loại hình Công ty cung cấp dịch vụ
nhân sự cũng bị chi phối bởi pháp luật về doanh nghiệp
Theo điều 3.1. Luật doanh nghiệp do Quốc hội thông qua ngày
12/6/1999: "Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản có trụ sở
giao dịch ổn định, đợc đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm
mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh"
Luật Công ty (do Quốc hội thông qua ngày 21/12/1990) đã đưa ra định
nghĩa Công ty là "Doanh nghiệp trong đó các thành viên cùng góp vốn, cùng
chia nhau lợi nhuận, cùng chịu lỗ tương ứng với phần vốn góp và chịu trách
nhiệm về các khoản nợ của Công ty trong phạm vi phần vốn của mình vào
Công ty” (Điều 1)
Luật doanh nghiệp đã không chỉ ra định nghĩa về Công ty cung cấp dịch
vụ nhân sự. Tuy nhiên, căn cứ vào tính chất quy chế của các loại Công ty theo
luật doanh nghiệp, có thể nhận thấy Công ty cung cấp dịch vụ nhân sự theo
pháp luật Việt Nam cũng phải có những đặc điểm cơ bản của một Công ty đó
là:
- Là loại doanh nghiệp được thành lập bằng cách góp vốn của các thành
viên. Người góp vốn vào Công ty cung cấp dịch vụ nhân sự - kể cả là Công ty
một thành viên - phải chuyển quyền sở hữu tài sản góp vốn cho Công ty theo
quy định của pháp luật
5
- Thành viên góp vốn có thể là cá nhân hoặc pháp nhân, Công ty có thể
có một hoặc nhiều thành viên, thành viên của Công ty có thể được quy
định tối đa hoặc tối thiểu
2- Thực trạng tổ chức và hoạt động của Công ty cung cấp dịch vụ
nhân sự ở Việt Nam
2.1. Tổ chức của Công ty cung cấp dịch vụ nhân sự
Hiện nay các Công ty cung cấp dịch vụ nhân sự là các Công ty tư nhân
hoặc được xây dựng dưới dạng Công ty TNHH, Công ty cổ phần và các Công
ty liên doanh với nước ngoài. Chúng ta có thể liệt kê một số Công ty hoạt
động với hình thức cung cấp dịch vụ nhân sự là:
• Công ty TNHH Hoàn Mỹ chuyên cung cấp dịch vụ
làm sạch
• Công ty SPD cung cấp dịch vụ bảo vệ
• Công ty Cổ phần đại gia cung cấp dịch vụ bảo vệ
• Công ty Hoàng Gia cung cấp dịch vụ nhân sự
• Công ty liên doanh YK - SET - ERE - 24 liên
doanh với Nhật
• Công ty Mạnh Dũng,…
Và có một số Công ty tư vấn tuyển dụng nhân lực cấp cao cho một số
Công ty là PWC; Earnt & Young (Pricenater Coopers)
Công Navigos Group, Công ty Hải Long,…
Về mặt pháp lý để cho các Công ty này tồn tại và phát triển vẫn là luật
doanh nghiệp. Và về mối quan hệ lao động giữa các bên chưa có quy định.
6